Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo các công ước quốc tế và hiệp định TRIPs: một số thách thức đối với các nước đang phát triển

Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật như một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát thông tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 quy định các thành viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó không bị tiết lộ) nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3273 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo các công ước quốc tế và hiệp định TRIPs: một số thách thức đối với các nước đang phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VÀ HIỆP ĐỊNH TRIPs: MỘT SỐ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN I. BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) được hình thành từ cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của hai điều ước nền tảng là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (năm 1883) và Công ước Bern về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật (năm 1886). Tiếp đó, hàng loạt các công ước quốc tế về các vấn đề khác liên quan đến quyền SHTT đã được ký kết như: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế đối với nhãn hiệu (năm 1891), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng (năm 1961), Công ước về bảo hộ giống cây trồng mới (năm 1961), Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sáng chế (năm 1970), Công ước Brussels về việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (năm 1974),… Sự ra đời của các điều ước quốc tế nói trên ngày càng khẳng định vai trò của quyền SHTT đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất và thương mại ở từng quốc gia cũng như trong quan hệ kinh tế quốc tế, đóng góp đáng kể vào việc đặt nền tảng và sự phát triển của hệ thống bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi toàn cầu. Song, do đặc thù của các công ước là tính cưỡng chế yếu nên trên thực tế, các công ước đã được phê chuẩn vẫn không thể thực hiện có hiệu quả mục tiêu bảo hộ quyền SHTT. Nguyên do là: thứ nhất, các công ước quốc tế phần lớn chỉ đề cập tới trình tự bảo hộ quyền SHTT quốc tế, còn yêu cầu pháp lý đối với các quốc gia lại hạn chến nên đã không đưa ra được một tiêu chuẩn quốc tế về bảo hộ quyền SHTT cụ thể; thứ hai, các công ước quốc tế phần lớn chỉ chế định quyền SHTT đối với một loại hình tài sản trí tuệ nhất định mà không có những quy định toàn diện phạm vi hiệu lực về quyền SHTT; và thứ ba, phần lớn các công ước quốc tế về quyền SHTT không hề đề cập đến các biện pháp giải quyết tranh chấp về quyền SHTT. Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi quyền SHTT và là một trong những tiền đề dẫn tới sự hình thành Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPs) trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). II. BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH TRIPS 1. Bối cảnh ra đời Hiệp định TRIPs Từ những năm 1980, quyền SHTT bắt đầu trở thành mối quan tâm thường xuyên và có ảnh hưởng trực tiếp tới các thể chế thương mại quốc tế. Hệ thống bảo hộ quyền SHTT của các quốc gia khác nhau đã được đánh giá lại và đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu chuẩn thống nhất có tính chất quốc tế. Sự đóng góp ngày càng tăng của tài sản trí tuệ vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra tri thức một cách nhanh chóng, bao gồm sự xuất hiện của những công nghệ mới, đã dẫn đến sự thay đổi chính sách về quyền SHTT và sự lựa chọn cách thức quản lý mới đối với tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, khuynh hướng sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra ngày một phổ biến và trầm trọng với vấn nạn hàng giả, hàng nhái bùng nổ trên toàn cầu. Việc bắt chước, sao chép để sản xuất và bán các sản phẩm có chứa các thành quả sáng tạo đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đẩy những người đã bỏ công sức đầu tư thực sự ra khỏi thị trường. Thực tế này đã khiến họ không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục các hoạt động sáng tạo. Do vậy, một số nước phát triển đã bắt đầu sử dụng những biện pháp thương mại nhằm kiềm chế nạn đánh cắp tài sản trí tuệ ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế, mức độ bảo hộ quyền SHTT ở các quốc gia là khác nhau, nên thường dẫn tới tình trạng các tranh chấp thương mại không được giải quyết theo tiêu chí thống nhất. Trong bối cảnh đó, việc tạo lập một hệ thống bảo hộ quyền SHTT có tính bắt buộc trên phạm vi quốc tế nhằm ngăn chặn việc sử dụng trái phép tài sản trí tuệ và khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo đang ngày càng trở nên bức thiết. Phần lớn các quốc gia đều nhất trí rằng cần phải nghiên cứu, thảo luận nhằm hình thành một công ước mới điều tiết các vấn đề về quyền SHTT. Hiệp định TRIPs của WTO (được ký kết năm 1994 và chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1995) đã ra đời nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hộ quyền SHTT. Với Hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về quyền SHTT được đưa vào hệ thống thương mại đa biên và người ta kỳ vọng rằng Hiệp định sẽ “góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ” (Điều 7, Hiệp định TRIPs). 2. Nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPs Các quy định mới điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT thông qua Hiệp định TRIPs đã trở thành một phương tiện giúp củng cố trật tự, cũng như giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống hơn trên phạm vi toàn cầu. Hiệp định nêu ra các nguyên tắc và ấn định mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội. Cũng như trong các hiệp định khác của WTO, Hiệp định TRIPs dựa trên một số nguyên tắc cơ bản, đó là nguyên tắc đối xử quốc gia [1], đối xử tối huệ quốc [2] và bảo hộ cân bằng [3]. Các nguyên tắc này không chỉ áp dụng đối với các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ mà còn áp dụng cả đối với những vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, xác lập phạm vi, duy trì và thực thi quyền SHTT. Hiệp định TRIPs đề cập chi tiết đến các quyền SHTT khác nhau và cách thức bảo hộ. Các thành viên của WTO đều bắt buộc phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền SHTT quốc gia nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu được nêu trong Hiệp định theo hai chuẩn mực cơ bản về bảo hộ, đó là tính đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật về quyền SHTT hiện hành. Nền tảng của Hiệp định là những nghĩa vụ được nêu trong các hiệp định quốc tế ký kết trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) như Công ước Paris, Công ước Bern. Ngoài ra, Hiệp định TRIPs còn bổ sung một số lượng lớn các quy định mới. Cụ thể, các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPs bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan; nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu; chỉ dẫn địa lý; bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp; bằng sáng chế; sơ đồ bố trí mạch tích hợp và bảo vệ thông tin bí mật. a. Tiêu chuẩn bảo hộ - Quyền tác giả: Điều 9.1 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Công ước Bern từ Điều 1 đến Điều 21 và Phụ lục kèm theo. Quyền tác giả được bảo hộ cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp định TRIPs quy định các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo đúng Công ước Bern. - Nhãn hiệu hàng hóa: Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Trong hoạt động thương mại, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có quyền ngăn chặn bên thứ ba sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đối với hàng hóa, dịch vụ giống hệt hay tương tự với hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình nếu việc này có nguy cơ gây nhầm lẫn. Điều 16 của Hiệp định quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Điều 6 bis của Công ước Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các thành viên WTO có thể quy định các điều kiện cấp phép và chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa, trong đó không được quy định việc cấp phép bắt buộc và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký có quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa đó có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hóa đó. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hóa không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế. -Chỉ dẫn địa lý: là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước, khu vực hay địa phương thuộc nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý quyết định (Điều 22). Các thành viên WTO phải quy định những biện pháp để các bên liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hóa hoặc tạo thành “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” theo điều 10 bis Công ước Paris.  - Bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp: Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp được sáng tạo một cách độc lập, có tính mới hoặc tính sáng tạo ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên tùy ý quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng công nghiệp hoặc bằng quyền tác giả. - Bằng sáng chế: Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ, cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế, tuy nhiên, cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng sáng chế lạm dụng quyền của mình (như không cung ứng sản phẩm cho thị trường). Trong trường hợp này, theo một số điều kiện nhất định trong Hiệp định, chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép các nhà sản xuất khác sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy định mềm dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu, nhất là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển. - Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp trên cơ sở Hiệp định Washington về quyền SHTT trong lĩnh vực mạch tích hợp. Theo điều 36, các hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối nhằm mục đích thương mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu được coi là bất hợp pháp. Điều 37 quy định, các thành viên sẽ không coi những hành vi liên quan đến việc vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do vô ý là bất hợp pháp nhưng sẽ yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp sau khi có thông báo vi phạm.  - Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật như một dạng sở hữu mà chỉ dành cho người có quyền kiểm soát thông tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thông tin này trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 quy định các thành viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm (trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo các dữ liệu đó không bị tiết lộ) nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh. - Kiểm soát hành vi chống cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT (Hợp đồng lixăng): Chủ sở hữu quyền SHTT có thể cho phép người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hóa hoặc thương hiệu, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs thừa nhận trong số các điều kiện của hợp đồng chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ. Hiệp định quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng quyền SHTT trong lĩnh vực nhượng bản quyền, và phải sẵn sàng tham khảo lẫn nhau nhằm chống lại các hành vi này. b. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ Thực thi có hiệu quả quyền SHTT là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, ngoài việc quy định các nội dung về quyền SHTT cần được bảo hộ, Hiệp định TRIPs đã dành một phần không nhỏ quy định việc ban hành luật pháp về bảo hộ quyền SHTT và xử lý các trường hợp vi phạm của chính phủ các nước thành viên. Điều 41 quy định các thành viên WTO phải đảm bảo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định, trong đó có những chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm cũng như không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Mặt khác, những thủ tục này phải được áp dụng theo cách thức tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp. Theo Hiệp định, tòa án quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để bảo vệ các chứng cứ của hành vi vi phạm quyền SHTT; sau khi đã xác định rõ chứng cứ vi phạm, tòa án phải ra phán quyết yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại cho người nắm giữ quyền SHTT. Hiệp định cũng kêu gọi các quốc gia cần lưu ý, trong trường hợp trên thị trường xuất hiện hành vi ăn cắp bản quyền với quy mô lớn, theo khung hình phạt, người có hành vi vi phạm bản quyền sẽ bị khởi tố, có thể bị phạt tù, hoặc chịu các hình phạt khác. Các thủ tục và biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm 2 nhóm cơ bản: các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự. Giải quyết tranh chấp Tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs là quy định quan trọng nhất trong lĩnh vực này và sẽ được giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu các thành viên WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho công chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ, thực thi, ngăn chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi thỏa thuận đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT. 3. Những thách thức đối với các nước đang phát triển khi thực hiện Hiệp định TRIPs  Sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã gây ra nhiều cuộc tranh luận về tác động của việc bảo hộ quyền SHTT đối với các mục tiêu phát triển. Theo quan điểm của các nước công nghiệp, việc bảo hộ quyền SHTT là một phần thưởng cho hoạt động sáng tạo và đổi mới sản phẩm trí tuệ. Do vậy, hệ thống bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs được đánh giá tương đối tích cực ở các nước phát triển. Về phía các nước đang phát triển, chấp nhận Hiệp định TRIPs là một sự nhượng bộ để đổi lấy việc đưa dệt may và nông nghiệp vào Vòng đàm phán Urugoay, bởi theo họ, Hiệp định TRIPs chủ yếu bảo vệ quyền lợi của các nước phương Tây. Ở một chừng mực nhất định, lo ngại này là hoàn toàn có cơ sở do việc chấp nhận các tiêu chuẩn cao của Hiệp định TRIPs trước mắt sẽ tạo ra những thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các nước nghèo. Hiệp định đã không xem xét một cách thích đáng sự khác biệt giữa hai khối quốc gia phát triển và đang phát triển trong quá trình phát triển khoa học - công nghệ cũng như không có các biện pháp cụ thể nhằm rút ngắn khoảng cách này. Không những thế, Hiệp định lại chỉ chú trọng đến quyền SHTT, không đề cập đến trách nhiệm xã hội của quyền sở hữu này và như vậy vô hình chung sẽ làm tăng thêm khoảng cách giữa hai khối quốc gia này. Mặc dù WTO đã lưu ý đến mức độ phát triển thấp hơn của các nước đang phát triển, từ đó đề ra các biện pháp đối xử đặc biệt và khác biệt (S&DT) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia nghèo thực hiện các điều khoản đã cam kết, song các nước đang phát triển đã không thể khai thác triệt để lợi thế này do tính chất không bắt buộc của các biện pháp ưu tiên đó. Một số khó khăn khác mà Hiệp định TRIPs có thể gây ra cho các nước đang phát triển thể hiện ở những khía cạnh sau: - Cơ chế bảo hộ quyền SHTT khắt khe tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nền kinh tế tiên tiến với các nền kinh tế nhỏ, lạc hậu và giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Các nước đang phát triển đều có chung mối lo ngại nhất định khi cân nhắc việc bảo hộ quyền SHTT. Mối lo ngại đầu tiên là các nhà phát triển công nghệ và chủ sở hữu công nghệ thường ở các nước phát triển. Phần lớn các bằng sáng chế công nghệ được cấp ở các nước đang phát triển đều nằm trong tay người nước ngoài [4]. Tình hình nói trên cho thấy, các chủ thể của nước đang phát triển không có nhiều cơ hội sử dụng cơ chế bảo hộ quyền SHTT của các nước khác, trong khi hệ thống bảo hộ quyền SHTT của các nước này lại được các chủ thể nước ngoài khai thác với cơ hội lớn hơn rất nhiều. Khả năng tài chính hạn hẹp và quy mô phần lớn là nhỏ của doanh nghiệp tại các nước đang phát triển cũng là một hạn chế lớn để doanh nghiệp các nước phát triển khai thác được cơ chế bảo hộ quyền SHTT ở các nước khác. Khi xảy ra tranh chấp về xâm phạm quyền SHTT của các nước đang phát triển ở nước ngoài, thủ tục tư pháp phức tạp, chi phí thuê luật sư cao,… đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không đủ sức theo đuổi các vụ kiện tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Một vấn đề gây khó khăn nữa cho các nước đang phát triển là việc các nước công nghiệp tiên tiến ngày càng lạm dụng quyền SHTT để trừng phạt thương mại hay trả đũa trong hoạt động thương mại. Biểu hiện mới này đang là yếu tố gây nhiều bất lợi cho các nước kém và đang phát triển, bởi các nước đó chưa thể hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền SHTT ngang bằng với trình độ chung của thế giới. - Ở một mức độ nhất định, Hiệp định TRIPs đã có tác động xấu đến mục tiêu phát triển của các nước nghèo.Hiệp định chủ yếu thiên về những người nắm giữ bản quyền (phần lớn từ các nước phát triển), trong khi làm tổn hại đến người tiêu dùng ở các quốc gia đang phát triển [5]. Hơn nữa, bảo hộ nghiêm ngặt quyền SHTT về công nghệ sẽ ngăn cản và hạn chế quá trình truyền bá và phổ biến công nghệ - một quá trình rất cần thiết trong chính sách phát triển, nhất là đối với các nước đang phát triển có trình độ công nghệ thấp. Do vậy, tình trạng bảo hộ cứng rắn theo Hiệp định TRIPs đối với các quyền SHTT có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng: tạo thế độc quyền cho người nắm giữ quyền SHTT, gây nguy cơ nâng giá bán sản phẩm và khống chế giá bất hợp lý, từ đó tạo ra sự khan hiếm hàng hóa, làm nảy sinh tình trạng khó tiếp cận đối với hàng hóa, sản phẩm. Tình trạng này ngày càng trở nên rõ rệt đối với các nước có trình độ phát triển công nghệ và mức sống thấp như Việt Nam. Mặt khác, thời gian bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định TRIPs quá lâu sẽ tăng cường quyền lực cho giới chủ của các nước giàu trong khi hạn chế doanh nhân nước nghèo tiếp nhận những tri thức thậm chí đã trở thành công cộng. - Tác động xấu đến đời sống của người nông dân: Việc thực thi quyền SHTT thông qua bảo hộ các loại giống cây trồng có thể dẫn đến việc người nông dân phải mua giống cây từ các nhà sản xuất giống ở các quốc gia phát triển với mức giá cắt cổ. Điều này sẽ ảnh hưởng tới ngành sản xuất giống cây và làm gia tăng chi phí sản xuất nông nghiệp cũng như giá thành của các loại nông sản [6]. - Chi phí lớn cho việc thực hiện Hiệp định TRIPs: Việc bảo hộ quyền SHTT của Hiệp định TRIPs theo những điều kiện ngặt nghèo của các nước phát triển đòi hỏi các nước đang phát triển phải dành ra những nguồn lực không nhỏ trong tổng nguồn lực vốn đã hạn chế của mình. Theo ước tính của WB, chi phí để thực hiện một hiệp định của WTO có thể lên tới 100 triệu USD. Đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo. Ở cấp độ vi mô, cơ chế bảo hộ quyền SHTT với tiêu chuẩn cao theo Hiệp định TRIPs sẽ đặt các doanh nghiệp và các nhà đầu tư của các nước đang phát triển vào một môi trường pháp lý phức tạp hơn, buộc họ phải chi phí nhiều hơn cho việc sử dụng cơ chế này. Để sử dụng có hiệu quả cơ chế bảo hộ quyền SHTT, các doanh nghiệp cần phải đầu tư thời gian học hỏi. Tất cả những điều này đã tạo thêm gánh nặng, hình thành một loại rào cản đối với nỗ lực xâm nhập vào thị trường trong và ngoài nước của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới. Như vậy, tại các nước đang phát triển, việc tăng cường bảo hộ quyền SHTT có nguy cơ làm phương hại đến các mục tiêu phát triển chung của họ. Với việc thực hiện các cam kết nhằm thúc đẩy sự bảo hộ mạnh mẽ hơn đối với các tài sản trí tuệ, các nước đang phát triển sẽ bị lâm vào tình thế hết sức bất lợi để duy trì sức cạnh tranh của nền kinh tế ngay trên sân nhà cũng như trên thị trường toàn cầu. Nhìn toàn cục quá trình hình thành và nội dung đã có hiệu lực của Hiệp định TRIPs, có thể thấy rằng các nước công nghiệp tiên tiến sẽ có lợi hơn trong quá trình thực thi Hiệp định TRIPs và các nước đang phát triển trước mắt có thể chịu một phần thua thiệt.  Tuy nhiên, như đã phân tích, vấn đề bảo hộ quyền SHTT không thể tách rời thương mại toàn cầu và quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận thị trường các nước phát triển. Bên cạnh đó, về trung và dài hạn, bảo hộ quyền SHTT chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho cả những nước nghèo. Vì vậy, hầu hết các nước đang phát triển đã dần chuyển sang thái độ chấp nhận việc bảo hộ quyền SHTT. Trên thực tế, một số nước đang phát triển đã có thành công nhất định trong nỗ lực thực hiện các quy định của Hiệp định TRIPs và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của Hiệp định, bước đầu gặt hái được những lợi ích từ hệ thống bảo hộ SHTT./. =============================== CHÚ THÍCH [1] Theo điều 3 của Hiệp định, mỗi thành viên của WTO phải dành cho công dân của các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn công dân của nước mình trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT. [2] Điều 4 của Hiệp định quy định bất kỳ thuận lợi, ưu tiên, đặc quyền hoặc miễn trừ nào mà một thành viên đã dành cho công dân của một thành viên khác trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT thì cũng đều phải được dành ngay lập tức và vô điều kiện cho công dân của tất cả các thành viên còn lại. [3] Bảo hộ quyền SHTT phải góp phần cải tiến kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, đem lại lợi ích cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng, góp phần gia tăng sự thịnh vượng kinh tế - xã hội. [4] Ví dụ, ở Việt Nam, tỷ lệ số đơn xin cấp bằng sáng chế của người Việt Nam trong giai đoạn 1995-2003 chỉ chiếm 3,4% tổng số đơn nộp tại Việt Nam, và số bằng sáng chế của Việt Nam được cấp chỉ chiếm 1,3% tổng số bằng sáng chế được cấp (Tham gia WTO, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam xét trong lĩnh vực SHTT, Tài liệu được trình bày tại Diễn đàn Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO, ngày 03-04/6/2003) [5] Trường hợp các loại dược phẩm điều trị căn bệnh HIV/AIDS là một ví dụ điển hình của những vấn đề nảy sinh từ Hiệp định TRIPs. Bệnh dịch này đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới, nhất là ở các nước nghèo, nhưng đến nay nhiều bệnh nhân vẫn không thể có được thuốc điều trị do giá thuốc quá cao vì phải trả tiền bản quyền. Mặc dù Hiệp định (điều 31)cũng quy định một ngoại lệ được gọi là cấp phép bắt buộccho phép các nước đang phát triển sản xuất các loại thuốc có bản quyền mà không phải trả tiền bản quyền quá cao cho người chủ sở hữu, song không phải nước nào cũng có khả năng khai thác ngoại lệ này.  [6] Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) về Braxin và Mêhicô cho thấy các giống ngô được bảo hộ có giá đắt hơn nhiều so với các giống ngô khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo các công ước quốc tế và hiệp định TRIPs.doc
Tài liệu liên quan