Các hình thức chuyển tải thông tin về sự đi lên của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc sau kỳ World cup Qua báo "thời báo kinh tế Việt Nam" "báo doanh nghiệp" và báo "Quốc tế"

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2

4. Phương pháp nghiên cứu 2

CHƯƠNG I. 3

ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC 3

I. Đất nước và con người Nhật Bản: 3

1. Đất nước 3

2. Con người và các giá trị tập quán xã hội Nhật Bản. 4

II. Đất nước con người Hàn Quốc 6

1. Đất nước 6

2. Con người và các tập quán xã hội của Hàn Quốc 8

CHƯƠNG II. 10

SỰ HỒI PHỤC NỀN KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN - HÀN QUỐC SAU WORLD CUP 2002 10

1. Nội dung của các bài báo nói về sự phục hồi của nền kinh rế Nhật Bản và Hàn Quốc nhờ vào world cup 2002. 10

2. Nguyên nhân, diễn biến và tác động của world cup 2002 đối với nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc. 12

3. Sự phục hồi nề kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc có ảnh hưởng đối với nền kinh tế thế giới. 15

4. Vai trò của báo của Việt nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 15

CHƯƠNG III 17

CÁC HÌNH THỨC CHUYỂN TẢI THÔNG TIN VỀ SỰ ĐI LÊN CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC SAU KỲ WORLD CUP QUA BÁO "THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM" "BÁO DOANH NGHIỆP" VÀ BÁO "QUỐC TẾ" 17

1. Tin 18

2. Bài phản ánh: 20

3. Bài dịch tư liệu: 22

KẾT LUẬN 25

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các hình thức chuyển tải thông tin về sự đi lên của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc sau kỳ World cup Qua báo "thời báo kinh tế Việt Nam" "báo doanh nghiệp" và báo "Quốc tế", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc được xếp vào hàng ngũ các quốc gia buôn bán lớn nhất thế giới. Chính phủ cũng tham gia một cách năng động trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả các ngành dịch vụ công cộng và các ngành công nghiệp yêu cầu đầu tư lớn. Hiện nay trong nước đã có các tuyến đường cao tốc và các tuyến vận tải khác nối liền các thành phố và mạng lưới liên lạc viễn thông hiện đại rộng khắp trong cả nước. Hàn Quốc không có tài nguyên dầu mỏ và các nguồn mỏ khác rất hạn chế. Hàn Quốc phụ thuộc rất nhiều vào việc nhập khẩu các nguyên liệu. 1970 nhà nước bắt đầu bắt tay vào việc nghiên cứu chính sách đa dạng hoá các nguồn năng lưọng , tăng cường sử dụng năng lương nguyên tử, khí thiên nhiên và thuỷ điện. Những năm đầu của thập kỷ 1990, kinh tế Hàn Quốc bị suy thái đáng kể, nền kinh tế bị phụ thuộc quá nhiều vào ngoại thương, bởi vì hầu hết các ngành công nghiệp đều hướng vào xuất khẩu. Trong những năm gần đây, nhiều nước láng giềng Châu á của Hàn Quốc ngày càng có sức cạnh tranh cao hơn nhờ vào lực lượng lao động rẻ cùng các chi phí cũng như tỉ giá hối đoái ưu đãi hơn. Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng bởi sự tăng chậm của năng suất sản xuất do đó Hàn Quốc đã tự nhìn thấy cần phải chuyển sang công nghệ cao và chế tạo các sản phẩm có giá trị. Ngành công nghiệp chính của Hàn Quốc bao gồm điện tử, chế tạo ô tô, chế tạo vũ khí, dệt, may mặc và sản xuất hàng da. Một nguồn thu ngoại tệ nữa của đất nước là các dịch vụ đấu thầu xây dựng, các cây trồng chủ yếu của Hàn Quốc là gạo, lúa mì, ngô, khoai tây...Ngành du lịch cũng đã phát triển ở Hàn Quốc, chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật khuyến khích đầu tư nước ngoài dài hạn ở Hàn Quốc trong lĩnh vực kinh tế lẫn xã hội. 2. Con người và các tập quán xã hội của Hàn Quốc Với dân số khoảng 44 triệungười. Hàn Quốc là một trong những nước có mật độ dân cư cao nhất thế giới. Gần 50% dân số sống ở các Thành phố lớn. Nhờ thành công về mặt kinh tế, mức sống của người dân đô thị Hàn Quốc có phần cao hơn so với hầu hết các nước láng giềng Châu á khác. Xã hội Hàn Quốc tương đối đồng nhất trong đó tất cả mọi người đều chung ngôn ngữ, văn hoá và lịch sử. Mặ dù rất gần gũi về mặt địa lý với Trung Quốc lại không cùng chung nguồn gốc với cả hai nước đó. Tổ tiên của người Triều Tiên di cư từ Xibôri Nội Nông và Mãn Châu Lý để cuối cùng lập nên một nhóm dân tộc đồng nhất, không có dân tộc thiểu số nào lớn. Tính dân tộc của người Hàn Quốc tương đối cao đã từng có những thời gian thi hành chính sách bài ngoại. Họ không chấp nhận một xã hội đa chủng tộc hay đa sắc tộc như kiểu hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Quan niệm về tính đồng nhất này là một lý do giải thích tại sao người Triều Tiên ở cả hai miền Nam- Bắc đều cho rằng sự chia cắt của bán đảo Triều Tiên là trải với quy luật tự nhiên là hoàn toàn. Dù hai miền Nam - Bắc có chế độ chính trị và chính sách kinh tế khác nhau, nhưng nhân dân cả hai miền đều chung một truyền thống văn hoá. Triều Tiên rất gần gũi với Trung Quốc cả về địa lý lẫn kinh tế và lịch sử tạo ra một nhịp cầu văn hoá tự nhiên nối liền quần đảo Nhật Bản với lục địa Châu á. Tuy nhiên, người Triều Tiên luôn luôn căm ghét các ảnh hưởng hay sự thống trị từ bên ngoài.Người Hàn Quốc nói chung có vẻ bảo thủ hơn so với nhiều nước láng giềng Châu á của họ. Một số người Hàn Quốc có thể cảm thấy bị đe doạ hơn là thích thú khi thấy người nước ngoài thông thạo về văn hoá và ngôn ngữ của họ. Người nước ngoài hiểu rõ về nền văn hoá của họ đôi khi bị coi là "xâm phạm" vào thế giới của người Triều Tiên. Cũng giống như người Nhật Bản - người Triều Tiên cho rằng nền văn hoá của họ là chân lý duy nhất và cao siêu hơn các nền văn hoá khác và do đó người nước ngoài không thể lĩnh hội được. Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng khá nặng của đạo Nho giáo và đạo Thiên chúa. Có khoảng 43% dân số Hàn Quốc theo đạo thiên chúa. Giáo dục luôn được coi là công cụ của sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên trong suốt lịch sử chỉ có gia đình giàu có mới có thể chu cấp nổi cho con cái đi học và do vậy việc thúc đẩy xã hội của Hàn Quốc đi lên là rất khó khăn. Nhưng đến bây giờ hệ thống trường học ở Hàn Quốc như là ở nước Mỹ. Cấp tiểu học 6 năm, cấp trung học 6 năm va cao hơn nữa là 4 năm nữa. Những năm sau là rất khó khăn bắt buộc phải thi qua một kỳ thi rất khắt khe. Từ đầu năm 1990 nhiều người dân Hàn Quốc đã di cư ra nước ngoài để tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn. Trong thời gian Nhật Bản đô hộ, nhiều người Hàn Quốc đã di cư sang Mãn Châu Lý, Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai, gần 2 triệu người Hàn Quốc ở Nhật Bản đã tham gia quân đội và tham gia vào lực lượng lao động chiến tranh kết thúc những người này tham gia quân đội hoặc tham gia vào lực lượng lao động. Chiến tranh kết thúc, những người này ở lại Nhật Bản lại bị từ chối quyền công dân và thường có mức sống thấp hơn, người Nhật Bản vẫn phân biệt đối xử với họ. Chương II. Sự hồi phục nền kinh tế của Nhật Bản - Hàn Quốc sau world cup 2002 1. Nội dung của các bài báo nói về sự phục hồi của nền kinh rế Nhật Bản và Hàn Quốc nhờ vào world cup 2002. Từ sự phân tích của các tờ báo cho thấy triển vọng của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc nhờ world cup đã được các báo phân tích và nhìn nhận dười nhiều góc độ khác nhau. Có thể bằng nội lực bên trong và tác động bên ngoài, trong đó yếu tố bên ngoài vẫn là chính. GDP của Hàn Quốc tăng từ 4,7% năm 2002 tăng lên 5,8%. Nhật Bản 6,9%. Được những thành quả như vậy là do hai nước có sự điều chỉnh về mặt nhà nước, điều chỉnh về tiền tệ sẽ tạo điều kiện hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, và cuộc cải cách doanh nghiệp và tài chính tiền tệ, các biện pháp cải cách doanh nghiệp được đưa ra và được thực hiện một cách có hiệu quả. Thông qua world cup 2002 này nền kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ được phục hồi một cách nhanh chóng để cho thế giới thấy sự trở lại của Nhật Bản và Hàn Quốc vào những năm đầu của thế kỷ XXI Trên ba tờ báo " thời báo kinh tế Việt Nam ", báo " Doanh nghiệp " và báo " Quốc Tế ", sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc luôn được các báo quan tâm đến. Tin bài luôn được các báo sử dụng đầy đủ, đã đáp ứng được phần nào nhu cầu mong muốn tìm hiểu của mọi đối tượng, và đọc các nội dung chính của các tờ báo phần lớn đề cập đến sự tăng trưởng kinh tế mà hai nước đã đạt được trong world cup 2002. Đó là sự tăng trưởng của nền kinh tế và vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người dân trong thời kỳ diễn ra world cup và sau đó. Có thể nói sau sự kiện world cup 2002, tỷ lệ người thất nghiệp ở Hàn Quốc và Nhật Bản đã giảm xuống một cách đáng kể so với thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là nhờ vào world cup 2002 kết thúc sẽ tạo được khoảng 760.000 lao động cho cả hai nước và đem lại cho hai nước con cố thặng dư là 2,8 tỉ USD. Ngoài những hiệu quả đem lại cho nền kinh tế của cả hai nước, xét về mặt hiệu quả gián tiếp thông qua việc nâng cao vị thế của hai nước và các công ty tăng cường xuất khẩu,đẩy mạnh nhanh chóng đầu tư nước ngoài. Theo tác giả Nguyễn Anh Hồng cho biết " world cup 2002 "sẽ tạo ra doanh thu hơn 500 tỉ USD " Sự kiện world cup 2002 là sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh . Theo đánh giá của giới chuyên môn world cup lần này sẽ đạt kỷ lục về nhiều phương diện khi tổ chức tại Nhật Bản và Hàn Quốc, và sẽ làm cho năng suất giảm sút, nhưng sự kiện thể thao số một trên thế giới này lại thúc đẩy mạnh mẽ ngành công nghiệp và thương mại, dịch vụ và quảng cáo. Đây là một động lực thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế đem lại doanh thu hơn 500 tỉ USD "( Thời báo kinh tế Việt Nam só 68 thứ 6 ngày 07/ 06/ 2002) Cũng đề cập đến sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản trong bài " Hàn Quốc và Nhật Bản ăn đậm nhờ world cup " của tác giả Bình Minh " Thời báo kinh tế Việt Nam số 69 ra ngày 9/6/2002 " Vòng chung kết world cup 2002 lần này được đánh giấu bằng hai nét đặc trưng lần đầu tiên được tổ chức tại Châu á và cũng là lần đầu tiên có hai nước tham gia đồng đăng cai. Không biết đây là sáng kiến hay là tối kiến của các nhà tổ chức nhưng hiện nay không ít người Châu Âu phàn nàn và ganh tị... world cup 2002 là một cú hích mạnh cho nền kinh tế Hàn Quốc và Nhật Bản. Năm 2002 nhờ nó mà nền kinh tế của cả hai nước có thể sẽ tăng trưởng. Hàn Quốc tăng 5,8%, Nhật Bản 6,9% tăng "Tiếp đó là sự thành công của ngành du lịch và dịch vụ cũng góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế". Theo tác giả Nguyễn Anh Thi " Thời báo kinh tế Việt Nam " số 74 ngày 21/6/2002 "Tất cả các điểm du lịch của Hàn Quốc và Nhật Bản đang mở rộng cửa để đón khách từ tất cả các nước trên thế giới sang cổ vũ bóng đá và để đi du lịch. ở các địa điểm du lịch nổi tiếng, các nhận viên đón tiếp khách đều mặc quốc phục và chụp ảnh với các du khách đến hàng trăm lần mỗi ngày với nụ cười rất dễ thương và không lấy bất cứ một khoản lệ phí nào. Bạn có thể nhận lấy các thông tin về du lịch khắp nơi trên đất nước . Từa các sân bay, các nhà ga, các khách sạn, với các bản đồquán ăn, các tour du lịch đều được hướng dẫn miễn phí ”. Từ những sự hiếu khách trên sẽ làm cho ngành du lịch của Hàn Quốc và Nhật Bản phát triển góp phần làm cho sự phát triển của nềnkinh tế của đất nước trong thời kỳ khôi phục. Trong world cup 2002 , đây cũng là cơ hội lớn để cho các công ty lớn và các tập đoàn lớn của hai nước chạy đua với nhau để giới thiệu và quảng bá sản phẩm của mình với thế giới. Theo tác giả Lê Văn "Báo doanh nghiệp" ra ngày 30/5 tại Nhật Bản và Hàn Quốc đã hoàn thành công việc chuẩn bị cho các trận đấu. Là hai quốc gia có tiềm lực về văn hoá và kinh tế, chính phủ và các công ty lớn coi world cup là cơ hội vàng để quảng cáo hai quốc gia như là: " điện tử hoá chất Châu á "...... Hàn Quốc và Nhật Bản đang ra sức biểu thị lợi thế về sức mạnh tài chính của họ từ các công ty và tập đoàn lớn. Họ sẵn sàng bỏ tiền ra để tài trợ cho world cup, world cup lần này thật sự là cơ hội để cho các hãng giới thiệu sản phẩm như tập đoàn Korea Telccom, một nhà tài trợ chính thức sẽ "truyền" các trận đấu bóng đá trên mạng Internet. Họ cho rằng đây là cơ hội lớn để họ có thể so sánh trình độ công nghệ thông tin đối với thế giới. Từ đây họ có thể nâng cao thương hiệu của tất cả các nhà xuất khẩu của hãng. Tập đoàn Huyndai một nhà tài trợ khác sẽ chi gần 100 triệu USD để quảng cáo sản phẩm của mình... Các tập đoàn của Nhật Bản cũng ra tay. Hãng Toshiba chế tạo dụng cụ y tế, đang cố tổ chức lại thành hãng công nghệ thông tin. Hãng sẽ cung cấp máy tính cá nhân và các thiết bị khác cho world cup và sẽ tăng cho khách hàng mua một sổ tay hoặc máy tính cầm tay. Nhà tài trợ khác hãng Fuji xenox co cũng sẽ cung cấp các máy nhỏ cho các nhà tổ chức world cup. Và đến với việc chạy đua sân vận động, các công ty của Nhật Bản và Hàn Quốc cùng đạt được những lợi nhuận lớn nhất trong lịch sử world cup từ việc xây các sân vận động chỉ tính riêng ở Hàn Quốc việc xây dựng sân Seoul world cup stadium mất 186 triệu USD, còn Nhật Bản cũng đã chi 230 triệu USD cho sân vận động ở thành phố Nigata. 2. Nguyên nhân, diễn biến và tác động của world cup 2002 đối với nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc. 2.1. Diễn biến Theo báo cáo mới đây của hai chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc đã cho thấy sự đi lên của nền kinh tế của hai quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 2,5 % trong tháng 6/2002. Tăng trưởng GDP bất ngờ tăng lên 2,4 % trong quý III so với mức tăng trưởng ở Hàn Quốc là 4,5 vào năm 2001 lên 6,8 tính đến tháng 6/2002. Nhật Bản là 4,3 năm 2001 lên 6,9 tính đến tháng 6/2002 Việc đi lên của nền kinh tế hai nước cho thấy nền kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản có xu hướng phát triển mạnh hơn vào cuối năm 2002 Theo báo cáo của bộ tài chính của Nhật Bản và Hàn Quốc. Qua world cup 2002 đã là một đòn bẩy đối với nền kinh tế của cả hai nước sau thời kỳ suy thoái, world cup đã mang lại một món ngoại tệ khổng lồ ước tính khoảng 500 tỉ USD cho nền kinh tế của cả hai nước và cũng thông qua world cup 2002 để cho các công ty, tập đoàn công ty lớn của hai nước có dịp quảng bá các sản phẩm của mình với toàn thế giới. Với mức độ tăng trưởng kinh tế 2,4% như thế này đây là cơ sở tạo động lực phục hồi cho nền kinh tế. Theo Bộ Thương mại của hai nước có 3 nguyên nhân chính là: Thứ nhất là do mức chi tiêu của người dân hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc đã tăng 3,5% trong khi chi phí của người tiêu dùng chiếm tới 2/3 toàn bộ hoạt động kinh tế của hai nước này. Thứ hai là do đầu tư xây dựng nhà ở của nười dân tăng tới 12,5% lợi dụng thời điểm lãi suất cho vay là 1,55% mức thâp nhất trong vòng 30 năm qua. Thứ ba là do chi tiêu của Chính phủ tăng 9% chủ yếu là việc chi cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho World cup 2002, và chương trình an ninh để bảo vệ World cup (theo thời Báo Kinh tế Việt Nam, số 54. 6/6/2002). Sau cả năm 2001 tồi tệ vì giảm sút rồi suy thoái kinh tế. Hàn Quốc và Nhật Bản đã hồi phục khá mạnh với tốc độ tăng trưởng GDP ở Nhật Bản là 6,9 ở Hàn Quốc là 5,8 tính đến cuối tháng 6/2002 chủ yếu nhờ vào World cup 2002, đồng thời người tiêu dùng vẫn tiếp tục chi tiêu tăng (tăng 3,3%). Nhìn chung, nền kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc trong 6 tháng đầu năm có dấu hiệu tăng trưởng sáng sủa hơn so với năm 2001. Khả năng còn tăng trưởng nữa có thể diễn ra vào cuối năm. Và đây cũng là đánh dấu của sự đi lên của các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc và Nhật Bản điều này càng làm cho việc phục hồi kinh tế của hai nước càng thuận lợi. 2.2. Nguyên nhân: Việc hai nước đứng ra đăng cai tổ chức World cup 2002 đây là cơ hội lớn để cho hai nước tìm lại bộ mặt thật của mình sau thời kỳ nền kinh tế của hai nước bị suy thoái một cách trầm trọng. Thông qua World cup 2002 để các Công ty các tập đoàn lớn của hai nước có cơ hội quảng bá sản phẩm của mình với tập đoàn lớn trên thế giới và qua đây họ có cơ hội làm ăn với các tập đoàn lớn trên thế giới. Với việc ký được nhiều hợp đồng lớn đã thúc đẩy việc xuất khẩu của sản phẩm của mình đi đem lợi nhuận cao. và chính phủ khuyến khích người dân tiêu dùng nội địa. Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết nền kinh tế nước này đã chấm dứt suy thoái nhờ vào giá hàng hoá tăng và xuất khẩu lại phục hồi. Trong khi có vẻ mức tiêu dùng ổn định, ông cho biết tỷ giá mức tiêu dùng (CPI) gần đây ở mức vừa phải, trong khi chỉ số giá bán buôn (WPI) bắt đầu có dấu hiệu tăng trong một số lĩnh vực, và tỷ lệ thất nghiệp giảm cá nhân và kim ngạch xuất khẩu tăng trong quý I 2002 trong đó sự phục hồi nền kinh tế của Mỹ và Đông á. Và cũng nhờ vào World cup 2002 quý I/2002 tăng hơn 2,4% so với quý IV/2001, trong khi Công ty chứng khoán Nhật Merrill lynch thông báo mức tăng trưởng là 10,3%. - Nguyên nhân vừa trong thời gian diễn ra World cup 2002 lượng cổ động viên đến hai nước cổ vũ bóng đá cũng đã tăng lên. Lượng khách du lịch tới hai nước đã đạt mức kỷ lục và đã đem lại cho nền kinh tế để bù vào ngân sách. Ngoài ra, cũng phải kể đến một nguyên nhân chính nữa là đồng yên và won của hai nước cũng có sức mạnh trở lại trên thị trường tiền tệ thế giới. Kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản tăng trưởng cao, đã tạo cơ sở vững chắc cho đồng yên và đồng won ngày một lên giá và được sùng bái trên thị trường tiền tệ Quốc tế. 2.3. Tác động: Sự đi lên của nền kinh tế Hàn Quốc và Nhật Bản sau World cup 2002 đã tăng lên thêm niềm tin của giới kinh doanh và người tiêu dùng. Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng ở Nhật Bản và Hàn Quốc đã tăng lên 26,4 điểm so với 114 điểm của tháng 12/2001. Đây là mức cao nhất kê kể từ tháng 1/1998 đến cuối năm 2002 nếu nhự trước khi World cup 2002 được khai mạc có 67% người dân hai nước đánh giá nền kinh tế có dấu hiệu chững lại. Nhưng đến sau khi World cup diễn ra con số này chỉ còn 26%, còn 74% số người cho rằng nền kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ phcụ hồi sau World cup 2002 kết thúc. Trong thời gian diễn ra World cup chỉ số chứng khoán của một số Công ty và tập đoàn lớn của hai nước có sự biến động mạnh. Chỉ số chứng khoán của nhiều Công ty Nhật Bản đã tăng vọt như: Tập đoàn điện tử Toshiba tăng 7,13% điểm. Tập đoàn Misuta tăng lên 16,05 điểm.Tập đoàn Samsung chỉ số cổ phiếu tăng 7,8 điểm. Tập đoàn GL cũng đã tăng 5,7 điểm. Sự kiện World cup 2002 cũng có tác động mạnh tới các ngành như hàng không, dịch vụ, tài chính (bảo hiểm) du lịch và giải trí. Với sự kiện World cup này đã đem lại lợi nhuận cho tất cả các ngành trên khoảng 20,2 tỷ USD. 3. Sự phục hồi nề kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc có ảnh hưởng đối với nền kinh tế thế giới. - Sự phục hồi nền kinh tế của Nhà nước và Hàn Quốc đã có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế thế giới. Trong tháng 6/2002 thương mại toàn cầu tăng mạnh 2% về số lượng và tăng 6% về giá trị, đạt 7.000 tỷ USD mức lớn nhất kể từ năm 1997 so với mức tăng kỷ lục là 5.500 tỷ USD trong năm 2001. - Thị trường ngoại hối toàn cầu trong năm 2001 đã tăng rõ rệt, tổng số giao dịch trung bình trên thị trường ngoại hối Quốc tế truyền thống đạt 2.201 tỷ USD vào tháng 6/2002. Khối lượng giao dịch trên thị trường hoán đối ngoại tệ cũng tăng 11% từ mức 656 tỷ trên 734 tỷ USD. Trong khi đó doanh số giao dịch trên thị trường kỳ hạn trực tiếp lại giảm 2,3% từ mức 131 tỷ USD giảm 128 tỷ USD. 4. Vai trò của báo của Việt nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng quan trọng và thiết yếu, đang hằng ngày, hằng giờ tác động đến mọi mặt đời sống xã hội, tới mọi người trên khắp thế giới. Chính vì thế, báo chí ngày nay đã trở thành một động lực quan trọng không thể thiếu được trong xã hội hiện đại, trong cuộc sống đấu tranh xây dựng và phát triển của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học - công nghệ, thế kỷ của Quốc tế hoá thông tin liên lạc. Thì báo chí ngày càng đóng góp vai tròn quan trọng, không chỉ là cuang cấp thông tin về các vấn đề trong nước, mà còn đóng góp vai trò quan trọng trong việc thông tin về các vấn đề Quốc tế, giúp cho con người hoà nhập với cộng đồng Quốc tế trong sự giao lưu, phát triển văn hoá Quốc tế và trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền hoà bình cho nhân loại. Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, báo chí cũng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng, cũng như thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Báo chí đã trở thành một lực lượng quan trọng trong sự nghiệp phát triển nước nhà, trong đó có sự đóng góp rất lớn của các nhà báo, các phóng viên. Bác Hồ đã từng nói: "Cán bộ báo chí cũng là một chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén". Họ đã thực sự trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá tư tưởng. Xuất phát từ những vai trò to lớn của báo chí mà Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và quan tâm đến sự nghiệp phát triển của báo chí m: "Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, báo chí, kể cả báo điện tử, xuất bản phát thanh truyền hình, điện ảnh" làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân làm tốt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát hiện những nhân tố mới, cái hay cái đẹp trong xã hội, giới thiệu những gương người tốt việc tốt, phê phán cái xấu và các hiện tượng tiêu cực, coi trọng nâng cao tính chân thực, tính đa dạng và tính chiến đấu của thông tin. Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trình độ văn hoá và nghề nghiệp của đội ngũ báo chí, xuất bản".(1) Dự thảo Báo cáo Chính trị củ BCH TƯ Đảng khoá VIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tr.49 Báo chí ngày nay không chỉ góp phần đưa đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống, mà thể hiện một vai trò quan trọng: Báo chí là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm kích thích sáng tạo năng động, làm lành mạnh hoá môi trường cạnh trangh của các loại hình kinh tế. Bằng chứng cụ thể chính là báo chí đã cung cấp cho đông đảo quần chúng nhân dân những thông tin chính xác nhất, kịp thời nhất, nhanh nhạy nhất những biến đổi về tình hình kinh tế trong khu vực và thế giới trong những năm qua, tiêu biểu là sự phục hồi nền kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản sau World cup 2002. Đây hẳn là một sự kiện điển hình, tiêu biểu được báo chí Việt Nam tập trung phản ánh, đưa tin, nhận xét. Biết đâu cũng từ những bài báo này, chúng ta có thể rút ra được những đánh giá, những bài học kinh nghiệm quý báu trong kinh nghiệm quý báu trong kinh nghiệm quản lý, điều hành nền kinh tế của nước ta trong những năm tiếp theo. Chương III Các hình thức chuyển tải thông tin về sự đi lên của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc sau kỳ World cup Qua báo "thời báo kinh tế việt nam" "báo doanh nghiệp" và báo "Quốc tế" Bức tranh vĩ mô của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc hết sức ấn tượng. Chu kỳ tăng trưởng trong thập niên 80 và 90 trở thành chu kỳ dài nhất trong lịch sử nền kinh tế Hàn Quốc và Nhật Bản, mang nhiều đặc điểm mới, như tăng trưởng cao, ổn định đi kèm với lạm phát và thất nghiệp. Tháng 7/1997 khi nền kinh tế của Nhật Bản và Hàn Quốc có dấu hiệu suy thoái đã trực tiếp tác động đến nền kinh tế các nước Châu á và nền kinh tế thế giới. Đến bây giờ đây nền kinh tế của hai nước lại có sự hồi phục một cách bất ngờ nhờ vào World cup 2002 được tổ chức tại hai quốc gia Châu á này. Đây cũng là đề tài hấp dẫn mà rất nhiều tờ báo khai thác và đưa tin, viết bài. - Các tờ báo đã phản ánh đầy đủ cả về mặt nội dung cũng như hình thức đã mang lại cho người đọc một lượng thông tin dồi dào và đầy đủ nhất về sự đi lên của nền kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc say World cup 2002. Tuy nhiên trong khuôn khổ một tiểu luận chúng tôi không thể đề cập hết thể loại mà chỉ xin đề cập đến ba thể loại đó là: "Bài phản ánh, bài dịch tư liệu, và tin". Vì đây là những thể loại được sử dụng phổ biến và khá hiệu quả. Dưới đây là thống kê một số thể loại tiêu biểu xuất hiện tương đối nhiều trên các tờ báo "Thời báo kinh tế Việt Nam" "Báo doanh nghiệp" và "Báo Quốc tế" khi viết về vấn đề trên. Thể loại Báo Tin Bài phản ánh Bài dịch tư liệu Thời báo kinh tế 20 15 3 Doanh nghiệp 12 2 2 Quốc tế 5 0 4 Tổng số 37 17 9 1. Tin Ngày nay tin trên báo chí chiếm một vị trí khá quan trọng "là một thể loại mũi nhọn được thể hiện trên tất cả các loại báo, vì báo chí là tin, nếu không có tin sẽ không còn là báo" (Đỗ Xuân Hà). Do vậy, tin là một thể loại quan trọng nhất của báo chí nói chung và thể loại quan trọng nhất của báo chí nói chung và thể loại thông tấn nói riêng tin phản ánh những sự kiên, tình hình có thật mới xảy ra, đang xảy ra và đang phát hiện thấy, có ý nghĩa quan trọng hoặc có liên quan đối với toàn xã hội theo đường lối xã hội nhất định nhằm góp phần thúc đẩy và cải tạo thực tiễn bằng hình thức ngắn gọn nhất, kịp thời nhất được ghi lại bằng chữ, tiếng nói hoặc bằng hình ảnh. Chính vì những đặc tính đó mà tin càng chiếm vị thế quan trọng. - Việc chuyển tải sự đi lên của nền kinh tế Hàn Quốc và Nhật Bản sau World cup 2002. Thể loại tin được "Thời báo kinh tế Việt Nam" sử dụng với số lượng là 20 tin các loại báo "doanh nghiệp" với 12 tin đã cung cấp cho độc giả những vấn đề nhanh nhất cô đúc nhất, còn báo "Quốc tế" tuy với số lượng ít hơn chỉ có 5 tin trong tổng số các bài viết. Nhưng cũng đáp ứng phần nào nhu cầu thông tin về những biểu hiện tăng lên của nền kinh tế Hàn Quốc - Nhật Bản, ba tờ báo trên chủ yếu sử dụng các dạng tin vắn và tin ngắn. Tin vắn hay còn gọi là tin giờ chót, tin mới nhận là loại tin có dung lượng rất ngắn, một hoặc hai ba câu, thường không có đề, mà đầu đề được in đậm ở dòng đầu. Tin vắn có lợi thế là thông báo nhanh nhất về những sự kiện nói tỉ mỉ về sự kiện đó. Cho đến phần lớn để sử dụng trong các tin mục như: tin vắn thế giới, tin thời sự Quốc tế. Tin Telex (Thời báo kinh tế Việt Nam) Tin kinh tế thế giới, Tin thời sự Quốc tế (Báo Quốc tế). Tuy nhiên, trong ba tờ báo ở trên chỉ có duy nhất báo "doanh nghiệp" không sử dụng dạng tin này. Thời báo "kinh tế Việt Nam" và báo "Quốc tế" là hai tờ báo thông tin kinh tế và tình hình thế giới quen thuộc với nhiều độc giả. Về những biểu hiện sau World cup 2002, hai tờ báo đã đều đặn chuyển tải tới độc giả, những tin ra hàng ngày, hàng giờ, nhanh, ngắn gọn, cô đúc. Thông báo những nội dung, số liệu mới nhất về những biểu hiện của sự tăng trưởng nền kinh tế của Hàn Quốc và Nhật Bản như: - Thưo Telex: Theo báo cáo của Hiệp hội vận tải hàng không của Hàn Quốc và Nhật Bản công bố trong tháng 6/2002. Với sự kiện thể thao lớn nhất thế giới. Thì ngành hàng không của hai nước đã đạt được mức doanh thu khoảng 7 tỷ USD trong vòng tháng 6. Khác với tin vắn, tin ngắn là thông điệp quan trọng về quy mô và tính chất, nguyên nhân, ý nghĩa của sự kiện thời sự. Ngoài chức năng thông báo nó còn giúp cho công chúng hiểu khá sâu về sự kiện. Đặc điểm của tin ngắn còn thể hiện ở tin đơn giản, ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, điều quan trọng được đưa lên đầu, với cấu trúc tin thường theo kiểu tam giác lộn ngược với kết cấu và nội dung. Tin bao gồm các vấn đề, chuyện gì? khi nào? ở đâu? người nào? như thế nào? giúp cho người đọc nắm bắt được thông tin một cách có hiệu quả như tin "Kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ được bổ sung 500 tỷ USD sau World cup 2002". (Thời báo kinh tế Việt Nam ra ngày 07/6/2002). So vớ "Thời báo kinh tế Việt Nam" và "Doanh nghiệp" thì báo "Quốc tế" ít sử dụng thể loại tin hơn chỉ có 5 tin về tình hình tăng trưởng của nền kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0158.doc
Tài liệu liên quan