Như trên đã nói,
BVMT chính là để giúp
cho sự phát triển kinh tế
cũng như xã hội được
bền vững. KT-XH phát
triển giúp chúng ta có
đủ điều kiện để đảm bảo
an ninh quốc phòng, giữ
vững độc lập chủ quyền
của dân tộc. Điều đó lại
tạo điều kiện ổn định
chính trị xã hội để KTXH phát triển. BVMT là
việc làm không chỉ có ý
nghĩa hiện tại, mà quan
trọng hơn, cao cả hơn là
nó có ý nghĩa cho tương
lai. Nếu một sự phát
triển có mang lại những
lợi ích kinh tế trước mắt
mà khai thác cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên,
hủy hoại môi trường,
làm cho các thế hệ sau
không còn điều kiện để
phát triển mọi mặt (cả về
kinh tế, xã hội, thể chất,
trí tuệ con người.), thì
sự phát triển đó phỏng có
ích gì! Nếu hôm nay thế
hệ chúng ta không quan
tâm tới, không làm tốt
công tác BVMT, làm cho
môi trường bị hủy hoại
thì trong tương lai, con
cháu chúng ta chắc chắn
sẽ phải gánh chịu những
hậu quả tồi tệ.
28 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 526 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biến đổi khí hậu - Những vấn đề cần quan tâm trong phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong. Thời gian để lắng sau khi
đánh phèn hoặc dùng lá nhớt là khoảng 1 giờ
trở lên tùy theo độ đục của nước và các vẩn
vón lắng.
Khử nước bằng hóa chất: Khử trùng bằng
CloraminB được đóng gói dưới dạng viên hàm
lượng 0,25g hoặc 1,g. Loại này rất tiện lợi cho
khử trùng các thể tích nhỏ như chum, vại, lu,
xô, chậu hoặc bể chứa nước nhỏ. Một viên
ClorminB hàm lượng 0,25 có thể khử trùng
được 25 lít nước. Khử trùng bằng hóa chất
bột như CloraminB, Clorua vôi thường để khử
trùng các nguồn nước cấp cho tập thể, các giếng
nơi tập trung đông người. Hòa tan lượng hóa
chất cần thiết vào một gáo nước rồi đổ nước
vào bể, trộn đều. Múc nước lên ngửi, nếu không
thấy mùi Clo trong nước thì cho thêm khoảng
1/3 muỗng canh bột hóa chất trên vào giếng và
khấy đều, cho thêm đến khi nào nước giếng có
mùi Clo thì thôi. Nước sau khử trùng 30 phút
thì được.
XỬ LÝ NƯỚC DÙNG...
(Tiếp theo trang 8)
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
11
Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu
tố môi trường. Sự phân tích của tác giả theo 3 vấn đề tác động đến môi
trường để chúng ta lựa chọn, xem xét cả trên bình diện quốc tế, quốc gia,
vùng lãnh thổ và từng địa phương. Suy cho cùng thì mỗi chúng ta cần
phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự phát triển bền vững của
cả chúng ta và các thế hệ mai sau.
BBT
MÔI TRƯỜNG
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội
quan hệ khăng khít, chặt
chẽ, tác động lẫn nhau
trong thế cân đối thống
nhất: Môi trường tự nhiên
(bao gồm cả tài nguyên
thiên nhiên) cung cấp
nguyên liệu và không
gian cho sản xuất xã hội.
Sự giàu nghèo của mỗi
nước phụ thuộc khá nhiều
vào nguồn tài nguyên: Rất
nhiều quốc gia phát triển
chỉ trên cơ sở khai thác tài
nguyên để xuất khẩu đổi
lấy ngoại tệ, thiết bị công
nghệ hiện đại,... Có thể
nói, tài nguyên nói riêng
và môi trường tự nhiên
nói chung (trong đó có
cả tài nguyên) có vai trò
quyết định đối với sự phát
triển bền vững về kinh tế
- xã hội (KT-XH) ở mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ,
địa phương vì:
Thứ nhất, môi trường
không những chỉ cung cấp
“đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá
trình sản xuất và đời sống.
12
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
Hoạt động sản xuất
là một quá trình bắt đầu
từ việc sử dụng nguyên,
nhiên liệu, vật tư, thiết bị
máy móc, đất đai, cơ sở
vật chất kỹ thuật khác,
sức lao động của con
người để tạo ra sản phẩm
hàng hóa. Những dạng
vật chất trên không phải
gì khác, mà chính là các
yếu tố môi trường.
Các hoạt động sống
cũng vậy, con người ta
cũng cần có không khí
để thở, cần có nhà để ở,
cần có phương tiện để đi
lại, cần có chỗ vui chơi
giải trí, học tập nâng cao
hiểu biết,... Những cái đó
không gì khác là các yếu
tố môi trường.
Như vậy chính các
yếu tố môi trường (yếu
tố vật chất kể trên - kể
cả sức lao động) là “đầu
vào” của quá trình sản
xuất và các hoạt động
sống của con người.
Hay nói cách khác: Môi
trường là “đầu vào” của
sản xuất và đời sống. Tuy
nhiên, cũng phải nói rằng
môi trường tự nhiên cũng
có thể là nơi gây ra nhiều
thảm họa cho con người
(thiên tai), và các thảm
họa này sẽ tăng lên nếu
con người gia tăng các
hoạt động mang tính tàn
phá môi trường, gây mất
cân bằng tự nhiên.
Ngược lại môi trường
tự nhiên cũng lại là nơi
chứa đựng, đồng hóa
“đầu ra” các chất thải của
các quá trình hoạt động
sản xuất và đời sống. Quá
trình sản xuất thải ra môi
trường rất nhiều chất thải
(cả khí thải, nước thải,
chất thải rắn). Trong các
chất thải này có thể có rất
nhiều loại độc hại làm ô
nhiễm, suy thoái, hoặc
gây ra các sự cố về môi
trường. Quá trình sinh
hoạt, tiêu dùng của xã hội
loài người cũng thải ra
môi trường rất nhiều chất
thải. Những chất thải này
nếu không được xử lý tốt
cũng sẽ gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng.
Vấn đề ở đây là phải
làm thế nào để hạn chế
được nhiều nhất các chất
thải, đặc biệt là chất thải
gây ô nhiễm, tác động tiêu
cực đối với môi trường.
Thứ hai, môi trường
liên quan đến tính ổn
định và bền vững của sự
phát triển KT-XH.
Phát triển KT-XH là
quá trình nâng cao điều
kiện sống về vật chất và
tinh thần của con người
qua việc sản xuất ra của
cải vật chất, cải tiến quan
hệ xã hội, nâng cao chất
lượng văn hóa. Phát triển
là xu thế chung của từng
cá nhân cũng như của cả
loài người trong quá trình
sống. Giữa môi trường và
sự phát triển có mối quan
hệ chặt chẽ: Môi trường
là địa bàn và đối tượng
của sự phát triển, còn
phát triển là nguyên nhân
tạo nên các biến đổi của
môi trường.
Trong hệ thống KT-
XH, hàng hóa được di
chuyển từ sản xuất đến lưu
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
13
thông, phân phối và tiêu
dùng cùng với dòng luân
chuyển của nguyên liệu,
năng lượng, sản phẩm,
chất thải. Các thành phần
đó luôn luôn tương tác với
các thành phần tự nhiên và
xã hội của hệ thống môi
trường đang tồn tại trong
địa bàn đó.
Tác động của con
người đến môi trường thể
hiện ở khía cạnh có lợi
là cải tạo môi trường tự
nhiên hoặc tạo ra kinh phí
cần thiết cho quá trình cải
tạo đó, nhưng có thể gây
ra ô nhiễm môi trường tự
nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường
tự nhiên đồng thời cũng
tác động đến sự phát triển
KT-XH thông qua việc
làm suy thoái nguồn tài
nguyên - đối tượng của
sự phát triển KT-XH hoặc
gây ra các thảm họa, thiên
tai đối với các hoạt động
KT-XH trong khu vực.
Ở các quốc gia có
trình độ phát triển kinh
tế khác nhau có các xu
hướng gây ô nhiễm môi
trường khác nhau.
Ví dụ:
- Ô nhiễm do dư thừa:
20% dân số thế giới ở các
nước giàu hiện sử dụng
80% tài nguyên và năng
lượng của loài người.
Sản xuất công nghiệp
phát triển mạnh, hoạt
động của quá nhiều các
phương tiện giao thông
vận tải đã tạo ra một
lượng lớn chất thải độc
hại vào môi trường (đặc
biệt là khí thải). Hiện nay
việc có được mua bán
hay không quyền phát
thải khí thải giữa các
nước đang là đề tài tranh
luận chưa ngã ngũ trong
các hội nghị thượng đỉnh
về môi trường, các nước
giàu vẫn chưa thực sự tự
giác chia sẻ tài lực với
các nước nghèo để giải
quyết những vấn đề có
liên quan tới môi trường.
- Ô nhiễm do nghèo
đói: Mặc dù chiếm tới
80% dân số thế giới,
song chỉ sử dụng 20%
tài nguyên và năng lượng
của thế giới, nhưng
những người nghèo khổ
ở các nước nghèo chỉ có
con đường duy nhất là
khai thác tài nguyên thiên
nhiên (rừng, khoáng sản,
đất đai,...) mà không có
khả năng hoàn phục.
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
(ASEM) về môi trường
họp vào tháng 1/2002 tại
Trung Quốc đã cho rằng
nghèo đói là thách thức
lớn nhất đối với công
tác bảo vệ môi trường
(BVMT) hiện nay. Do
vậy, để giải quyết vấn đề
môi trường, trước hết các
nước giàu phải có trách
nhiệm giúp đỡ các nước
nghèo giải quyết nạn
nghèo đói.
Như vậy, để phát triển,
dù là giàu có hay nghèo
đói đều tạo ra khả năng
gây ô nhiễm môi trường.
Vấn đề ở đây là phải
giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa phát triển
và BVMT. Để phát triển
bền vững không được
khai thác quá mức dẫn tới
14
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
hủy hoại tài nguyên, môi
trường; thực hiện các
giải pháp sản xuất sạch,
phát triển sản xuất đi đôi
với các giải pháp xử lý
môi trường; bảo tồn các
nguồn gen động vật, thực
vật; bảo tồn đa dạng sinh
học; không ngừng nâng
cao nhận thức của nhân
dân về BVMT,...
Thứ ba, môi trường
có liên quan tới tương lai
của đất nước, dân tộc.
Như trên đã nói,
BVMT chính là để giúp
cho sự phát triển kinh tế
cũng như xã hội được
bền vững. KT-XH phát
triển giúp chúng ta có
đủ điều kiện để đảm bảo
an ninh quốc phòng, giữ
vững độc lập chủ quyền
của dân tộc. Điều đó lại
tạo điều kiện ổn định
chính trị xã hội để KT-
XH phát triển. BVMT là
việc làm không chỉ có ý
nghĩa hiện tại, mà quan
trọng hơn, cao cả hơn là
nó có ý nghĩa cho tương
lai. Nếu một sự phát
triển có mang lại những
lợi ích kinh tế trước mắt
mà khai thác cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên,
hủy hoại môi trường,
làm cho các thế hệ sau
không còn điều kiện để
phát triển mọi mặt (cả về
kinh tế, xã hội, thể chất,
trí tuệ con người...), thì
sự phát triển đó phỏng có
ích gì! Nếu hôm nay thế
hệ chúng ta không quan
tâm tới, không làm tốt
công tác BVMT, làm cho
môi trường bị hủy hoại
thì trong tương lai, con
cháu chúng ta chắc chắn
sẽ phải gánh chịu những
hậu quả tồi tệ.
Tuy còn có nhiều
khó khăn về kinh tế,
song Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách tích
cực về công tác BVMT
như: Xây dựng hệ thống
pháp luật về BVMT
ngày càng hoàn thiện;
xây dựng hệ thống bộ
máy quản lý nhà nước
về môi trường từ trung
ương đến địa phương;
tăng cường đào tạo cán
bộ khoa học kỹ thuật và
cán bộ quản lý về môi
trường; đầu tư nhiều
chương trình, dự án phát
triển kinh tế, xã hội có ý
nghĩa về BVMT.
Tuy nhiên, trên thực
tế cũng phải thừa nhận
rằng còn nhiều điều
bất cập trong công tác
BVMT mà chúng ta chưa
làm được: Môi trường
vẫn từng ngày, từng giờ
bị chính các hoạt động
sản xuất và sinh hoạt của
chúng ta làm cho ô nhiễm
nghiêm trọng hơn, sự
phát triển bền vững vẫn
đứng trước những thách
thức lớn lao. Điều này đòi
hỏi mọi người, mọi nhà,
mọi địa phương trong cả
nước phải thường xuyên
cùng nhau nỗ lực giải
quyết, thực hiện nghiêm
chỉnh Luật BVMT. Có
như vậy chúng ta mới
có thể hy vọng vào một
tương lai với môi trường
sống ngày càng trong
lành hơn.
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
15
TÁC HẠI CỦA
NGUỒN NƯỚC
BỊ Ô NHIỄM
HỒNG THƠM
Nguyên nhân dẫn tới nguồn nước
bị ô nhiễm
Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa khá nhanh và sự gia tăng dân
số gây áp lực ngày càng nặng nề đối
với tài nguyên nước trong vùng lãnh
thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị,
khu công nghiệp và làng nghề ngày
càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải
và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn,
đông dân chất thải do sinh hoạt cũng là
một nguyên nhân quan trọng đang gây
ô nhiễm môi trường nước.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông
thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp,
hiện nay ở nước ta có gần 76% dân số
đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở
hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất
thải của con người và gia súc không
được xử lý nên thấm xuống đất hoặc
bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm
nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh
vật ngày càng cao.
Có nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm
môi trường nước như: sự gia tăng dân
số, mặt trái của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, cơ sở hạ tầng yếu
kém, lạc hậu, nhận thức của người dân
về vấn đề môi trường còn chưa cao
Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt
động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận
thức của nhiều cơ quan quản lý, tổ chức
và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm
vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu
sắc và đầy đủ, chưa thấy rõ ô nhiễm
môi trường nước là loại ô nhiễm gây
nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó
khắc phục đối với đời sống con người
cũng như sự phát triển bền vững của
đất nước.
Tác hại của ô nhiễm nguồn nước
Hậu quả chung của tình trạng ô nhiễm nước là tỉ lệ người mắc các
bệnh cấp và mạn tính liên quan đến ô
nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu
Nguồn nước ô nhiễm
có tác hại nghiêm trọng
tới sức khỏe con người,
tác hại của nó tỉ lệ với
người mắc bệnh cấp và
mãn tính như tiêu chảy,
ưng thư da.
16
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
chảy, ung thư ngày càng tăng. Người
dân sinh sống quanh khu vực ô nhiễm
ngày càng mắc nhiều loại bệnh tình
nghi là do dùng nước bẩn trong mọi sinh
hoạt. Ngoài ra ô nhiễm nguồn nước còn
gây tổn thất lớn cho các ngành sản xuất
kinh doanh, các hộ nuôi trồng thủy sản.
Các nghiên cứu khoa học cũng cho
thấy, khi sử dụng nước nhiễm asen để
ăn uống, con người có thể mắc bệnh
ung thư trong đó thường gặp là ung
thư da. Ngoài ra, asen còn gây nhiễm
độc hệ thống tuần hoàn khi uống
phải nguồn nước có hàm lượng asen
0,1mg/l. Vì vậy, cần phải xử lý nước
nhiễm asen trước khi dùng cho sinh
hoạt và ăn uống.
Người nhiễm chì lâu ngày có thể
mắc bệnh thận, thần kinh, nhiễm Amoni,
Nitrat, Nitrit gây mắc bệnh xanh da,
thiếu máu, có thể gây ung thư. Metyl
tert-butyl ete (MTBE) là chất phụ gia
phổ biến trong khai thác dầu lửa có khả
năng gây ung thư rất cao. Nhiễm Natri
(Na) gây bệnh cao huyết áp, bệnh tim
mạch, lưu huỳnh gây bệnh về đường
tiêu hóa, Kali, Cadimi gây bệnh thoái
hóa cột sống, đau lưng. Hợp chất hữu
cơ, thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng,
diệt cỏ, thuốc kích thích tăng trưởng,
thuốc bảo quản thực phẩm, phốt pho...
gây ngộ độc, viêm gan, nôn mửa.
Tiếp xúc lâu dài sẽ gây ung thư
nghiêm trọng các cơ quan nội tạng.
Chất tẩy trắng Xenon peroxide, sodium
percarbonate gây viêm đường hô hấp,
oxalate kết hợp với calcium tạo ra
calcium oxalate gây đau thận, sỏi mật.
Vi khuẩn, ký sinh trùng các loại là
nguyên nhân gây các bệnh đường tiêu
hóa, nhiễm giun, sán. Kim loại nặng các
loại: Titan, Sắt, chì, cadimi, asen, thủy
ngân, kẽm gây đau thần kinh, thận, hệ
bài tiết, viêm xương, thiếu máu.
Bảo vệ nguồn nước
Chiến lược lâu dài là có thể cung cấp những nguồn nước sinh hoạt an
toàn đã qua xử lý và cải thiện hệ thống
vệ sinh. Chiến lược ngắn hạn là sử dụng
những phương pháp xử lý nước đơn
giản tại hộ gia đình như lọc nước, đun
sôi nước bằng nhiệt lượng. Bên cạnh đó,
chiến dịch truyền thông nâng cao nhận
thức, cộng đồng có ý thức bảo vệ nguồn
nước, đặc biệt là cần phải áp dụng những
quy định nghiêm ngặt hơn đối với vấn
đề kiểm soát ô nhiễm, buộc tất cả mọi
doanh nghiệp - từ quy mô nhỏ đến lớn -
phải đáp ứng được những tiêu chuẩn tối
thiểu về nguồn nước thải trong sản xuất
kinh doanh, tránh ô nhiễm môi trường.
Máy lọc nước là một giải pháp tiết kiệm
và hiệu quả, bạn có thể lọc nước phục vụ
cho nhu cầu sử dụng hàng ngày để hạn
chế bớt chất độc hại bảo vệ sức khỏe
cho chính gia đình mình ngay tại nhà
mà không phải tốn quá nhiều thời gian,
tiền bạc và công sức.
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
17
Xã Mường Kim (Than Uyên) có 1.993 hộ,
với 10.493 khẩu, trong
đó có trên 80% dân số
làm nông nghiệp. Trước
đây, do một số tập quán,
thói quen lạc hậu, tình
trạng môi trường ở xã
bị ô nhiễm, là điều kiện
thuận lợi để các loại dịch
bệnh phát sinh.
Nhằm nâng cao nhận
thức của nhân dân về vệ
sinh môi trường, thực
hiện thói quen vệ sinh cá
nhân, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống,
UBND xã đã đẩy mạnh
công tác truyền thông
thông qua đội ngũ cộng
tác viên y tế tại cơ sở;
tuyên truyền cổ động
trực quan bằng băng
zôn, khẩu hiệu; tuyên
truyền lồng ghép trong
các đợt sinh hoạt của
Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh,
Đoàn Thanh niên, Mặt
trận tổ quốc... Nội dung
tuyên truyền, vận động
nhân dân nâng cao nhận
thức, ý thức bảo vệ môi
trường, không vứt rác,
đổ chất thải bừa bãi, sử
dụng nguồn nước sạch,
bảo đảm ATVSTP bằng
cách sử dụng nguồn
thực phẩm bảo đảm chất
lượng, bảo vệ nguồn
nước, thực hiện các
thói quen hợp vệ sinh.
Trường hợp vi phạm vệ
sinh môi trường, đổ rác
không đúng nơi quy định
đều bị nhắc nhở kịp thời.
Hằng năm, Ban chỉ
đạo ATVSTP xã đều
tuyên truyền, vận động
các hộ kinh doanh ăn
uống và giết mổ gia súc,
gia cầm trên địa bàn xã
cam kết thực hiện tốt các
quy định về ATVSTP.
Ngoài ra, xã còn tập
huấn công tác bảo vệ
môi trường, đề xuất với
CÔNG TÁC GIỮ GÌN VỆ SINH MÔI TRƯỜNG
PHÒNG CHỐNG
DỊCH BỆNH
Ở XÃ
MƯỜNG KIM
BẠCH MAI
18
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
Ngân hàng chính sách xã
hội triển khai dự án cho
hội viên Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ, Hội CCB
vay vốn xây dựng các
công trình vệ sinh, nước
sạch. Ban tuyên truyền
vệ sinh môi trường xã
phối hợp với trưởng các
bản và các đoàn thể vận
động nhân dân duy trì
nề nếp vệ sinh đường
làng ngõ xóm, tổ chức
thu gom rác thải. Các
đoàn thể đẩy mạnh tuyên
truyền, vận động hội
viên tổ chức chăn nuôi
theo quy mô trang trại,
phòng chống dịch bệnh
cho vật nuôi, xây dựng
hầm biogas xử lý chất
thải để vừa giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, vừa
tận dụng khí đốt phục vụ
cho sinh hoạt. Đến nay
toàn xã đã có 17 hộ xây
dựng được hầm biogas.
Trạm Y tế xã phối hợp
với 3 trường học trên địa
bàn tuyên truyền về giữ
gìn vệ sinh môi trường,
vệ sinh cá nhân, đặc biệt
là việc đảm bảo nước
sạch và các công trình vệ
sinh trong trường học, để
các em thực hành việc
rửa tay với xà phòng
ngay tại trường học.
Do tích cực triển khai
các hoạt động nhằm bảo
vệ môi trường, phòng
chống dịch bệnh, nhận
thức của nhân dân trong
xã đã có chuyển biến
tích cực và đã có những
hành vi thân thiện với
môi trường, xây dựng
môi trường sống xanh
- sạch - đẹp. Đến nay,
các tổ thu gom rác do
Hội viên Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ làm nòng cốt
được duy trì hoạt động
thường xuyên có nề nếp,
hiệu quả, góp phần giữ
gìn môi trường xóm làng
xung quanh sạch đẹp,
đẩy lùi được nhiều dịch
bệnh trên người và vật
nuôi, làm thay đổi bộ
mặt nông thôn. Từ năm
2008 đến nay, xã đã có
nước máy sử dụng trong
sinh hoạt. Trên địa bàn
xã hiện có trên 90% hộ
dân sử dụng nước sạch
trong sinh hoạt, trên 30%
hộ gia đình sử dụng nhà
tiêu hợp vệ sinh. Đường
làng ngõ xóm trong xã
xung quanh sạch đẹp.
Định kỳ 1 tuần/ lần, nhân
dân trong xã đồng loạt ra
quân tổng vệ sinh, phát
quang bụi rậm bờ ao,
khơi thông cống rãnh, thu
gom xử lý rác thải và các
loại bao bì đựng thuốc
bảo vệ thực vật đã qua
sử dụng, trồng và chăm
sóc bảo vệ cây xanh nơi
công cộng, xung quanh
nhà, tạo cảnh quan môi
trường xanh - sạch - đẹp.
Với những hoạt động
thiết thực trong cải thiện
hành vi vệ sinh cá nhân,
sức khỏe cộng đồng,
cải thiện môi trường
sống và công tác phòng,
chống dịch bệnh nên
nhiều năm trở lại đây xã
Mường Kim không xảy
ra dịch bệnh./.
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
19
Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối
với con người, vấn đề về
nước đang là 1 điều đáng
quan tâm hiện nay. Cũng
giống như không khí nước
là một thành phần thiết yếu
để duy trì cuộc sống. Con
người, cây cối... đều cần
nước để tồn tại. Nước là 1
hợp chất bao gồm hidro và
oxi, nước tinh khiết không
màu, không mùi, không vị,
chúng tồn tại ở 3 thể rắn,
lỏng, khí.
Vai trò của nước đối
với đời sống con người.
Trên trái đất, ¾ lãnh
thổ là nước, nước trong
các đại dương, ở biển, sông
ngòi, ao hồ, nước ở trong
lòng đất. Tuy nhiên nguồn
nước sạch không phải dồi
dào như chúng ta vẫn nghĩ.
Trên thực tế có tới 97,2%
nguồn nước trên trái đất là
nước mặn, còn lại 2,15%
là băng vĩnh cửu và chỉ có
0,65% là nguồn nước dành
cho con người.
Nước rất cần thiết cho
cuộc sống của con người,
nó chiếm khoảng 70% khối
lượng của cơ thể con người.
Nguồn nước sạch cung cấp
cho cơ thể để duy trì sự
sống, vậy nên con người
không thể sống mà không
có nước.
Đối với nông nghiệp:
Nước cần thiết cho cả chăn
nuôi lẫn trồng trọt. Bên cạnh
đó, trong sản xuất nông
nghiệp, thủy lợi luôn là vấn
đề được ưu tiên hàng đầu.
Trong công tác thủy lợi, ngoài
hệ thống tưới tiêu còn có tác
dụng chống lũ, cải tạo đất
Đối với công nghiệp:
Mức độ sử dụng nước trong
các ngành công nghiệp
là rất lớn như ngành khai
khoáng, sản xuất nguyên
liệu công nghiệp
Đối với du lịch: Du lịch
đường sông, du lịch đường
biển đang ngày càng phát
triển. Đặc biệt ở một nước
nhiệt đới như ở nước ta có
nhiều sông hồ và đường bờ
biển dài hàng ngàn kilomet.
Đối với giao thông: Là
một trong những con đường
tiềm năng và chiến lược,
giao thông đường thủy mà
cụ thể là đường sông và
CHUNG TAY BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG,
BẢO VỆ NGUỒN NƯỚC
PHƯƠNG THÚY
20
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
đường biển có ý nghĩa rất
lớn, quyết định nhiều vấn đề
không chỉ là kinh tế mà còn
là văn hóa, chính trị, xã hội
của một quốc gia.
Đối với sức khỏe và
đời sống sinh hoạt của con
người: Nước đóng một vai
trò vô cùng quan trọng. Con
người có thể thiếu ăn, thiếu
ngủ, thiếu mặc nhưng không
thể nào thiếu nước sạch.
Đây là nguồn tài nguyên
cần thiết và không thể thiếu
trong đời sống sinh hoạt của
con người.
Khi đời sống xã hội tăng
cao cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của công nghiệp,
sự tác động của biến đổi khí
hậu đến môi trường, nguồn
nước, con người, đời sống
kinh tế xã hội thì nguồn
nước này vốn đã khan hiếm
nay lại ngày càng thiếu
trầm trọng hơn, con người
đang thực sự đối mặt với
nguy cơ thiếu nước trong
tương lai không.
Nguyên nhân dẫn đến
nguồn nước bị ô nhiễm
Tốc độ công nghiệp hóa
và đô thị hóa khá nhanh và
với sự gia tăng dân số, cùng
với đó là cơ sở hạ tầng yếu
kém, lạc hậu, nhận thức
của người dân về vấn đề
môi trường còn chưa cao,
hoạt động quản lý, bảo vệ
môi trường nước chưa sâu
sắc và đầy đủ, chưa thấy
rõ ô nhiễm môi trường
nước là loại ô nhiễm gây
nguy hiểm trực tiếp đến
đời sống con người cũng
như sự phát triển bền vững
của đất nước. Tình trạng ô
nhiễm nước do nước thải,
rác thải sinh hoạt không có
hệ thống xử lý mà trực tiếp
xả ra nguồn sông, hồ, kênh,
mương, suối... Mặt khác,
còn rất nhiều cơ sở sản xuất
không xử lý nước thải, phần
lớn các bệnh viện và cơ sở
y tế lớn chưa có hệ thống
xử lý nước thải là những
nguồn quan trọng gây ra ô
nhiễm nguồn nước.
Vì vậy, cần phải nhận
thức rõ việc sử dụng nguồn
nước phải đi đôi với bảo vệ
vì nước không phải là tài
nguyên vô tận. Các cơ quan
chức năng cần có nhiều hoạt
động tuyên truyền công tác
bảo vệ tài nguyên nước, đưa
ra nhiều biện pháp nhằm
kêu gọi tất cả các thành viên
trong xã hội nâng cao ý thức,
cùng hành động tích cực và
sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên này. Nhà nước cần
đưa ra những chính sách bảo
vệ môi trường mới, những
chính sách kiểm soát và xử
lý ô nhiễm có tính răn đe đối
với các nhà máy xí nghiệp,
đầu tư xây dựng các dự án
công trình xử lý nước thải;
người dân phải sử dụng
hợp lý, tiết kiệm tài nguyên
nước, có ý thức bảo vệ môi
trường, bảo vệ nguồn nước,
không lạm dụng hóa chất,
phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, không đổ rác thải
bừa bãi ra sông hồ, mỗi cá
nhân nên tích cực vận động,
tuyên truyền để mọi người
quan tâm tới tầm quan trọng
của nguồn nước sạch, nâng
cao ý thức trong sử dụng và
bảo vệ nguồn nước.
Bảo vệ môi trường, bảo
vệ nguồn nước sạch là quá
trình lâu dài và nhiều khó
khăn. Song, nếu có sự chung
tay của cả cộng đồng thì
chắc chắn môi trường của
chúng ta sẽ được cải thiện.
Mỗi người cần nhận thức
và có hành động tiết kiệm
nước, dù nhỏ nhưng sẽ góp
phần rất lớn trong việc bảo
vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá này, góp phần
bảo vệ sự sống của con
người và mọi sinh vật trên
trái đất./.
Bản tin Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
21
TIN HOẠT ĐỘNG
Trong hai ngày từ 13-14/08/2015 tại Hội trường Dạy nghề và Hỗ
trợ nông dân, Hội Nông dân tỉnh phối
hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường,
trung tâm Con người và Thiên nhiên
PanNaurre tổ chức lớp tập huấn “Chính
sách phát triển và kế hoạch của địa
phương, cùng với tích hợp khuôn khổ
quốc gia về thích ứng Biến đổi khí hậu”
Tham dự lớp tập huấn có ông Nguyễn
Văn Sáu, phó giám đốc Sở TN&MT Lai
Châu, lãnh đạo các sở, ngành liên quan
cùng 35 học viên huyện Tam Đường,
Phong Thổ và thành phố Lai Châu. Đây
là hoạt động năm trong khuôn khổ dự
án “Tăng cường vai trò cho các tổ chức
Phi chính phủ trong hoạt động truyền
thông chính sách phát triển và kế hoạch
của địa phương, cùng với tích hợp
khuôn khổ quốc gia về thích ứng Biến
đổi khí hậu” được tài trợ bởi CISU do
ADDA phối hợp với PanNaurre. Dự án
nhằm hỗ trợ các cộng đồng nhân dân ở
địa bàn miền núi Tây Bắc cải thiện khả
năng tiếp cận thông tin về chính sách
liên quan đến biến đổi khí hậu, đồng
thời tăng cường ảnh hưởng đối với việc
hoạch định chính sách và lập kế hoạch
quản lý, sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, giải quyết các vấn đề thích
ứng với biến đổi khí hậu, na ninh lương
thực và giảm nghèo tại địa phương.
Để nâng cao hiệu quả và tính thực
tiễn của lớp tập huấn, ban tổ chức đã
mời Chuyên gia Nguyễn Đức Anh và Lê
Đức Chung cung cấp các khái niệm cơ
bản nhất về quy trình xây dựng các chính
sách công ở Việt Nam và giới thiệu tổng
quan về một số chính sách liên quan đến
biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Quốc Tế
và Việt Nam và đánh giá chính sách về
BĐKH thời gian qua. Trong thời gian 2
ngày của khóa tập huấn, học viên có cơ
hội trải nghiệm tất cả các bước của quá
trình chính sách. Để quá trình chính sách
phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_doi_khi_hau_nhung_van_de_can_quan_tam_trong_phat_trien.pdf