MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ BỘ KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ
VÀ VỤ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 3
I. Khái quát chung về Bộ Kế hoạch - Đầu tư 3
1. Quá trình hình thành và phát triển của Bộ Kế hoạch - Đầu tư 3
2. Chức năng, nhiệm vụ, và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch- Đầu tư 4
2.1. Chức năng 4
2.2. Nhiệm vụ 4
2.3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và đầu tư 5
II. Tổng quan về Vụ đầu tư nước ngoài 6
1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Vụ đầu tư nước ngoài 6
1.1. Chức năng 7
1.2. Nhiệm vụ 7
1.3. Cơ cấu tổ chức của Vụ Đầu tư nước ngoài 7
2. Kết quả các hoạt động chính của Vụ Đầu tư nước ngoài
trong năm 2002 8
2.1. Về xây dựng chủ trương, chính sách về Đầu tư nước ngoài. 8
2.1.1. Vụ Đầu tư nước ngoài đã chủ trì, xây dựng các đề án. 8
2.1.2. Vụ Đầu tư nước ngoài đã phối hợp với các Vụ khác
trong Bộ xây dựng các đề án có liên quan đến
đầu tư nước ngoài. 9
2.1.3. Tham gia với các Vụ, Viện xây dựng các đề án chung
của Bộ ( Vụ đầu tư nước ngoài chuẩn bị nội dung liên quan
đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài). 9
2.2. Tiếp nhận và xử lý các dự án đầu tư nước ngoài 9
2.2.1. Tiếp nhận, xử lý cấp Giấy phép đầu tư. 9
2.2.2. Trả lời chủ trương về đầu tư nước ngoài 9
2.3. Tổ chức các cuộc gặp các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài 10
2.4. Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền về
Đầu tư nước ngoài 10
2.5. Vận động, xúc tiến đầu tư hợp tác quốc tế 10
3. Chương trình hành động năm 2003 11
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở
VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ GIAI ĐOẠN 1996-2002 12
I. Tình hình cấp Giấy phép đầu tư 12
II. Tình hình thực hiện dự án 12
1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư 12
2. Tình hình triển khai dự án 13
3. Điều chỉnh Giấy phép đầu tư 15
4. Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn 15
III. Đầu tư nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực chủ yếu 16
IV. Đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư 16
1. Hình thức doanh nghiệp liên doanh 16
2. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 18
3. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD) 20
4. Đầu tư theo phương thức BOT 20
V. Đầu tư nước ngoài theo đối tác đầu tư 21
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐTTTNN TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1996-2002 VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG GIAI ĐOẠN 2003-2005 24
I. Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam
giai đoạn 1996-2002 24
1. Những thành tựu đạt được 24
2. Những tồn tại, hạn chế 27
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn
ĐTNN giai đoạn 2003-2005 30
1. Chủ trương thu hút, sử dụng ĐTNN trong thời gian tới 30
2. Các giải pháp thu hút, sử dụng ĐTNN giai đoạn 2003-2005 32
KẾT LUẬN 39
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 40
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tổng hợp tại Vụ đầu tư nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
... thì những năm 1996-2000 nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến, sử dụng hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động:
+ Nguồn vốn ĐTNN chủ yếu tập trung trong các ngành công nghiệp và xây dựng với số vốn đăng ký tính đến cuối năm 2000 đạt 20,8 tỷ USD; trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 55,8% giai đoạn 1996-2000. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kỳ 1988-1990 lên 56% thời kỳ 1991-1995 và tăng lên 73% thời kỳ 1996-2000.
+ ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ tính đến cuối năm 2000 đạt 16,3 tỷ USD, trong đó, thời kỳ 1996-2000, đạt trên 8,7 tỷ USD, tuy vẫn duy trì tỷ trọng khoảng 42% trong tổng vốn đăng ký như thời kỳ 1991-1995 nhưng cơ cấu có sự chuyển dịch rõ rệt. ĐTNN về khách sạn du lịch, dịch vụ, văn phòng cho thuê giảm mạnh (vốn đăng ký thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt 2,8 tỷ USD, giảm 52% so với 5 năm trước), trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kinh tế kỹ thuật như bưu chính viễn thông, dịch vụ công nghiệp, dịch vụ kỹ thuật, giáo dục, y tế tăng mạnh (gấp 2,4 lần 5 năm trước). (Nguồn: Báo cáo tình hình ĐTTTNN trình Chính phủ số 40/BKH-ĐTNN của Bộ Kế hoạch - Đầu tư)
IV. Đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư
1. Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Với 1035 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký khoảng 21,5 tỷ USD, doanh nghiệp liên doanh là hình thức ĐTNN chủ yếu, chiếm 40% số dự án dự án và 59% vốn đầu tư. Quy mô bình quân mỗi dự án 20,7 triệu USD, trong đó có những dự án vốn đầu tư tới hàng tỷ USD như Liên doanh Nhà máy lọc dầu Vietross tại Quảng Ngãi (1,3 tỷ USD).
Đến hết năm 2000, số vốn đã thực hiện của các doanh nghiệp liên doanh đạt hơn 9,7 tỷ USD, tạo ra hơn 140.000 việc làm. Xuất phát từ định hướng thu hút đầu tư của Nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp lớn, hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí, sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử... đều là doanh nghiệp liên doanh. Các doanh nghiệp liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam (bị suy thoái do thiếu vốn, thiếu vật tư, công nghệ lạc hậu, mất thị trường khi Liên xô và Đông Âu tan rã), cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tiếp thu được công nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn)
Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nêu trên, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế:
- Khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, bình quân chỉ chiếm chưa đầy 30% vốn pháp định và bằng khoảng 10% vốn đầu tư của các liên doanh; vốn góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất.
Với cơ chế doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam nhận nợ (trước đây) và ghi vốn (hiện nay), nhưng khi doanh nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hoặc liên doanh thua lỗ thì Nhà nước không thu được tiền cho thuê đất để góp vốn; trong khi đó, nếu cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuê đất, thì Nhà nước thu được ngay tiền cho thuê đất. Ngoài ra, với cơ chế hiện nay, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có thể liên doanh với nước ngoài thậm chí trong những ngành nghề chuyên môn không phù hợp với chức năng, sở trường kinh doanh của Bên Việt Nam.
- Một trong những mục tiêu của việc liên doanh là đưa cán bộ Việt Nam vào tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp nhằm bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam, của Nhà nước, tiếp thu kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ của ta chưa đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất chính trị, nên không phát huy được tác dụng đại diện cho phía Việt Nam; hoặc chấp nhận "làm thuê" cho nước ngoài để hưởng lương cao, lo thu vén lợi ích cá nhân, thụ động theo sự điều hành của Bên nước ngoài, không dám đấu tranh bảo vệ lợi ích chung của Việt Nam, thậm chí đứng về phía lợi ích của bên nước ngoài.
- Tuy không phổ biến, nhưng vẫn còn hiện tượng một số đối tác nước ngoài trong liên doanh ( nhất là các đối tác nước ngoài mà công ty mẹ của họ là bên cung cấp thiết bị, nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm) đã khai vống các chi phí đầu tư, nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu ra thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài ngay từ đầu, hạch toán lỗ cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không có khả năng kiểm soát được.
Ngoài ra, nhiều đối tác có mục tiêu lâu dài là chiếm lĩnh thị phần ở Việt Nam, nên họ thực hiện chính sách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo với chi phí lớn và giá bán thấp nhằm cạnh tranh, thậm chí chấp nhận lỗ những năm đầu. Trong khi đó, ta chưa có luật chống độc quyền, chống bán phá giá nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh. Giữa các Bên liên doanh nảy sinh hàng loạt bất đồng về chiến lược kinh doanh, phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp, tài chính, quyết toán công trình... dẫn đến tình trạng mâu thuẫn diễn ra khá phổ biến, ảnh hưởng đến việc triển khai dự án, và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự đổ vỡ của nhiều dự án.
Những hạn chế nêu trên một phần phát sinh từ cách nhìn nhận khác nhau về các hình thức ĐTNN ở Việt Nam. Trong những năm đầu hợp tác đầu tư với nước ngoài, do quan niệm hình thức doanh nghiệp liên doanh có nhiều lợi thế hơn cho phía Việt Nam, chúng ta chủ trương hướng nhà ĐTNN đầu tư theo hình thức này kèm theo một số chính sách ưu đãi hơn hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhưng lại ràng buộc những quy định chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ quyền lợi của các đối tác Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Trong nhiều trường hợp, nhà ĐTNN còn bị áp đặt về đối tác Việt Nam, tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư, chịu sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý cấp trên của đối tác Việt Nam vào quá trình sản xuất kinh doanh, gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều lý do khác nhau, liên doanh không phải là hình thức có ưu việt nổi trội trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế của phiá Việt Nam so với các hình thức đầu tư khác. Nhiều trường hợp doanh nghiệp Việt Nam không đủ khả năng tài chính để tham gia liên doanh, nên sau một thời gian triển khai dự án, dù không mong muốn cũng đã buộc phải đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc giải thể, hoặc phải chuyển nhượng vốn góp cho đối tác nưóc ngoài. Tỷ lệ đổ vỡ của các dự án liên doanh khá cao. (Khoảng 28% về số dự án và 17% về vốn đầu tư).
2. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Với 1.459 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đăng ký 10,7 tỷ USD, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tuy chiếm 55,5% số dự án nhưng số vốn đăng ký chỉ chiếm 29,4%. Đầu tư theo hình thức này có chiều hướng gia tăng. Xu hướng này một mặt là do những năm gần đây ta chủ trương cho phép nhà ĐTNN chủ động lựa chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ lĩnh vực đầu tư có điều kiện), cho doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh; mặt khác còn do thời gian qua ta phát triển mạnh các khu công nghiệp, mà ở đó hình thức ĐTNN chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các KCN). Tuy nhiên tỷ trọng về vốn đăng ký của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong tổng vốn đăng ký (chiếm 29,4%) vẫn nhỏ hơn nhiều so với hình thức liên doanh (chiếm 59% tổng vốn đầu tư đăng ký). Quy mô vốn bình quân mỗi dự án cũng nhỏ hơn, chỉ khoảng 7.3 triệu USD (liên doanh là 20,7 triệu USD).
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến và số vốn đã thực hiện đến hết năm 2000 đạt 5,3 tỷ USD, tạo ra 200.000 việc làm. Nhìn chung tốc độ triển khai thực hiện dự án của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ các dự án bị thất bại thấp hơn nhiều so với các hình thức đầu tư khác. (Tỷ lệ giải thể trước thời hạn chỉ chiếm 7,1% về số dự án và 11,7 % về vốn đầu tư). (Nguồn: Tài liệu đã dẫn)
Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động hơn trong lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, điều hành sản xuất - kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực chất là các chi nhánh, các công ty con trong mạng lưới toàn cầu của các công ty đa quốc gia, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận thị trường thế giới... Nhiều tập đoàn có chiến lược địa phương hoá nhân viên quản lý để tiết kiệm chi phí. Ngoài một số ít vị trí chủ chốt do người nước ngoài nắm giữ, họ có chủ trương đào tạo, sử dụng người Việt Nam quản lý, điều hành doanh nghiệp. Như vậy, đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài vẫn tạo điều kiện cho việc thu hút vốn, học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ tiên tiến, giải quyết việc làm cho người lao động, tiếp cận thị trường thế giới. Xét một cách tổng thể, lợi ích của phía Việt Nam vẫn bảo đảm trong trường hợp cho đầu tư 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, vì toàn bộ quá trình kinh doanh do nhà đầu tư nước ngoài chi phối, nên cần có các quy định ngăn ngừa họ không trung thực trong báo cáo tài chính, gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các doanh nghiệp trong nước...
3. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD)
Hình thức HĐHTKD chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí (hai bên cùng tiến hành, bên nước ngoài bỏ vốn tìm kiếm, thăm dò; nếu có phát hiện thương mại thì chia cho bên Việt Nam theo các tỷ lệ quy định); các dự án liên lạc điện thoại nội hạt, viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. (Bên nước ngoài chỉ đầu tư vốn và thiết bị, còn Bên Việt Nam nắm toàn quyền quản lý, điều hành dự án).
Tính đến hết năm 2000 có 130 dự án theo hình thức HĐHTKD còn hoạt động, tổng vốn đầu tư 3,8 tỷ USD (chiếm 5% số dự án đang hoạt động và 10,5% vốn đầu tư). Hình thức đầu tư này đã góp phần tích cực vào việc phát triển, hiện đại hoá ngành dầu khí, ngành bưu chính-viễn thông Việt Nam, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành thăm dò đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí.
Những vấn đề nảy sinh khi triển khai theo hình thức HĐHTKD hiện nay là:
- Đối tác nước ngoài bị coi là không thường trú tại Việt Nam nên không có tư cách pháp nhân, do vậy, không được đứng tên ký hợp đồng thuê nhà, thuê lao động địa phương; không được vay tiền Việt Nam... (Gần đây, với Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Luật ĐTNN, quy định này có được thay đổi ít nhiều).
- Trong quá trình thực hiện dự án, nhất là đối lĩnh vực bưu chính viễn thông, do không được quyền tham gia điều hành, quản lý dự án làm cho nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tỏ ra ít quan tâm đến hình thức này. Về mặt pháp lý, đây là một hình thức hợp tác tương đối lỏng lẻo, chỉ phù hợp với việc thực hiện một mục tiêu cụ thể trong một thời hạn ngắn, nên nhiều trường hợp tranh chấp giữa các bên hợp doanh đã xảy ra mà không được giải quyết dứt điểm.
- Tỷ lệ dự án bị giải thể trước thời hạn khá cao, chiếm 26,6% về số dự án và 16,3% về vốn đăng ký đã cấp phép. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn)
4. Đầu tư theo phương thức BOT
Tính đến nay, đã cấp GPĐT cho 5 dự án BOT, trong đó có 3 dự án BOT cung cấp nước sạch cho thành phố Hồ Chí Minh (Bình An - 100.000 m3/ngày, Thủ Đức- 300.000 m3/ngày, Sài Gòn II - 300.000 m3/ngày), 1 dự án sản xuất điện (Wartsila - 120 MW), 1 dự án Cảng Quốc tế Vũng Tàu (đã rút Giấy phép đầu tư). Nhìn chung, do nhiều nguyên nhân, hình thức đầu tư này chưa thành công, chưa mở rộng được, một số dự án đã cấp phép cũng rất khó triển khai thực hiện. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn)
Qua thực tế cấp GPĐT và quản lý các dự án BOT, bước đầu cho thấy:
- Dự án BOT là dự án thực hiện Hợp đồng ký giữa Nhà ĐTNN và Chính phủ Việt Nam để xây dựng và vận hành một dự án nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách về một sản phẩm nhất định để bảo đảm sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, do đa số các dự án BOT có phạm vi áp dụng không rộng, điều kiện thực hiện phức tạp nên thường mất nhiều thời gian để giải quyết những thủ tục ban đầu như hoàn chỉnh việc đàm phán, ký kết Hợp đồng BOT, Hợp đồng mua bán sản phẩm, thu xếp phương án tài chính, các thỏa thuận về việc chuyển đổi ngoại tệ, giải phóng mặt bằng, trong khi đây là phương thức đầu tư mới, kinh nghiệm của ta chưa nhiều. Khó khăn lớn nhất là việc đàm phán thoả thuận về giá đầu vào và đầu ra của các dự án trong khi bên cung cấp và bên mua đều muốn duy trì giá độc quyền của mình. Vì vậy trong nhiều trường hợp các dự án này không đáp ứng được yêu cầu về tiến độ, một số dự án do thời gian đàm phán kéo quá dài nên đã không còn có ý nghĩa thời sự nữa.
- Cần phải khẳng định, mô hình đầu tư theo hình thức BOT đã được một số nước áp dụng thành công và cũng phù hợp với bối cảnh cụ thể của Việt nam trong điều kiện thiếu vốn, muốn đưa dự án nhanh đi vào hoạt động để giải quyết nhu cầu cấp bách về một loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước lại kiểm soát, khống chế được quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kết thúc hợp đồng BOT được nhận tài sản chuyển giao không bồi hoàn của Nhà đầu tư. Tuy vậy, để tiếp tục thực hiện chủ trương này một cách có hiệu quả, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện luật pháp để các các Bên tham gia Hợp đồng và các cơ quan quản lý thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, không mất nhiều thời gian điều chỉnh và xin phép. Về chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án BOT cần phải rõ ràng và cụ thể hơn (có danh mục dự án cụ thể gọi vốn theo hình thức BOT).
V. Đầu tư nước ngoài theo đối tác đầu tư
Đến nay, đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại Việt nam. Trong tổng số vốn ĐTNN đăng ký cấp mới USD thì các nước khu vực Châu á chiếm 63,2% (nếu kể cả ôxtrâylia và Newzealand là 66,1%); Châu âu chiếm 20,4%; Châu Mỹ chiếm 13,4%. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn). Số liệu thống kê theo đối tác ĐTNN hiện nay căn cứ vào địa điểm đăng ký của doanh nghiệp ĐTNN trước khi xin phép đầu tư vào Việt nam. Phương pháp này tuy có phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng mang tính tương đối, chưa phản ánh sát thực dòng vốn ĐTNN của các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam vì có những doanh nghiệp xuất xứ ở một nước nhưng lại thành lập công ty con ở một quốc đảo (có điều kiện dễ dàng về thủ tục thành lập và ưu đãi về thuế) để đầu tư vào Việt Nam hoặc có nhiều tập đoàn lớn thông qua các chi nhánh và công ty con ở nước khác tiến hành đầu tư vào Việt Nam. Ví dụ: các Công ty P&G, Cocacola (Mỹ), Unilever (Anh) đều thông qua các công ty con đăng ký ở Singapore đầu tư vào Việt Nam; các tập đoàn ABB (Thuỵ điển), HSBC Holdings (Anh), Keppel (Singapore) đầu tư vào Việt Nam thông qua các chi nhánh tại Hồng Kông...
Nói chung, trong số các đối tác đầu tư vào Việt Nam thì các nhà đầu tư Đông á luôn dẫn đầu về vốn đăng ký, khoảng trên 12 tỷ USD, chiếm 30%, tiếp đó là các đối tác ASEAN, chiếm 22% và Châu Âu chiếm 20%. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn). Đáng chú ý nhất là các dự án của các nhà đầu tư Châu Âu thường công có quy mô lớn, vốn bình quân 1 dự án khoảng 18 triệu USD, cao hơn 50% so với các đối tác Châu á, và cao hơn 20% so với các đối tác Châu Mỹ. Về mặt công nghệ, các đối tác Châu Âu thường đưa vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế nhưng cũng vì vậy mà số lượng lao động được sử dụng không nhiều. Bình quân 1 dự án của các đối tác Châu Âu tạo ra trên 100 chỗ làm việc so với 150 chỗ làm việc bình quân 1 dự án của các đối tác Châu á. Các quốc gia Châu Âu như Pháp, Nga, Anh, Hà Lan luôn có mặt trong 10 nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam.
- Thời kỳ 1996-2000, ĐTNN của Châu Âu đã tăng cả về số dự án và quy mô, số dự án tăng 52% và số vốn đăng ký tăng 65%. Tỉ trọng đầu tư của các nước Châu Âu trong tổng vốn ĐTNN thu hút đã tăng từ 17,3% giai đoạn 1991-1995 lên gần 22% giai đoạn 1996-2000.
- Các đối tác Châu Âu tập trung vốn đầu tư vào các ngành khai thác, chế biến dầu khí, viễn thông, công nghiệp dược, cơ khí chế tạo, trong đó riêng hai lĩnh vực dầu khí và viễn thông đã chiếm tới 42% tổng vốn đầu tư của các công ty Châu Âu. Trong lĩnh vực dầu khí, các tập đoàn dầu khí lớn như BP, Shell, Total, Statoil, Fina, Elf ... đều đã có mặt tại Việt Nam từ rất sớm, thậm chí từ trước khi triển khai thực hiện Luật đầu tư nước ngoài. Các tập đoàn viễn thông lớn như France Telecom, Motorola, Comvik, Alcatel.. cũng đã đều có mặt tại Việt Nam.
Lĩnh vực nông lâm nghiệp cũng được các nhà đầu tư Châu Âu quan tâm. Những dự án lớn trong lĩnh vực này như Nhà máy đường Nghệ An Tate&Lyte, đường Bourbon, chế biến sữa Foremost, Nestlé.... đã tạo thu nhập và việc làm cho hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. (Nguồn: Tài liệu đã dẫn)
Tóm lại, với tình hình trên, ĐTTTNN ở Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tuy nhiên, hoạt động này cũng đã bộc lộ một số những yếu kém và hạn chế.
Phần III
Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam
giai đoạn 1996-2002 và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn 2003-2005
I. Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam giai đoạn 1996-2002
1. Những thành tựu đạt được
ĐTNN trong hơn 15 năm qua đã đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đề ra, tạo dựng những cơ sở ban đầu quan trọng cho sự nghiệp mới mẻ và khó khăn này và đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới.
1.1. Chủ trương thu hút vốn ĐTNN là đúng đắn và kịp thời, đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Vốn ĐTNN thực hiện tăng nhanh qua các năm: Thời kỳ 1988-1995 đạt trên 7,15 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; thời kỳ 1996-2002 đạt trên 17,476 tỷ USD chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội và gấp trên 1,8 lần thời kỳ 1988-1995; bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Tỷ lệ vốn ĐTNN thực hiện so với GDP chung thời kỳ 1996-2002 đã đạt trên 6%.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1993 đạt 3,6%/năm đến năm 1995 đạt 6,3%, năm 1998 đạt 10,1% và năm 2000 đạt 13,3%, năm 2001 là 13,9%. Thu ngân sách từ khu vực ĐTNN trong 7 năm 1996-2002 đạt gần 2,335 tỷ USD, gấp 4,5 lần 8 năm trước đó, bình quân chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 20%).
1.2. Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong 5 năm 1991- 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD, thời kỳ 1996-2002 đạt trên 18,775 tỷ USD, tăng hơn 15 lần so với 8 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Ngoài ra, khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
1.3. Việc thu hút ĐTNNđã chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nếu ĐTNN những năm đầu (ngoài dầu khí) tập trung nhiều vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê...), thì trong thời kỳ 1996-2002 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề hợp lý hơn, hướng vào sản xuất, chế biến xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng; trong đó, ĐTNN trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện (so với tỷ lệ tương ứng là 52,7% và 56% thời kỳ 1991-1995). Cơ cấu ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ chuyển dịch mạnh, trong thời kỳ 1996-2002, các dự án kinh doanh bất động sản giảm 52%, trong khi các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật (viễn thông, dịch vụ kỹ thuật) tăng 1,4 lần 8 năm trước.
1.4. Việc thu hút ĐTNN đã chú trọng kết hợp các dự án công nghệ hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Đến nay, khu vực ĐTNN đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung ứng dịch vụ.... Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Qua hợp tác đầu tư, người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế lao động mới. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp từng bước được cải thiện. Đội ngũ cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực ĐTNN ngày một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý.
1.5. Thực hiện chủ trương đa phương hoá hoạt động ĐTNN đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Đến nay, đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTNN tại Việt Nam. Ước tính trên 80 công ty xuyên quốc gia (TNCs) nằm trong danh sách 500 TNCs hàng đầu thế giới có tiềm lực mạnh về công nghệ và tài chính, đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng như dầu khí, viễn thông, ôtô xe máy, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, hoá chất, vào lĩnh vực nước giải khát, ngân hàng, bảo hiểm ...
ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ; tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế. Chính những đổi mới của nền kinh tế nói chung, về môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ĐTNN nói riêng những năm qua cũng góp phần quan trọng trong việc khôi phục và gia tăng nguồn vốn ODA cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay.
1.6. Cùng với việc thu hút ĐTNN các doanh nghiệp Việt Nam đã được khuyến khích từng bước tiến hành đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường.
Đến nay, các doanh nghiệp nước ta đã có trên 45 dự án đầu tư ra 12 nước và vùng lãnh thổ, với số vốn đăng ký khoảng 38 triệu USD, chủ yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại-dịch vụ, xây dựng. Tuy số dự án chưa nhiều và quy mô còn nhỏ, nhưng đây là hướng đi đúng, phù hợp với xu hướng chung, mở ra khả năng đầu tư vào các dự án có hiệu quả về nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng dân dụng, thủ công mỹ nghệ, dầu khí,... tại Lào, Campuchia, Liên bang Nga, Hồng Kông, Singapore, Trung Cận Đông. Thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp nước ta có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài.
1.7. Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút ĐTNN trên thế giới gia tăng và trước ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực cải thiện môi trường.
Trong 5 năm qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật pháp, chính sách quan trọng về ĐTNN như: Luật ĐTNN năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung Luật ĐTNN, và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Dầu khí năm 2000; các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN của Chính phủ (như: Nghị định 12/CP, Nghị định 10/1998/NĐ-CP, Nghị định 24/2000/NĐ-CP, Chỉ thị số 11/1998/CT-TTg và Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Những chính sách tập trung vào tháo gỡ khó khăn do tác động của khủng hoảng kinh tế cho các doanh nghiệp ĐTNN (như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, cho dãn, hoãn, tiến độ hoặc thay đổi mục tiêu dự án, giảm chi phí đầu tư); đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp ĐTNN, khuyến khích ĐTNN vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần thu hút vốn ĐTNN..., được các nhà ĐTNN đánh giá cao.
(Nguồn: Báo cáo tình hình ĐTTTNN trình Chính phủ số 40/BKH-ĐTNN của Bộ Kế hoạch - Đầu tư)
2. Những tồn tại, hạn chế
2.1. Sự cần thiết lâu dài và vai trò quan trọng của ĐTNN đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt thông suốt, chưa có sự nhận thức thống nhất ở các cấp, các ngành dẫn đến quan điểm xử lý nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến ĐTNN còn khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động của lĩnh vực này.
Những quan điểm còn khác nhau trên đây dẫn đến lúng túng trong hoạch định chính sách, trong điều hành xử lý cụ thể, làm chậm tiến độ xem xét dự án và đôi khi làm lỡ cơ hội thu hút đầu tư. Tình hình đó cộng với những nhận định còn nặng về xem xét chỉ trích mặt hạn chế trong ĐTNN dẫn đến sự đánh giá chưa thống nhất và thiếu khách quan về ĐTNN trong dư luận xã hội.
2.2. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể
Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng chưa có hoặc được triển khai chậm, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác, chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường... nên thời gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35954.DOC