A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM
VÀ CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM, TĂNG DTTT SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP 1
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM, HÀNG HOÁ 1
1.1.1. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và DTTT sản phẩm, hàng hoá 1
1.1.2. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm : 4
1.1.3. Ý nghiã của tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm 5
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. 6
1.1.4.1. Các nhân tố chủ quan: 7
1.1.4.2. Các nhân tố khách quan 11
1.2. CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM, TĂNG DTTT SẢN PHẨM, HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP 14
1.2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp 14
1.2.1.1. Xuất phát từ mục đích sản xuất của các doanh nghiệp
là sản xuất sản phẩm để tiêu thụ chứ không phải để tiêu dùng: 14
1.2.1.2. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của việc thúc đẩy tiêu thụ
sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm đối với sự tồn tại, phát triển
của doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung 15
1.2.1.3. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và thực trạng tiêu thụ
sản phẩm, DTTT sản phẩm của các doanh nghiệp Việt nam trong điều kiện hiện nay. 16
1.2.2. Vai trò của TCDN trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm,
tăng DTTT và một số biện pháp chủ yếu để thúc đẩy tiêu thụ
sản phẩm, tăng DTTT 18
1.2.2.1.Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy
tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm của doanh nghiệp 18
1.2.2.2. Các biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm của doanh nghiệp 20
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ DOANH THU TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY VẬT TƯ -
VẬN TẢI- XI MĂNG 25
2.1. VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA CÔNG TY VẬT TƯ-
VẬN TẢI- XI MĂNG 25
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của công ty vật tư- vận tải- xi măng 25
2.1.2. Đặc điểm tổ chức, quản lý. 26
2.1.3. Đặc điểm tổ chức SXKD. 28
2.1.4. Đặc điểm công tác hạch toán kế toán của Công ty. 29
2.2. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ DTTT SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY VẬT TƯ- VẬN TẢI- XI MĂNG 31
2.2.1. Một số đặc điểm về công tác tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm
tại Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng 31
2.2.1.1.Về đặc điểm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ và thị trường tiêu thụ 31
2.2.1.2. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty. 33
2.2.1.3. Đặc điểm về nguồn hàng của Công ty. 33
2.2.2. Tình hình lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng 34
2.2.2.1. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ
của Công ty 34
2.2.2.2. Tình hình thực hiện Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ
và DTTT của Công ty. 36
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC BIỆN PHÁP
THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ TĂNG DTTT
TẠI CÔNG TY VẬT TƯ- VẬN TẢI- XI MĂNG 58
3.1. ĐỊNH HƯỚNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN TRONG NĂM 2002 VÀ NHỮNG NĂM TỚI. 58
3.1.1. Đặc điểm tình hình tiêu thụ trong những năm tới. 58
3.1.2. Định hướng kế hoạch phát triển của Công ty trong năm 2002
và những năm tới. 60
3.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TIÊU THỤ HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ VÀ TĂNG DTTT TRONG THƠÌ GIAN TỚI TẠI CÔNG TY VẬT TƯ- VẬN TẢI - XI MĂNG 61
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. NHẬN XÉT
81 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng DTTT sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nói, đây là mặt hàng Công ty độc quyền cung cấp cho các nhà máy. Tuy nó chưa được sử dụng nhiều, lãi suất kinh doanh chưa cao nhưng về phía Công ty đã mở rộng được mặt hàng kinh doanh mới, tạo công ăn việc làm cho trên 40 người.
Ngoài các loại vật tư chủ yếu này Công ty còn kinh doanh một số loại vật tư khác cũng phục vụ cho sản xuất xi măng như: quặng sắt, đá bô xít, cát tiêu chuẩn.... Các mặt hàng này tuy khối lượng kinh doanh không lớn nhưng cũng đã góp phần trong việc mở rộng các mặt hàng tiêu thụ, mở rộng DTTT và giải quyết các vấn đề khác cho Công ty.
* Đối với dịch vụ vận tải: lĩnh vực vận tải không chỉ được thực hiên bằng đương bộ (với gần 250 đầu xe) mà còn thực hiện cả vận chuyển bằng đường sông, biển bằng các doàn xà lan mà Công ty đã đầu tư.
Với các nhiệm vụ vận chuyển:
+ Vận chuyển clinker Bắc- Nam.
+ Vận chuyển thuê các hàng hoá khác cho xã hội.
* Đối với kinh doanh, đại lý xi măng:
Ngày 25/05/1998 TCTXMVN giao thêm nhiệmvụ tổ chức tiêu thụỗi măng trên địa bàn các tỉnh: Thái Nguyên, Cao Bằng. Bắc Cạn, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội.
Đối với việc kinh doanh này Công ty tổ chức đặt các cửa hàng, đại lý tại chi nhánh Lào Cai, chi nhánh Phú Thọ, chi nhánh Thái Nguyên, chi nhánh Vĩnh Phúc, Trung tâm I- Đông Anh, Trung tâm II- Gia lâm.
Mặt hàng xi măng mà Công ty kinh doanh cũng bao gồm nhiều chủng loại khác nhau như: xi măng trắng, xi măng PCB30, xi măng PCB40, xi măng rời. Các loại xi măng này được lấy từ các nhà máy như Hải phòng, Hoàng Thạch, Bút Sơn.
Khi được giao nhiêm vụ kinh doanh mặt hàng này, doanh thu mang lại lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng DTTT sản phẩm hàng năm của Công ty. Chỉ tính trong 7 tháng cuối năm 1999, doanh thu của mặt hàng này đạt 167. 701 triệu đồng, chiếm 46,75% tổng DTTT năm 1999.
Do việc sắp xếp, tổ chức lại hoạt động SXKD trong TCTXMVN, nên kể từ 01/04/2001, nhiệm vụ kinh doanh xi măng được giao cho Công ty Vật tư - kỹ thuật - xi măng, hiện nay Công ty chỉ thực hiện đại lý một số loại xi măng như: xi măng Hải Phòng, xi măng ChinFon.
Nhìn chung các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung cấp đều là những loại sản phẩm gắn liền với hoạt động sản xuất và tiêu thụ xi măng cuả các NMXM. Do đó, sự lớn mạnh hay tụt hậu của ngành công nghiệp xi măng, đặc biệt là các NMXM trong TCTXMVN sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Công ty.
2.2.1.2. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty nhìn chung là phân tán, không tập chung, nằm rải rác ở nhiều địa bàn khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là khu vực phía Bắc: Thanh Hoá, Hà Nam, Hải phòng...
Về khách hàng của Công ty, đó là các nhà máy sản xuất xi măng, là những khách hàng quen thuộc và là thành viên trong TCTXMVN. Đây là những nhà máy sản xuất xi măng chủ lực của TCTXMVN nên khối lượng vật tư mà Công ty cung cấp cho họ là tương đối lớn và ổn định.
Ngoài ra, trong các lĩnh vực kinh doanh khác khách hàng của Công ty là các đơn vị, cá nhân có nhu cầu.
2.2.1.3. Đặc điểm về nguồn hàng của Công ty.
Nguồn hàng của Công ty được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ theo từng loại hàng hoá:
- Đối với mặt hàng than cám, được nhập chủ yếu từ Quảng Ninh.
- Các loại phụ gia chủ yếu mua ở Quảng Ninh và một phần được lấy từ Lạng Sơn.
- Xỉ được lấy từ Lâm Thao và một phần do chi nhánh Phả Lại của Công ty sản xuất.
- Vận chuyển clinker: vận chuyển từ Bút Sơn vào Sài Gòn.
- Mặt hàng xi măng được lấy từ các NMXM như: Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Hải Phòng.
Nhìn chung trong việc tìm kiếm các nguồn hàng của các đơn vị tại các địa điểm trên luôn được Công ty caan nhắc kỹ lưỡng để lựa chọn ra đơn vị có giá mua hợp lý nhất, góp phần mang lại hiệu quả cao cho Công ty.
2.2.2. Tình hình lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng
2.2.2.1. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty
Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ là một trong những kế hoạch được Công ty lập vào cuối năm báo cáo, đây là một mảng trong kế hoạch tài chính của Công ty. Thực chất của kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ là việc dự đoán trước số lượng hàng hoá sẽ được tiêu thụ, đơn giá bán hàng hoá trong kỳ kế hoạch, từ đó dự kiến DTTT sản phẩm sẽ đạt được trong kỳ kế hoạch để có thể chủ động tổ chức hoạt động kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá cho mình. Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ được lập một cách cụ thể, chính xác sẽ tạo điều kiện cho Công ty tổ chức hoạt động nói chung và tổ chức tiêu thụ nói riêng đi đúng hướng đã định. Nếu công tác tiêu thụ không được kế hoạch hoá cụ thể, chặt chẽ thì quá trình tiêu thụ sẽ bị rơi vào thế bị động, hàng hoá nhập mua không phù hợp với nhu cầu, cung không phù hợp với cầu dẫn đến hiệu quả kinh doanh mang lại sẽ thấp. Hơn nữa, do kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ là một phần của kế hoạch tài chính của Công ty nên nếu thiếu kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ hoặc không chính xác sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt kế hoạch khác như: kế hoạch lao động, kế hoạch vốn, kế hoạch lợi nhuận... khiến cho hoạt động kinh doanh diễn biến bất thường, mất cân đối, xa rời thực tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác lập kế hoạch này, mà Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng rất chú trọng đến công tác này, thực hiện đầy đủ các yêu cầu nhằm đưa ra kế hoạch sát thực tế nhất. Công tác này do phòng kinh tế kế hoạch của Công ty đảm nhận.
Để đảm bảo kế hoạch lập ra sát thực tế, Công ty không chỉ tiến hành lập kế hoạch cho cả năm mà còn lập kế hoạch theo quý, tháng, các kế hoạch này được lập ra trên cơ sở kế hoạch năm cà có các điều chỉnh phù hợp với biến động thực tế, do đó kế hoạch tháng bao giờ cũng được đánh giá là sát thực tế nhất.
Công tác lập Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng được tiến hành theo hai bước cụ thể:
- Phòng kinh tế kế hoạch lập kế hoạch khối lượng tiêu thụ cho cả năm sau đó gửi kế hoạch này lên TCTXMVN.
- TCTXMVN xem xét kế hoạch khối lượng tiêu thụ của Công ty, kết hợp với kế hoạch khác của TặNG CôNG TY, điều chỉnh nếu cần thiết và gửi kế hoạch khối lượng chính thức về Công ty. Trên cơ sở kế hoạch chính thức này và đơn giá bình quân của một số mặt hàng đã ký trên các HĐKT và các đơn giá kế hoạch của một số mặt hàng khác để lập ế hoạch tiêu thụ của toàn bộ các mặt hàng.
Phương pháp lập Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ :
* Căn cứ lập:
+ Số lượng xi măng mà các NMXM sẽ sản xuất trong năm kế hoạch và định mức kinh tế kỹ thuật, định mức vật tư tính cho một tấn xi măng sản xuất.
+ Khả năng của Công ty :
- Khả năng khai thác các nguồn hàng.
- Nguồn vận tải bốc xếp.
- Tiềm lực của Công ty : tiền vốn và nhân lực.
* Thời điểm lập:
Công ty tiến hành lập kế hoach tiêu thụ sản phẩm cả năm vào cuối năm báo cáo. Các kế hoạch quý, tháng được lập vào những ngày cuối quý, tháng trước quý, tháng kế hoạch.
Nhìn chung công tác lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ được tổ chức tiến hành chặt chẽ, chi tiết theo từng mặt hàng, từng lĩnh vực kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả của công tác này chúng ta sẽ tham khảo phân tích tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001 ở phần sau, nhưng nhìn chung trong những năm qua công tác này đã được thực hiện rất hiệu quả, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung của Công ty.
Theo phương pháp lập trên, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2001 được lập ra như sau (Bảng 1).
Thông qua bảng kế hoạch trên ta thấy, tổng doanh thu kế hoạch năm 2001 đặt ra là 307.665 triệu đồng. Kế hoạch tiêu thụ này được lâp cụ thể cho từng lĩnh vực, từng mặt hàng, bao gồm các chi tiêu về số lượng, đơn giá bình quân và doanh thu tiêu thụ. Trong cơ cấu doanh thu kế hoạch xây dựng trong năm 2001 thì DTTT mặt hàng than cám chiếm tỷ trọng lớn nhất, kế hoạch doanh thu mặt hàng này là 164.032 triệu đồng với khối lượng tiêu thụ là 450.000 tấn.
2.2.2.2. Tình hình thực hiện Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và DTTT của Công ty.
a. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện.
+ Những mặt thuận lợi:
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của TCTXMVN, đặc biệt là trong lĩnh vực mua bán vật tư và vận chuyển Clinker Bắc - Nam, cụ thể:
4Trong lĩnh vực kinh doanh vật tư: TCTXMVN có các văn bản 1924/XMVN - KH ngày 5 tháng 11 năm 1999 và 2177/XMVN - VP ngày 10 tháng 12 năm 1999 nêu rõ việc mua bán than cám, Xỉ pyrit cung ứng cho các công ty xi măng đều tập trung qua Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng.
4Trong lĩnh vực vận chuyển Clinker Băc - Nam: Tại các văn bản 442/XMVN - KH ngày 6/4/2000 và 613/XMVN/VP/ĐĐ ngày 9/5/2000, tổng giám đốc TCTXMVN đã quyết định giao nhiệm vụ cho Công ty Vật tư - Vận tải- Xi măng tiếp tục nhận và vận chuyển toàn bộ số lượng clinker từ các công ty xi măng phía bắc và giao cho công ty xi măng Hà Tiên I.
Đồng thời trong lĩnh vực kinh doanh xi măng quý I/2001, công ty đã được lãnh đạo TCTXMVN giúp đỡ tạo mọi điều kiện về vốn, thông tin thị trường cũng như được giao quyền tự chủ hơn trong việc thu mua vật tư cho các nhà máy theo đúng tiêu chuẩn, số lượng kế hoạch đề ra. Mặt khác khách hàng của công ty chủ yếu là các NMXM trực thuộc TCTXMVN cho nên việc mua, bán, thanh toán hoặc mâu thuẩn phát sinh luôn được TCT kịp thời tư vấn, chỉ đạo giải quyết.
- Mối quan hệ của công ty với các bạn hàng tiếp tục được cũng cố và phát triển, đặc biệt là các bạn hàng truyền thống trong mua bán than và thuê vận tải. Chính vì vậy, nguồn hàng vật tư đầu vào và lực lượng phương tiện vận tải xã hội tiếp tục ổn định, đây là yếu tố hết sức thuận lợi, đảm bảo cho Công ty luôn có đủ vật tư để cung ứng cho các khách hàng đúng tiến độ, đồng thời ổn định việc chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh doanh có lãi.
- Công ty có đội vận tải thuỷ bộ tham gia kinh doanh và kiêm luôn dịch vụ vận chuyển vật tư, xi măng đến chân công trình hoặc tới địa chỉ của khách hàng. đây là một lợi thế góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, nâng cao uy tín của Công ty.
- Mối quan hệ giữa Công ty và các Công ty xi măng đã được cải thiện theo chiều hướng thuận lợi cho SXKD của Công ty.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi cơ bản, trong quá trình tổ chức thực hiện Công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh và tình hình thực hiện kế hoạch của Công ty.
+ Những mặt khó khăn:
- Mặc dù TCTXMVN đã có những văn bản chỉ đạo cụ thể về kinh doanh vật tư đầu và và vận chuyển clinker Bắc - Nam, song trong thực tế khi triển khai thực hiện hai nhiệm vụ này còn gặp nhiều khó khăn:
4 Về thị trường than: Một số Công ty xi măng chỉ ký hợp đồng mua bán than với công ty ở mức 50% - 70% so với yêu cầu thực tế và liên tục đề nghị giảm giá bán, phần còn lại các Công ty xi măng trực tiếp mua của các khách hàng khác. Trong khi đó, TCTthan vẫn tiếp tục theo đuổi mục tieu bán than trực tiếp tại cuối nguồn cho các Công ty xi măng với giá bán rất cạnh tranh.
4 Về thị trường vận chuyển clinker : Các Công ty xi măng luôn đặt ra các tình huống để tự đảm bảo vận chuyển một phần khối lượng clinker, đồng thời liên tục đề nghị giảm cước vận chuyển.
- Từ 1/4/2001, Công ty thực hiện bàn giao toàn bộ khối lượng kinh doanh xi măng sang công ty vật tư - kỹ thuật - xi măng theo quyết định của TCTXMVN. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng của cán bộ công nhân viên và kế hoạch điều hành SXKD của Công ty.
- Giá bán than và xi măng có biến động, gây khó khăn cho công ty trong quá trình thực hiện.
- Tình hình thanh toán tiền hàng, cước vận chuyển của Công ty xi măng Bút sơn và các đơn vị kinh doanh rất chậm đã gây khó khăn lớn về vốn trong kinh doanh của Công ty nhất là trong 6 tháng đầu năm 2001.
- Sự phối hợp, điều hành công việc giữa các phòng ban, chi nhánh chưa ăn khớp, nhịp nhàng, linh hoạt. Việc giải quyết chế độ lương thưởng chưa hợp lý... gây thêm khó khăn cho công ty trong việc đạt kế hoạch tiêu thụ của cả năm.
b. Kết quả thực hiện tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm năm 2001 của Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng
Trong năm 2001, Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng, đã có nhiều nỗ lực, tranh thủ thuận lợi, vượt khó khăn nhằm thực hiện tốt kế hoach SXKD nói chung và Kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nói riêng mà Công ty đã đặt ra. Và kết quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ đạt được trong năm 2001 được đánh giá là khá. Kết quả đạt được như sau: ( Bảng 02 ).
Như vậy, tổng DTTT các hàng hoá, dịch vụ của Công ty đạt được trong năm 2001 là 330.855 triệu đồng, trong đó cụ thể các mặt hàng đạt được như sau:
+ Mặt hàng than cám: Đây là mặt hàng có doanh thu chiếm tỷ trọng lớn nhất (55,4% ), doanh thu đạt được là 182.121 triệu đồng, trong đó:
-Than cám 3: đạt sản lượng tiêu thụ là 436.000 tấn với doanh thu tương ứng là 161.320 triệu đồng.
- Than cám 4a đạt sản lượng tiêu thụ là 61.000 tấn với doanh thu đạt được là 20.801 triệu đồng.
+ Các loại phụ gia: Với doanh thu đạt được là 5.418,78 triệu đồng, tuy chiếm tỷ trọng không đáng kể (1,64%) trong tổng doanh thu song đây là các mặt hàng đã góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty và đây là kết quả của mục tiêu đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh của Công ty. Trong năm 2001, thực hiện kinh doanh các loại phụ gia như Xỉ pyrit, đá bô xít, quặng sắt, cát tiêu chuẩn ISO, đá đen. Trong các loại phụ gia này, chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của nhóm này là mặt hàng Xỉ pyrit đạt khối lượng tiêu thụ là 16.000 tấn với DTTT là 2.392,5 triệu đồng; sau đó là mặt hàng đá bô xít với khối lượng tiêu thụ là 10.230 tấn, đạt doanh thu là 1.902,78 triệu đồng.
+ Mặt hàng xi măng: Đây là mặt hàng chỉ tiêu thụ trong quý 1 năm 2001, song sản lượng cũng đạt được 88.420 tấn tương ứng với doanh thu đạt được là 60.449,85 triệu đồng, chiếm 18,25% tổng doanh thu. Trong các loại xi măng tiêu thụ trong quý 1 năm 2001 thì xi măng Hoàng Thạch đạt được khối lượng lớn nhất với sản lượng là 56.430 tấn và doanh thu là 36.767,41 triệu đồng.
Việc kinh doanh mặt hàng này trong quý 1 năm 2001 vẫn gặp rất nhiều khó khăn về thị trường, chi phí, giá cả... Để đạt được kết quả trên thì Công ty đã phải sử dụng rất nhiều biện pháp đặc niệt là các đòn bẩy tài chính như giảm giá, hỗ trợ vận chuyển....
+ Lĩnh vực vận chuyển: Trong năm 2001, đạt được DTTT là 80.731 triệu đồng chiếm 24,4% tổng doanh thu. Trong đó hoạt động mạnh nhất và hiệu quả nhất vẫn là vận chuyển clinker, tổng khối lượng clinker vận chuyển trong năm 2001 đạt 394.000 tấn với doanh thu là 78.012 triệu đồng. Các lĩnh vực vận chuyển khác chiếm tỷ trọng không đáng kể và không ổn định giữa các quý, tháng trong năm.
+ Kinh doanh các mặt hàng khác: bao gồm hoạt động cho thuê kho, đại lý xi măng ChinFon, xi măng Lam Thạch và của chi nhánh Phả Lại đem lại doanh thu là 2.134,37 triệu đồng, chỉ chiếm 0,73% tổng DTTT cả năm.
Với kết quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ như vậy, chúng ta vẫn chưa thể có kết luận gì, để đánh giá công tác tiêu thụ của Công ty là tốt hay chưa, cần có sự so sánh, đánh giá, từ đó mới thấy được điểm mạnh, yếu trong công tác tiêu thụ, tìm hiểu được nguyên nhân và đưa ra được các biện pháp có ích nhất. Sau đây là sự so sánh kết quả tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ năm 2001 với năm 2000 và kế hoạch đặt ra:
* So sánh với năm 2000: (Bảng 03).
Như vậy, xét về tổng doanh thu ta thấy doanh thu năm 2001 giảm đi so với năm 2000, với mức giảm là 133.257 triệu đồng và tỷ lệ giảm là 28,7%. Đi xem xét cụ thể từng mặt ta thấy:
- Xét về khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ năm 2001 so với năm 2000: Nhìn chung các mặt hàng tiêu thụ đều tăng lên, cón mặt hàng tăng tới 466% như mặt hàng cát tiêu chuẩn ISO, các mặt hàng kinh doanh chính như than cám, vận chuyển clinker cũng đều tăng lên: mặt hàng than cám tăng 103.000 tấn, tỷ lệ tăng là 26,2% còn vận chuyển clinker tăng 112.387 triệu tấn, tỷ lệ tăng là 40%.
Đối với mặt hàng xi măng lại giảm đáng kể, trong năm 2001 chỉ tiêu thụ được là 88.420 tấn giảm 257.884 tấn so với năm 2000 và tỷ lệ giảm là 74,5%. Như vậy mức giảm và tỷ lệ giảm của mặt hàng này khá lớn song đây không phải là nguyên nhân do chủ quan của Công ty, mà do sự sắp xếp, điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh của TCTXMVN mà nhiệm vụ kinh doanh mặt hàng này đã được chuyển giao cho đơn vị khác từ ngày 1/4/2001. Mặc dù, trong năm 2001, kinh doanh mặt hàng này vẫn còn rất khó khăn song để đạt được mức tiêu thụ là 88.420 tấn thì bản thân Công ty cũng đã phải nỗ lực rất nhiều, áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt, đặc biệt là các biện pháp như giảm giá và hỗ trợ vận chuyển.
Riêng mặt hàng Xỉ pyrit mặc dù kinh doanh chưa có hiệu quả song cũng là một loại phụ gia chủ yếu trong nhóm các phụ gia kinh doanh tại Công ty, nó đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm cho chi nhánh Phú Thọ. Trong năm 2001 việc kinh doanh mặt hàng này chỉ đạt 16.500 tấn thấp hơn năm 2000 là 1.947 tấn, tỷ lệ giảm là 10,6%, nguyên nhân chủ yếu là trong năm 2001 Công ty không thực hiện cung cấp Xỉ pyrit cho NMXM Hoàng Thạch, Hải Phòng, Bút Sơn nữa. Tuy nhiên Công ty đã cố gắng ký kết được Hợp đông cung cấp mặt hàng này cho một số đơn cị khác trong đó có NMXM liên doanh Nghi Sơn. Đây là một khách hàng rất có triển vọng, là một điều kiện tốt nếu Công ty có biện pháp để giữ vững được, chỉ tính từ tháng 5/2001 đến cuối năm Công ty đã cung cấp được cho NMXM Nghi Sơn là 10.122,3 tấn Xỉ pyrit chiếm 61,4% trong tổng số Xỉ tiêu thụ được trong năm.
Như vậy xét về mặt khối lượng của các loại hàng hoá, dich vụ trong năm 2001, có thể thấy Công ty đã có những tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy khối lượng tiêu thụ so với năm 2000. Đây là những điểm đáng ghi nhận song để đánh giá thoả đáng về mặt này chúng ta còn phải xem xét tương quan với kế hoạch đặt ra ( phần sau ).
- Xét về mặt DTTT năm 2001 so với năm 2000:
Cùng với sự tăng lên về mặt khối lượng của một số mặt hàng thì doanh thu của các mặt hàng này đều tăng, mặc dù tốc độ tăng doanh thu và tốc độ tăng khối lượng tiêu thụ là không giống nhau vì doanh thu còn chịu ảnh hưởng một số nhân tố khác.
Mặt hàng có doanh thu tăng nhiều nhất vẫn là than cám với mức tăng là 34.849 triệu đồng, tỷ lệ tăng là 23,6%. Các mặt hàng như quặng sắt, các tiêu chuẩn, đá bô xit, vận chuyển clinker... cũng làm doanh thu tăng đáng kể. Cá biệt có mặt hàng Xỉ pyrit, mặc dù khối lượng tiêu thụ giảm đi xong doanh thu lại tăng lên với mức tăng là 537,5 triệu đồng và tỷ lệ tăng là 29%, nguyên nhân chủ yếu là do giá cả, cước phí lưu thông của mặt hàng này cho việc tiêu thụ tại Nghi sơn ( Thanh Hoá) cao hơn so với cước phí lưu thông khi cung cấp cho NMXM Hải phòng, NMXM Hoàng Thạch.
Do mặt hàng xi măng có khối lượng giảm mạnh, đồng thời đây cũng là mặt hàng có dơn gí bình quân cao 714.000 đồng/tấn xi măng (Mức giá bình quân năm 2000) nên cũng làm doanh thu giảm mạnh, mức giảm là 186.739,15 triệu đồng, tỷ lệ giảm là 75,5%, đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu làm tổng DTTT năm 2001 thấp hơn so với năm 2000 mặc dù DTTT của một số mặt hàng khác có tăng lên.
Đánh giá một cách tổng quát cả về mặt khối lượng tiêu thụ cả về DTTT của Công ty năm 2001 so với năm 2000 có thể được đánh giá là có nhiều cố gắng trong việc thúc đẩy tiêu thụ và tăng DTTT, đây là những điểm đáng ghi nhận song vấn đề quan trọng để đánh giá đúng thực chất công tác tiêu thụ của bất kỳ doanh nghiệp nào đó là có hoàn thành kế hoạch tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ đã đặt ra hay không.
* Phân tích đánh giá tình hình kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và DTTT sản phẩm của Công ty năm 2001
+ Kết quả so sánh tình hình thực hiện tiêu thụ và DTTT của Công ty giữa kế hoạch với thực tế năm 2001 ( bảng 4)
Thông qua số liệu của bảng trên ta thấy, với kế hoạch về tổng doanh thu bán hàng đặt ra là 305.139,1 triệu đồng thì thực tế năm 2001 đạt được 330.855 triệu đồng, như vậy đã vượt kế hoạch 25.751,9 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 8,43%. Tuy nhiên, nếu xét trên từng mặt hàng thì không phải mặt hàng kinh doanh nào cũng có doanh thu tăng lên mà có những mặt hàng hoàn thành hoặc vượt kế hoạch đề ra nhưng cũng có những mặt hàng không hoàn thành kế hoạch về khối lượng tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ. Cụ thể xem xét từng mặt hàng theo từng yếu tố ta thấy:
- Sự biến động về khối lượng tiêu thụ giữa kế hoạch với thực tế năm 2001 của các mặt hàng:
+ Mặt hàng than cám:
Như đã biết đây là mặt hàng kinh doanh chủ đạo, có hiệu quả kinh tế cao và đem lại lợi nhuận lớn nhất cho Công ty.
Trong năm 2001, với kế hoạch đặt ra là sẽ tiêu thụ 450.000 tấn than cám các loại thì thực tế đã tiêu thụ được 497.000 tấn như vậy đã tăng 47.000 tấn với tỷ lệ tăng là 10,4%. Trong đó than cám 3 tiêu thụ được 436.000 tấn tăng 42.000 tấn so với kế hoạch đặt ra và tỷ lệ tăng là 10,5%; Than cám 4a cũng đạt được 61.000 tấn tăng 5.000 tấn so với kế hoạch và tỷ lệ tăng là 8,9%. Như vậy cả hai loại than cám mà Công ty kinh doanh thì loại nào cũng vượt kế hoạch đặt ra.
Xét về khía cạnh thực hiện các HĐKT ký kết tiêu thụ than cám, nhìn chung có thế thấy đều thực hiện đủ khối lượng và ngoài ra còn thực hiện cung cấp thêm, cụ thể các khách hàng như sau:
Bảng 05: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ than cám cho các khách hàng năm 2001
Khách hàng
ĐVT
Kế hoạch
Thực hiện
% hoàn thành kế hoạch
- NMXM Hoàng Thạch
Tấn
140.000
140.780
100,6
- NMXM Hải Phòng
Tấn
80.000
74.282
92,8
- NMXM Bút Sơn
Tấn
140.000
153.938
110,0
- NMXM Bút Sơn
Tấn
90.000
128.047
142,3
Như vậy, so với kế hoạch dự kiến thì việc cung cấp than cho các NMXM đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức, đơn cử như cung cấp than cám 3 cho Bút Sơn hoàn thành 142,3% so với kế hoạch. Và đối với NMXM Bỉm Sơn, ngoài việc hoàn thành vượt mức kế hoạch cung cấp than cám cho nhà máy này (110%) trong đó Công ty đã thực hiện ngoài kế hoạch loại than cám 4a với số lượng là 324,02 tấn.
Riêng cung cấp than cám 3 cho NMXM Hải phòng lại chỉ thực hiện được 92,8% giảm 5.772 tấn
Những nguyên nhân làm tăng giảm lượng than cung cấp cho các nhà máy sản xuất xi măng
Có thể nói việc hoàn thành phần lớn kế hoạch đề ra về cung ứng than là do công ty đã tranh thủ được thuận lợi, nâng cao được hiệu quả quản lý công tác tiêu thụ và biết tháo gỡ những khó khăn.
Cụ thể:
Thứ nhất: Trong năm, nguồn cung ứng than tương đối ổn định, ngoài việc mua than chủ yếu của TCTthan Việt nam, Công ty đã chủ động cân đối mua thêm than của những đơn vị khác có đầy đủ chức năng kinh doanh than khác với chất lượng đảm bảo theo quy định và giá cả hợp lý, chính việc đảm bảo nguồn hàng này nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc dự trữ cũng như đảm bảo đủ lượng than yêu cầu.
Thứ hai: Công tác quản lý việc giao nhận, vận chuyển than được nâng cao. Than được kiểm tra đủ về số lượng, chất lượng khi giao nhận và trong suốt quá trình vận chuyển, lưu kho... do đó chất lượng được đảm bảo, giảm thiểu mất mát. Hơn nữa việc điều hành phương tiện vận tải đã linh hoạt, hợp lý hơn do có sự phối hợp giữa phòng kế hoạch, phòng vận tải với các chi nhánh đầu nguồn hiệu quả hơn, chặt chẽ hơn.
Ngoài ra, công tác chuẩn bị cho việc thực hiện cung cấp than cũng được chuẩn bị khá đầy đủ cả về vốn và nhân lực.
Đối với việc cung cấp than cho NMXM Hải phòng chỉ đạt 92,8% so với kế hoạch đặt ra, nguyên nhân chủ yếu là nhu cầu than cám của NMXM Hải phòng trong năm 2001 có giảm xuống, hơn nữa do việc kinh doanh mặt hàng than tại Hải Phòng vẫn chưa được cải thiện về mặt hiệu quả nên Công ty chức thực sự quan tâm để thúc đẩy tiêu thụ.
+ Các loại phụ gia:
. Mặt hàng Xỉ pyrit, đạt khối lượng tieu thụ là 16.500 tấn trong đó thực hiện cung cấp cho NMXM Bỉm sơn là 6.099 tấn và NMXM liên doanh Nghi sơn là 10.401 tấn (8 tháng cuối năm 2001). Như vậy so với kế hoạch đặt ra là 19.500 tấn thì khối lượng thực hiện trong năm 2001 đã giảm so với kế hoạch là 2.500 tấn với tỷ lệ giảm là 13,2%.
. Mặt hàng đá bô xit, loại phụ gia này chỉ đạt 10.230 tấn không hoàn thành so với kế hoạch đặt ra, mức giảm 1.770 tấn và tỷ lệ giảm là 14,8%.
. Đối với quặng sắt, cũng không hoàn thành kế hoạch, chỉ đạt được 5.700 tấn như vậy đã giảm so với kế hoạch là 300 tấn và tỷ lẹ giảm là 5,0%.
- Mặt hàng cát tiêu chuẩn ISO: đây là loại phụ gia duy nhất hoàn thành kế hoạch đặt ra với khối lượng tiêu thụ đạt được là 15,284 tấn tăng thêm so với kế hoạch là 3,384 tấn tỷ lệ tăng của mặt hàng này là 27,4%.
Riêng mặt hàng đá đen, đây là loại phụ gia mới được đưa vào kinh doanh trong năm 2001 và kế hoạch cũng không đặt ra song khối lượng tiêu thụ cũng đạt được 1.658 tấn.
Như vậy, nhìn chung phần lớn các loại phụ gia không thực hiện được kế hoạch đặt ra.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là:
Thứ nhất, việc tìm kiếm nguồn hàng của các loại phụ gia này vẫn gặp nhiều khó khăn do việc khai thác của các đơn vị khai thác nói chung và bản thân Công ty trong việc tạo lập mối quan hệ bạn hàng nói riêng.
Thứ hai, việc kinh doanh các mặt hàng này, đặc biệt là mặt hàng Xỉ pyrit có độ mịn cao, trong khi đó việc tổ chức, quản lý lưu kho bảo quản, vận chuyển chưa thực sự được quan tâm, kết hợp thời tiết mưa bão làm thất thoát khá lớn lượng Xỉ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc cung cấp hàng cho các NMXM theo đúng tiến độ, kế hoạch
Thứ ba, do chi phí vận chuyển các mặt hàng này bằng đoàn ô tô của Công ty cao hơn giá cước thuê ngoài nên đã làm giảm tính cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường, từ đó tác động làm giảm khối lượng tiêu thụ.
+ Mặt hàng xi măng trong quý I năm 2001:
Đây là mặt h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0272.doc