Lời mở đầu 1
Chương 1 : Tổng quan về ngân hàng kĩ thương Techcombank Hà Nội. 2
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Techcombank : 2
2. Chức năng nhiệm vụ chung của ngân hàng 5
2.1 Trung tâm Thanh toán 5
2.2 Trung tâm kinh doanh 6
2.3 Phòng quản lý vốn giao dịch tiền tệ và ngoại hối 6
2.4 Phòng Kế Toán Tài chính 7
2.5 Phòng quản lý tín dụng 7
2.6 Phòng Thông Tin Điện Toán 8
2.7 Phòng kế hoạch tổng hợp 9
2.8 Phòng Marketing 9
2.9 Phòng quản lý nhân sự 10
2.10 Phòng kiểm soát nội bộ 10
2.11 Văn phòng 11
2.12 Văn phòng hội đồng quản trị 11
2.13 Ban đào tạo : 11
2.14 Ban quản lý chất lượng(ISO) 12
2.15 Ban quản lý uỷ thác đầu tư, quản lý tài sản và thị trường vốn 13
2.16 Ban phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp 13
2.17 Trung Tâm Thẻ 13
3. Những kết quả đã đạt được và thực trạng kinh doanh của ngân hàng ngân hàng Techcombank 14
3.1. Những kết quả mà ngân hàng đã đạt được 14
3.1.1. Nhân sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng 14
3.1.2 Công tác đào tạo được nâng cao 15
3.1.3 Quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện nhất quán 15
3.1.4 Quản trị rủi ro thị trường được cải tiến hiện đại 16
3.1.5 Chú trọng quản trị rủi ro hoạt động 16
3.1.6 Công tác truyền thông và quan hệ cộng đồng tạo nên hình ảnh đẹp cho Ngân hàng 16
3.2. Các lĩnh vực hoạt động và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng 17
3.2.1 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Ngân hàng: 17
3.2.2 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng trong 3 năm 2004, 2005, 2006 : 18
3.3. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 19
4. Định hướng phát triển của ngân hàng Techcombank : 20
4.1. Định hướng năm 2007: 20
4.2. Định hướng phát triển năm 2010 21
Chương 2 : Những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng 23
1.1. Khái niệm về hoạt động tín dụng của ngân hàng : 23
1.1.1. Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại : 24
1.1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng : 25
1.1.2.1. Định nghĩa rủi ro tín dụng : 25
1.1.2.2. Khái niệm về quản lý rủi ro tín dụng : 26
1.1.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng : 27
1.1.2.4. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng và những tác động xấu do rủi ro tín dụng gây ra : 30
1.2. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng : 31
1.2.1. Nhận diện rủi ro tín dụng 32
1.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng : 32
1.2.3. Thực hiện hạn chế các hậu quả, tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra : 43
Chương 3 :Các giải pháp giảm rủi ro tín dụng tại ngân hàng Techcombank Hà Nội 45
1.1 Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Techcombank Hà Nội 45
1.2 Các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Techcombank Hà Nội : 46
1.2.1 Đẩy mạnh công tác kiểm soát nội bộ : 46
1.2.2 Đẩy mạnh công tác tổ chức và đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên tín dụng : 46
1.2.3 Cung cấp dịch vụ tư vấn tín dụng cho khách hàng một cách đầy đủ và chính xác : 48
1.2.4 Thông tin khách hàng cần được đánh giá đầy đủ và chính xác : 51
1.2.5 Tập trung quyền phán quyết những món cho vay lớn lên Hội sở : 52
1.2.6 Lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng : 52
Kết luận 54
Danh mục tài liệu tham khảo 55
57 trang |
Chia sẻ: Huong.duong | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Techcombank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Lợi nhuận này là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Đối với người đi vay, vốn vay ngân hàng là nguồn vốn mà khách hàng dễ tiếp cận ở mọi lúc, mọi nơi với các điều kiện, phương thức thanh toán đa dạng và phong phú. Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ tiền nhất và linh hoạt nhất. Mặt khác, sử dụng vốn vay ngân hàng làm cho khách hàng hoạt động có hiệu quả hơn vì họ không những phải trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng mà còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát và nhận được sự tư vấn của ngân hàng trong suốt quá trình sử dụng vốn vay.
Đối với nền kinh tế, hoạt động tín dụng ngân hàng chuyển vốn từ nơi chưa có nhu cầu sử dụng sang nơi có nhu cầu sử dụng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế phát triển, đời sống xã hội ngày càng cao. Ngân hàng hoạt động với mục tiêu lợi nhuận và an toàn nên ngân hàng chỉ cho vay các dự án, các doanh nghiệp, các cá nhân sử dụng tiền vay có hiệu quả. Người vay muốn tiếp cận được nguồn vốn vay của ngân hàng buộc phải kinh doanh có lợi nhuận, có phương án sử dụng vốn khả thi và khi các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì nền kinh tế sẽ phát triển vững chắc. Bên cạnh đó, nhờ có khoản vốn vay ngân hàng, các doanh nghiệp sẽ có đủ khả năng tài chính để tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, mở rộng quy mô sản kinh doanh. Do đó, sẽ thúc đẩy khoa học công nghệ và sản xuất hàng hóa phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dung của dân cư, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại :
Ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về các loại hình tín dụng, người ta có thể phân loại tín dụng theo một số tiêu thức nhất định. Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số tiêu thức phân loại phổ biến.
Phân loại theo mục đích vay :
+ Cho vay kinh doanh ( sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương mại )
+ Cho vay tiêu dung
Phân loại theo thời hạn vay :
+ Cho vay không thời hạn
+ Cho vay ngắn hạn : có thời hạn đến 1 năm
+ Cho vay trung hạn : có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm
+ Cho vay dài hạn : có thời hạn trên 5 năm
Phân loại theo phương thức đảm bảo :
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản
+ Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản
Phân loại theo đồng tiền cho vay :
+ Cho vay bằng nội tệ
+ Cho vay bằng ngoại tệ
Trong các tiêu thức phân loại trên, phân loại theo thời hạn vay và theo phương thức đảm bảo là hai cách thường được các ngân hàng thương mại áp dụng. Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của khoản vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Còn phân loại theo phương thức đảm bảo giúp các nhà quản lý ngân hàng có thể đưa ra những biện pháp giám sát, kiểm tra và thu hồi nợ phù hợp với từng khoản vay.
Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng :
Định nghĩa rủi ro tín dụng :
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tang vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Các ngân hàng sẽ không bị đe dọa bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận lại được cả gốc và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại không có giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có phiếu lĩnh lãi cố định do các doanh nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân hàng để chứng minh cho mâu thuẫn giữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai trường hợp, nếu không có rủi ro, nguồn thu nhập của ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất các khoản cho vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường mất toàn bộ phần lãi suất và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường hợp người đi vay phá sản.
Khái niệm về quản lý rủi ro tín dụng :
Trước hết, rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng không trả hoặc trả không đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ ở hoạt động cho vay ( là hoạt động quan trọng, có quy mô lớn nhất của ngân hàng ) mà nó còn gồm những hoạt động có tính chất tín dụng khác như : tín dụng thuê mua, bảo lãnh, tài trợ thương mại, cam kết, đồng tài trợ, cho vay ở thị trường liên ngân hàng Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng sẽ cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất, và thông thường thì ngân hàng chỉ cho vay khi thấy rằng sẽ không xảy ra rủi ro tín dụng. Tuy vậy, để có thể dự đoán được một cách chính xác các vấn đề sẽ xảy ra thì không một nhà kinh doanh ngân hàng nào có thể làm được, và do đó ta có thể thấy rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh ngân hàng, chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.
Như vậy, làm thế nào để quản lý được rủi ro tín dụng, đó là câu hỏi mà trong kinh doanh ngân hàng, các nhà quản lý thường đặt ra. Trước hết, chúng ta nên coi rủi ro tín dụng là một hiện tượng có thể xảy ra một cách ngoài mong muốn của ngân hàng khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với khách hàng. Như vậy, theo quan niệm này, ngân hàng cần phải cố gắng lường trước những rủi ro có thể xảy ra mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng. Điều này chính là cơ sở hình thành nên ý tưởng quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, rủi ro tín dụng không phải bao giờ cũng sẽ xảy ra mỗi khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với khách hàng, nó là một hiện tượng tiềm ẩn. Nhưng trong khá nhiều tình huống, do rủi ro có tính lặp lại nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Và như vậy thì ngân hàng có thể tìm ra những giải pháp nhằm quản lý và hạn chế khả năng rủi ro tín dụng có thể xảy ra và giảm thiểu những tổn thất mà rủi ro tín dụng gây ra.
Tóm lại, quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản lý của Ngân Hàng Thương Mại, quản lý rủi ro tín dụng bao gồm : nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực hiện các biện pháp hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng :
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng. Các khoản cho vay lỗ thường có nguồn gốc từ việc không trả nợ đúng hạn do việc mất khả năng trả nợ hoặc không tự nguyện của khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể lỗ do sự giảm giá trị danh mục, chất lượng tín dụng suy giảm. Đặc biệt, về lãi suất, rủi ro tín dụng thường xảy ra rất lớn do chênh lệch giữa thời gian thay đổi lãi suất và thời gian của dòng tiền được hình thành từ những thay đổi bất lợi khi có sự biến động của tỷ giá. Ngay cả những trường hợp giao dịch giao ngay và có kỳ hạn của từng ngoại tệ cũng có thể gây ra chênh lệch. Do đó, ngân hàng còn phải chịu các khoản lỗ do sự giảm giá của ngoại tệ.
Đầu tiên phải kể đến là việc ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Ví dụ, tại Tp.HCM, tại một thời điểm, qua khảo sát cho thấy có nhiều ngân hàng cho vay một khách hàng vượt quá 10% vốn tự có. Trong đó, Eximbank là 74%, Sacombank là 48%, Sài Gòn công thương là 33%..., do vậy đã cho vay tập trung vốn quá lớn cho một số khách hàng, khi những doanh nghiệp này thua lỗ thì ngân hàng chịu rủi ro lớn. Trường hợp của Epco, Minh Phụng là những ví dụ điển hình. Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và các văn bản khác có liên quan đến các vấn đề trên đến nay được ban hành tương đối đầy đủ. Đây chính là hành lang pháp lý để các tổ chức tín dụng làm cơ sở xem xét, quyết định cho vay và thực hiện bảo đảm tiền vay. Đặc biệt, những quy định về điều kiện để được vay vốn trong Quy chế cho vay; những quy định về điều kiện áp dụng cho từng biện pháp bảo đảm tiền vay trong Nghị định 178 là rất quan trọng. Theo đó, để được vay vốn thì tùy theo từng đối tượng khách hàng mà họ phải đảm bảo năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự như quy định. Đồng thời, khách hàng còn phải có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật; mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp và thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy định trên, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu dễ dãi, buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đến nơi, đến chốn đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn. Thực tế cho thấy, có khách hàng sản xuất kinh doanh thua lỗ, năng lực tài chính yếu kém, vốn nhỏ bé trong đó nhà, cửa đất đai lại chưa có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền quản lý nhưng để có vốn hoạt động họ đã nâng khống vốn tự có rồi lập nhiều dự án, có cả dự án thuộc lĩnh vực mà họ chưa từng có kinh nghiệm để đi vay. Vậy mà, có tổ chức tín dụng không những đã quyết định cho vay mà còn nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hậu quả là dự án kém hiệu quả, nợ tồn đọng khó có khả năng thu hồi, vì thế không những nguy cơ tổn thất cho tổ chức tín dụng là khá lớn mà uy tín của tổ chức tín dụng cũng bị giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân thứ hai là chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét, phân tích còn hạn chế, chưa chính xác.
Ngoài ra, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ, nhân viên tín dụng của ngân hàng cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Đành rằng rủi ro, thiệt hại trong cho vay là không thể tránh khỏi, thậm chí có trường hợp phải chấp nhận như rủi ro, tổn thất do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Nhưng, nếu cán bộ, đặc biệt là cán bộ có liên quan đến công tác cho vay nêu cao phẩm chất, đạo đức, tinh thần trách nhiệm sẽ góp phần quan trọng hạn chế được rủi ro. Nhờ chú trọng đến công tác cán bộ, nhất là luôn bồi dưỡng cho họ về phẩm chất, đạo đức, ý thức trách nhiệm nên nhiều ngân hàng có đội ngũ cán bộ tận tuỵ với công việc; vì vậy, không những kết quả kinh doanh năm sau luôn cao hơn năm trước mà còn tạo ra bầu không khí lao động, thi đua sôi nổi với quyết tâm “biến cơ hội thành lợi thế, biến thách thức thành động lực phát triển“. Nếu cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm, tiêu cực thì tai họa cho ngân hàng là không thể tránh khỏi. Thực tế cho thấy, một số món vay lớn kém chất lượng, tồn đọng không có khả năng thu hồi và đang có nguy cơ bị mất trắng nhiều tỷ đồng đều xuất phát từ số cán bộ này. Vì vụ lợi, buông lỏng quản lý nên trong quá trình thẩm tra, xét duyệt cho vay, quản lý vốn vay không những họ đã không tuân thủ các quy định hiện hành mà còn dễ dãi, tạo kẻ hỡ cho khách hàng lợi dụng. Đã có chi nhánh ngân hàng thương mại tuy sai phạm chỉ do một số người gây ra nhưng tính chất nghiêm trọng, mức độ tổn thất thật nặng nề đến nỗi khó có khả năng tự bù đắp được. Trước thực trạng này, thay vì phải làm rõ trách nhiệm, có biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn, tránh tái phạm thì một số nơi không những chưa quan tâm đến xử lý cá nhân có sai phạm mà còn lạm dụng nguồn dự phòng để xử lý rủi ro. Phổ biến nhất là: khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp chưa bị giải thể, phá sản nhưng nợ tồn đọng của họ tại ngân hàng lại được xử lý rủi ro đưa ra khỏi nội bảng; vì vậy, không những sai quy định, phản tác dụng mà còn làm phát sinh tâm lý ỷ lại. Chính điều này, đã làm cho một số cán bộ có sai phạm chủ quan, chưa tích cực tìm biện pháp để khắc phục hậu quả do họ đã gây ra mà thường chờ đợi sự cứu giúp từ cấp trên. Vì thế, khoản vay này chưa khắc phục được thì khoản vay khác cũng sai phạm tương tự lại tiếp tục phát sinh làm cho tỷ lệ nợ xấu thực chất chiếm trong tổng dư nợ của một số ngân hàng luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với mức cho phép.
Về phía người vay nợ, có những nguyên nhân khách quan và cả chủ quan. Nguyên nhân khách quan xuất phát từ những tác động bên ngoài như thiên tai, hỏa hoạn, do sự ổn định của nền kinh tế chưa chắc chắn, chính sách quản lý kinh tế thay đổi đột ngột, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, do quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi. Nguyên nhân chủ quan là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn rất ít so với nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, trong đó cũng phải kể đến việc thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn.
Như vậy có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, và nếu rủi ro tín dụng xảy ra nó sẽ gây ra những tác động và hậu quả xấu đối với ngân hàng.
Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng và những tác động xấu do rủi ro tín dụng gây ra :
Rủi ro tín dụng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong hoạt động của ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra nó sẽ dẫn đến những tổn thất về tài chính của ngân hàng, về uy tín của ngân hàng, đặc biệt hơn nó có thể dẫn đến sự phá sản của ngân hàng hay những khủng hoảng về kinh tế, tài chính, xã hội Chính vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng là một hoạt động mà các ngân hàng phải thực hiện để có thể giảm thiểu, hạn chế đến mức tối đa những rủi ro về tín dụng và những tổn thất xấu do nó gây ra.
Về cơ bản, rủi ro tín dụng có thể gây ra một số hậu quả hay tác động xấu như làm giảm khả năng thanh toán, làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, làm giảm uy tín của người đi vay đối với ngân hàng, doanh nghiệp đi vay vốn của ngân hàng sẽ bị giảm uy tín trên thương trường Những thiệt hại từ rủi ro tín dụng :
- Đối với nền kinh tế:
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
- Đối với ngân hàng:
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng :
Do những đổi thay không ngừng trên thị trường mà việc quản trị rủi ro cũng trở thành một quá trình biến hoá liên tục các phương pháp phòng chống rủi ro, dựa trên dự báo về mức độ biến động của giá cả, môi trường kinh doanh, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. Mặc dù vậy, quy trình quản trị rủi ro không thể bỏ qua những bước căn bản sau đây:
1.2.1. Nhận diện rủi ro tín dụng
Trước hết ngân hàng cần phải nhận biết được những rủi ro tín dụng có thể xảy ra khi cho vay. Để làm được việc này, đòi hỏi các nhân viên, cán bộ tín dụng cần phải chú ý xem xét các nguồn thông tin về khách hàng và các phương án cho vay dựa trên một số tiêu thức như sự hợp lệ của hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn, khả năng tài chính của khách hàng
Để nhận biết rủi ro tín dụng khi cho vay, các cán bộ tín dụng cần làm theo các bước sau :
Tiến hành xem xét, đánh giá hồ sơ vay vốn của khách hàng xem có hợp lệ hay không.
Xem xét và phân tích khả năng , tình hình tài chính của khách hàng.
Xem xét tính khả thi của phương án cho vay vốn và khả năng có thể trả nợ của khách hàng.
Thẩm tra tình hình của tài sản đảm bảo ( nếu có )
Phân tích các nhân tố phi tài chính khác.
1.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng :
Để đánh giá mức rủi ro tín dụng trong các quyết định cho vay và đầu tư, các ngân hàng cần có các phương pháp nhằm xác định khả năng trả nợ của khách hàng. Điều này phụ thuộc vào khối lượng thông tin về khách hàng mà các ngân hàng có thể thu thập được. Đối với cấp tín dụng bán lẻ, phần lớn nguồn thông tin thu thập được là do sự điều tra của ngân hàng hoặc mua từ các tổ chức phân loại và đánh giá tín dụng bên ngoài. Đối với tín dụng bán buôn, nguồn thông tin về khách hàng được công bố rộng rãi cho thị trường thông qua các báo cáo kế toán, tài chính, qua giá cổ phiếu và trái phiếu hoặc qua các báo cáo tổng hợp của các nhà phân tích. Khả năng thu thập thông tin dễ dàng, giá bình quân cho việc thu thập thông tin giảm cho phép các ngân hàng sử dụng các biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng thiên về hướng khối lượng và phức tạp hơn cho cấp tín dụng bán buôn. Tuy nhiên, lợi thế của công nghệ thông tin đang làm cho sự đánh giá rủi ro tín dụng về mặt lượng thậm chí của một khách hàng nhỏ cũng trở nên có tính khả thi và chi phí thấp.
Về mặt nguyên tắc, các ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp và các mô hình tương tự để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng cho cả các khoản tín dụng và trái phiếu. Bởi lẽ, cả hai đều là các hợp đồng mà trong đó người đi vay hứa trả theo định kỳ cho người cho vay một số tiền xác định thông qua lãi suất, cả hai đều được xếp trên vốn cổ phần của công ty trong trật tự thanh toán nếu khách hàng vay bị phá sản, cả tín dụng và trái phiếu đều là đối tượng của các điều khoản hạn chế được ghi trong hợp đồng nhằm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng ( ví dụ, người cho vay đặt điều kiện hạn chế số lượng lợi tức cổ phần mà công ty trả cho các cổ đông ), cuối cùng cả lãi suất tín dụng và tỷ lệ thu nhập của trái phiếu đều phản ánh mức phần thưởng rủi ro ( m), đến lượt nó m thay đổi phụ thuộc vào sự đánh giá của thị trường về khả năng thanh toán của người đi vay, vào chất lượng của tài sản thế chấp và các đảm bảo khác cho các khoản nợ. Với những lý do trên, việc phân tích xác suất của rủi ro tín dụng theo các mô hình sau được áp dụng cho cả các khoản tín dụng và các khoản đầu tư vào trái phiếu.
Các nhà kinh tế, các ngân hàng và các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng cho các khoản tín dụng và trái phiếu. Các mô hình đánh giá này rất đa dạng, bao gồm các mô hình phản ánh về mặt số lượng và cả những mô hình phản ánh về mặt chất lượng của rủi ro tín dụng. Hơn nữa, các mô hình này không loại trừ lẫn nhau, nên một tổ chức đầu tư có thể sử dụng nhiều mô hình để phản ánh rủi ro tín dụng từ nhiều góc độ khác nhau.
Mô hình chất lượng :
Trong trường hợp các thông tin có liên quan đến chất lượng của người vay vốn không được công bố rộng rãi, các ngân hàng phải thu thập thông tin từ các nguồn đơn lẻ như các hồ sơ về tín dụng và tiền gửi, hoặc mua thông tin từ các nguồn bên ngoài như các tổ chức phân loại và đánh giá khách hàng. Những thông tin này giúp các ngân hàng đánh giá xác suất rủi ro của người vay và trên cơ sở đó định giá các khoản vay hoặc các khoản nợ một cách chính xác.
Nói chung số lượng thông tin cần thu thập cho mỗi khoản đầu tư phụ thuộc vào quy mô của khoản đầu tư và chi phí thu thập thông tin. Tuy nhiên, các yếu tố chủ yếu liên quan đến các quyết định đầu tư được chia thành 2 nhóm : nhóm yếu tố liên quan đến cá nhân người vay vốn và nhóm yếu tố liên quan đến thị trường ảnh hưởng đến tất cả những người vay vốn vào thời điểm quyết định cho vay.
Các yếu tố liên quan đến người vay vốn :
Danh tiếng : Danh tiếng của người vay vốn được thể hiện thông qua lịch sử đi vay và trả nợ của họ. Nếu trong suốt thời gian quan hệ với các ngân hàng, người vay thường xuyên trả nợ đầy đủ và đúng hạn, họ sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với các ngân hàng này. Mối quan hệ lâu dài và tin tưởng người đi vay và người cho vay có thể tạo nên các hợp đồng ngầm về vay vốn và trả nợ mà các điều khoản của nó có thể vượt ra khỏi các hợp đồng chuẩn. Tuy nhiên, mức độ quan trọng của yếu tố danh tiếng lại gây nên bất lợi cho các khách hàng nhỏ và mối quan hệ của nó với các ngân hàng. Đó là lý do tại sao các chứng khoán phát hành lần đầu ra công chúng thường đòi hỏi một tỷ lệ thu nhập cao hơn các chứng khoán được phát hành bởi các công ty đã có danh tiếng hoặc đã được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán.
Cơ cấu vốn : Cơ cấu vốn thể hiện thông tỷ lệ giữa vốn nợ với vốn tự có của các tổ chức vay vốn. Tỷ lệ này phản ánh xác suất của rủi ro không thu được nợ bởi lẽ tỷ trọng vốn huy động – thể hiện dưới hình thức trái phiếu hay các khoản tín dụng – càng cao, mức lãi suất các tổ chức đi vay phải trả càng lớn, khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ từ các luồng lưu ngân càng giảm, một tỷ lệ thấp giữa vốn huy động và vốn tự có sẽ không gây nên ảnh hưởng đáng kể nào đến xác suất của việc trả nợ. Nhưng khi tỷ lệ này vượt quá một mức nhất định nào đó, thì xác suất của phá sản tăng lên và kéo theo xác suất của rủi ro không thu được nợ tăng lên. Vì thế các công ty có tỷ trọng vốn nợ lớn thường được yêu cầu trả mức phần thưởng rủi ro cao hơn cho các khoản vay của nó nhằm bù đắp rủi ro tiềm năng mang lại từ cơ cấu vốn.
Mức độ biến động của thu nhập : Với bất kỳ cơ cấu vốn nào, sự biến động của thu nhập cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người đi vay bao gồm gốc và các khoản lãi cố định. Chính vì thế, đối với các tổ chức cho vay, các khách hàng là các công ty mới được tổ chức lại hoặc các công ty kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ hiện đại với mức thu nhập không ổn định sẽ ít hấp dẫn hơn các công ty có lịch sử thu nhập ổn định thường xuyên và lâu dài.
Tài sản thế chấp : Một điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay nào là mức độ của tài sản thế chấp hoặc tài sản làm đảm bảo cho các khỏan vay. Có những khoản vay ( hoặc trái phiếu ) có đảm bảo bằng các tài sản cụ thể như nhà xưởng, thiết bị nhưng cũng có những khoản vay ( hoặc trái phiếu ) không có đảm bảo. Hiển nhiên, khả năng thu hồi nợ của các khoản vay có đảm bảo chắc chắn hơn các khoản vay không có đảm bảo. Điều đó không có nghĩa là các khoản vay có thế chấp không chứa đựng rủi ro tín dụng tiềm năng, trừ khi giá trị thị trường của tài sản thế chấp luôn vượt một cách đáng kể giá trị khoản vay. Ngay cả trong trường hợp này thì việc siết nợ các tài sản thế chấp cũng mất nhiều thời gian, tốn kém và đôi khi gặp những phiền toái không lường trước được. Vì thế trong mọi trường hợp tài sản thế chấp chỉ được coi là nguồn trả nợ dự phòng.
Các yếu tố liên quan đến thị trường
Về chu kỳ kinh tế : Vị trí của nền kinh tế trong chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự đánh giá của ngân hàng về xác suất rủi ro tín dụng. Chẳng hạn, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp trong sản xuất hàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5559.doc