Báo cáo Vấn đề hội nhập kinh tế Việt Nam trong thời kì toàn cầu hóa

Một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu.

Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc.Cơ chế tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ.

 

doc27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Vấn đề hội nhập kinh tế Việt Nam trong thời kì toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN; thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . + Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao, hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. + Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng... + Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. 1.2. Mục tiêu Bộ Chính Trị: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005.” 2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập. + Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật... + Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 3.1 Con Đường hội nhập. Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ quá nóng” về mức độ %, thời hạn mở của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ. Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEAM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết. Trước đó từ cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức này. 3.2. Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á Quá trình gia nhập Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc kí nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày 1/1/1996 và sẽ kết thúc vào ngày 1/1/2006. Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế, danh mục nông sản chưa chế biến và chế biến nhạy cảm cao. Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN. Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập ASEAN/AFTA/CEPT Một số ngành sản xuất trong nước thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu. Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết bị máy móc...Cơ chế tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng trong nước mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ. Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phương án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được lựa chọn đối với Việt Nam là Việt Nam sẽ thực hiện AFTA trong khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những ngành có lợi thế so sánh. Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức độ khác nhau cho phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình độ phát triển nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế sản xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh. Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức riêng của nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi đó nếu hàng hoá của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp của ta rất dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, mặc dù ta là nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Khi được hưởng thuế quan ưu đãi, kể cả sau khi đã nộp thuế nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan vẫn thấp hơn giá thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì người tiêu dùng với mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo Thái Lan để ăn. Và gạo của ta lúc đó chỉ còn là thị phần của những người có thu nhập thấp hoặc để xuất khẩu. 3.3. Việt Nam hội nhập vào APEC – diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kĩ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện công khai và không phân biệt đối xử giữa các thành viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức. 3.4. Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát triển và mở rộng trong những năm gần đây, sau khi Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990, quan hệ buôn bán hai chiều Việt Nam – EU có bước phát triển khả quan, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng. Năm 1993, EU tăng gấp 10 lần QUOTA nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam so với năm 1992. Trị giá kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam – EU đã đạt 1 tỉ USD. Ngày 31/5/1995 Việt Nam và EU đã kí hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU. Ngày 17/7/1995, hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU đã được kí chính thức ở Brucxen. Khi tham gia kí kết hiệp định này, Việt Nam được hưởng một số ưu đãi. + Hiệp định cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc (MNF), đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển. Điều này có ý nghĩa thực tế lớn, vì trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, Việt Nam vẫn được hưởng các quy chế ưu đãi này. Sau đó, hiệp định đưa ra một số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi buôn bán, thương thuyết với tổ chức mậu dịch thế giới. + Cải thiện môi trường kĩ thuật Việt Nam thông qua việc tạo thuận lợi cho Việt Nam tiếp cận công nghệ EU. + Liên minh Châu Âu đang chuẩn bị mở một trung tâm thông tin thương mại của EU tại Việt Nam. + Các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước Châu Âu đã và đang có nhiều dự án hợp tác với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam lập các trung tâm đào tạo nhà doanh nghiệp cho Việt Nam, tổ chức hội chợ, triển lãm Châu Âu tại Việt Nam, tư vấn kinh doanh, thoả thuận hợp tác, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư. Cuối năm 1995, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã kí 32 bản thoả thuận với các tổ chức hữu quan ở nước ngoài nhằm hợp tác, đẩy mạnh, xúc tiến thương mại và đầu tư, trong đó có 8 bản thoả thuận được kí với các tổ chức EU. Hiện tại phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đang xây dựng trung tâm thông tin dữ liệu, hợp tác với hiệp hội thương mại nước ngoài mới thành lập tại Việt Nam. + Ngày 15/12/1992 hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đến 1/1/1993 bắt đầu có hiệu lực. Theo hiệp định này, Việt Nam được xuất khẩu sang EU 151 chủng loại mặt hàng, tổng số hạn ngạch theo hiệp định là 21298 tấn với kim ngạch khoảng 450 triệu USD. Hiệp định hàng dệt may Việt Nam – EU đã tạo cho Việt Nam nhiều khả năng xuất khẩu sang EU hơn. Trong 3 năm qua, kim ngạch hàng dệt may xuất vào EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249 triệu USD năm 1993, 285 triệu USD năm 1994 và từ 340 – 350 triệu USD năm 1995. + Ngày 1/8/1995 Việt Nam và EU đã kí trao đổi thư điều chỉnh hiệp định, tăng hạn ngạch và biên bản thoả thuận về mở rộng thị trường hàng dệt may. Như vậy, từ khi Việt Nam kí hiệp định dệt may Việt Nam – EU, Việt Nam chưa phải là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế và do đo Việt Nam vẫn phải chịu những hạn ngạch thuế quan phi ưu đãi của EU. đây là những trở ngại lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU từ thời điểm đó đến cuối năm 1995 sau khi hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được kí kết. 3.5. Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) Tháng 12/1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Năm 1995 Việt Nam chính thức đề nghị gia nhập WTO. WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính chất toàn cầu có mục đích cơ bản là: thương lượng để thiết lập các luật lệ chung đảm bảo thông thoáng cho thương mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác, và một môi trường kinh doanh có thể dự đoán được, theo dõi việc thực hiện cam kết của các thành viên, đảm bảo tính công khai về thương mại và các luật lệ về hợp tác quốc tế WTO, cho phép có sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên và không phải là thành viên. Việc thực hiện các cam kết mang tính ràng buộc pháp lý và nếu vi phạm có thể bị trả đũa. Các thành viên kém phát triển và đang phát triển được hưởng một số ưu đãi nhưng mức độ và thời gian hưởng ưu đãi trong từng lĩnh vực tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán của từng nước với WTO. Hiện nay Việt Nam đã tiến hành nhiều phiên họp với nhóm cộng tác viên về Việt Nam gia nhập WTO, tập trung vào việc minh bạch hoá, thương mại – dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian qua, một số thành viên của WTO như: EU, Mĩ, Thuỵ Sĩ...đã bắt đầu gửi đề nghị về đàm phán mở cửa thị trường cho Việt Nam. Tháng 8/2000 chúng ta đã kí hiệp định thương mại với Hoa Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nước ta gia nhập WTO. Đến cuối tháng 11/2006 thì toàn bộ các văn kiện thỏa thuận được thống nhất. Lễ ký kết văn kiện thỏa thuận đã được tổ chức ngày 7/11/2006 tại Geneva. Ngày 29/11/2006, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn kết quả thỏa thuận, và đã ủy quyền cho Chính phủ gửi đến WTO bản Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO. Ngày 6/12/2006, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Lệnh công bố Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư. Ngày 11/12/2006, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã gửi Ban thư ký WTO thư thông báo Việt Nam hoàn thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư nêu trên. Thư thông báo này đã được đại diện Phái đoàn thường trực của Việt Nam bên cạnh Cơ quan Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sỹ) chuyển cho Chủ tịch Đại hội đồng WTO, Đại sứ Eirik Glenn, nguyên Chủ tịch Ban công tác gia nhập WTO của Việt Nam. Cùng có mặt trong buổi lễ tiếp nhận thư thông báo của Việt Nam còn có Phó Tổng Giám đốc WTO Rufus Yerxa. Chủ tịch Đại hội đồng và Phó Tổng Giám đốc WTO một lần nữa chúc mừng Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và đánh giá cao việc Quốc hội Việt Nam đã nhanh chóng phê chuẩn Nghị định thư gia nhập. Căn cứ theo qui định của WTO, một tháng sau khi nhận được văn bản này, Việt Nam sẽ chính thức trở thành một thành viên WTO, và đây cũng là thời điểm các nội dung trong thỏa thuận gia nhập bắt đầu có hiệu lực. Cho đến trước thời điểm gia nhập, Việt Nam là nước đông dân thứ hai trên thế giới (sau Nga) còn đứng ngoài WTO. 4. Những kết quả đạt được trong tiến trình hội nhập Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng cũng đã mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là: + Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù địch. Tạo được thế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên chính trường và thương trường quốc tế. + Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, đồng thời cũng đã mở rộng được thị trường xuất khẩu. Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước đạt 26,003 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm trở lại đây. Ðây là một trong những thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta năm qua. Tính riêng trong tháng 8 năm nay, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 2,8 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng qua lên hơn 20,3 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm trước, đã chứng tỏ đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Ðảng và Nhà nước ta đang được thực tiễn khẳng định. + Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước ngoài. Năm 2004, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 2,85 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2003 và vượt so với dự kiến ban đầu (mục tiêu năm 2004 là 2,75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài trong năm 2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2003. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho 7,4 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người. Năm 2004 cả nước đã thu hút được hơn 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003, trong đó vốn cấp mới đạt trên 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung đạt gần 2 tỷ USD. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra vào năm 1997. + Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và thực hiện các hiệp định song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động thái mới về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thể hiện qua việc gia tăng số lượng nhà đầu tư vào Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh. Xu hướng nói trên đã tạo điều kiện để hình thành các dự án đầu tư mới trong năm 2005. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp phép và số vốn bổ sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước. + Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều ngành kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản xuất - kinh doanh. Các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu… từng bước được nâng lên tầm cao mới, sản phẩm ngày càng tạo được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm. Trong đó xu hướng tỷ trọng giá trị của dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng. + Giữ vững sự ổn định về kinh tế. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục khá cao và tương đối ổn định, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1991 đến năm 2000, GDP tăng liên tục qua các năm với nhịp tăng bình quân hàng năm 7,5%. So với năm 1990, năm 2000 GDP tăng gấp 2,07 lần. Tuy xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, nhưng từ năm 2001 đến 2004, GDP của Việt Nam vẫn có nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,25%. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP quí I đạt 7,23%, 6 tháng đầu năm đạt 7,63% (tuy nhiên, tốc độ tăng này chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước - mặc dù có chịu ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh). Như vậy liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo đói ở Việt Nam đã giảm mạnh, từ 58% (năm 1993) xuống 24,1% vào năm 2004 (theo chuẩn nghèo 1USD/ngày), chuẩn nghèo lương thực đã giảm từ 24,9% (năm 1993) xuống 7,8% trong năm 2004. Bước đầu chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: + Nhận thức về hội nhập của cán bộ và nhân dân chưa được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống chính sách, luật pháp quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, còn có những chính sách, luật chưa thực sự phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá chủ yếu là bán sản phẩm và gia công, xuất khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị thu được thấp. Trước xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh, có thể dẫn đến khả năng mất thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu phát triển kinh tế của ta là hướng về xuất khẩu, nhưng thực tế lại có xu hướng thực hiện theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nền kinh tế đang ở trình độ phát triển chậm, còn chênh lệch quá nhiều so với các nước trong khu vực; đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại; Bản sắc văn hoá đang bị đe doạ, đặc biệt là lối sống của lớp trẻ. Với những thành công bước đầu về hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng đến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. IV. Cơ hội và thách thức Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế chung của toàn cầu, lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, nó vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển cũng như vừa có những thách thức đối với các quốc gia nhất là các quốc gia có trình độ kém phát triển. Xu thế hội nhập quốc tế cũng mang lại cho Việt Nam những cơ hội thuận lợi song bên cạnh đó cũng đem lại không ít khó khăn và thách thức. 1. Những cơ hội Tham gia vao các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu. 1.1. Hội nhập kinh tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam. Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường vì vậy khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Thị trường xuất khẩu nước ta ngày càng mở rộng đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do ASEAN; từ khi gia nhập tổ chức WTO nước ta đã hưởng được ưu đãi giành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức,… 1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài , viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn những nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Hiện nay, đã có trên 80 nước có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lượng sản xuất và tạo công ăn việc làm. - Viện trợ phát triển ODA: tiến hành bình thường hóa quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế đã không ngừng viện trợ Việt Nam trên mọi lĩnh vực. - Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tố vấn đề nợ của Việt Nam: trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài củ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bô Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trưng nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong nước. 1.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho nước ta tiếp thu qua học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lí và cán bộ kinh doanh. - Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỉ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong những năm, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nhất là công nghệ thô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề hội nhập kinh tế Việt Nam trong thời kì toàn cầu hóa.doc
Tài liệu liên quan