Cá bệnh thường hoạt động yếu, bỏ ăn, màu sắc nhợt nhạt. Khi bơi nắp mang phồng
lên, mang tiết nhiều dịch nhầy (mủmang), trường hợp bệnh nặng có thểgây chết cá rải
rác hoặc hàng loạt ởgiai đoạn cá con (<20cm). Tần xuất gặp của bệnh này là 32/90,
trong đó đã gặp lần lượt ởcác loài cá nhưsau: cá mú: 20/65, cá hồng: 10/20, cá chẽm:
2/30, chưa gặp bệnh này ởcá giò. Bệnh xuất hiện chủyếu vào thời gian giao thời giữa mùa
mưa và mùa khô và duy trì bệnh này trong suất mùa khô 78,2%. Cỡcá nhỏ(<20cm)
thường bịnhiễm cao (71,8%) so với cỡcá lớn (6,3%). Bệnh sán lá mang cũng xuất hiện ởcá
nuôi lồng cao hơn (66,7 với n=30) so với cá nuôi ao (20% với n=60)
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4676 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các loại bệnh thường gặp trên cá biển nuôi ở Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IN CULTURED MARINE FINFISHES IN KHANH HOA PROVINCE
PGS.TS. Đỗ Thị Hòa, ThS. Trần Vỹ Hích, KS. Nguyễn Thị Thùy Giang,
ThS. Phan Văn Út, KS. Nguyễn Thị Nguyệt Huệ
Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
Tóm tắt:
Trong 2 năm, từ 6/2005-6/2007, 90 cơ sở nuôi cá biển tại tỉnh Khánh Hòa đã được phỏng vấn và
736 mẫu cá bệnh đã được thu để phát hiện các loại bệnh thường gặp trên các loài cá biển nuôi tại địa
phương. Đã có 10 loại bệnh khác nhau được phát hiện ở các trang trại nuôi cá biển tại Khánh Hòa.
Đó là: bệnh Vibriosis, bệnh sán lá da, bệnh sán lá mang, bệnh rận cá, bệnh đỉa cá, bệnh hoại tử thần
kinh, bệnh mòn vây và đuôi, bệnh đốm trắng ở thận, bệnh lymphocystic và hội chứng dị dạng. Một số
trong các bệnh này xuất hiện quanh năm, một số khác lại thể hiện tính mùa vụ của bệnh. Người nuôi
cá biển ở địa phương đã dùng các loại hóa chất, kháng sinh để chữa bệnh cho cá nuôi, nhưng kết quả
trị bệnh còn thấp.
Từ khóa: Vibriosis, lymphocystic, tỉnh Khánh Hòa, nuôi cá biển
Abstract:
In two years, from 6/2005- 6/2007, 90 marine finfish culturing farms in Khanh Hoa Province had
been surveyed and 736 diseased fish samples had been collected for detecting common diseases in
some species of cultured marine finfishes. There ware 10 common diseases ware deteced that having
caused losses in marine fish culturing farms in Khanh Hoa. These are vibriosis disease, fin and tail rot
disease, gill monogenean disease, skin monogenean disease, sea lice disease, leech disease, white spot
kidney disease, lymphocystic disease, viral nervous necrosis disease and deformity syndrome. Some of
the diseases occurred all year round, but other diseases have seasonal characterization. Diseased
marine cultured fishes were treated by chemicals or antibiotics but effect of treatment is not hight.
Keywords: Vibriosis, lymphocystic, Khanh Hoa province, cultured marine finfish, disease.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khánh Hòa là một tỉnh ven biển, nằm ở
khu vực Nam Trung bộ, nơi có nhiệt độ ấm
nóng và độ mặn cao quanh năm, nơi có tiềm
năng to lớn cho nghề nuôi cá biển phát triển.
Nhiều loài cá biển có giá trị kinh tế đang được
nuôi ở địa phương, như cá mú (Epinephelus
spp); cá chẽm (Lates calcarifer), cá hồng
(Lutjanus spp) và cá giò (Rachycentron
canadum). Cá biển nuôi trong ao hay trong
lồng tại Khánh Hòa vẫn thường xuyên bị nhiều
loại bệnh khác nhau, ảnh hưởng tới sinh
trưởng và tỷ lệ sống của cá nuôi. Trong khi đó,
đến 2005, nghiên cứu về bệnh ở cá biển nuôi
và các biện pháp phòng trị bệnh ở Khánh Hòa
vẫn còn bỏ ngỏ, vẫn chưa có công trình nghiên
cứu nào về về lĩnh vực này tại địa phương
được công bố. Qua 2 năm điều tra và nghiên
cứu (từ 6/2005- 6/2007), 10 loại bệnh đã và
đang gây tác hại ở các ao, lồng nuôi cá biển tại
tỉnh Khánh Hòa đã được phát hiện, mô tả bệnh
lý và một số đặc điểm dịch tễ của bệnh.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
- Nguồn thông tin thứ cấp dựa vào các số
liệu tổng hợp của Sở Thủy sản (nay là Sở
NNPTNT), các phòng Nông nghiệp về các
vùng nuôi cá biển ở Khánh Hòa.
- Dựa trên kết quả phỏng vấn trực tiếp
những người nuôi cá biển bằng lồng (30 hộ),
bằng đìa (60 hộ) ở trong tỉnh Khánh Hòa
(n=90) và kết hợp với thu mẫu cá bệnh: 267
con cá mú (10-32cm); 180 con cá chẽm (3-
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
17
32cm); 82 con cá hồng (6-28cm) và 207 con
cá giò (5-40cm). Các mẫu cá đã được phân
tích tại phòng thí nghiệm bệnh học thủy sản để
xác định các loại bệnh thường xảy ra ở cá
biển nuôi và một số đặc điểm dịch tễ của
bệnh: tác nhân gây bệnh, các dấu hiệu có ý
nghĩa chẩn đoán, kích thước cá thường bị
bệnh, mùa vụ chính của bệnh và hiệu quả của
các phương pháp phòng trị mà người dân đã
áp dụng.
- Một số phương pháp nghiên cứu bệnh ở
động vật thủy sản thông thường đã được dùng
để nghiên cứu về tác nhân gây bệnh: Phương
pháp nghiên cứu ký sinh trùng ở cá của Dogiel
(1929) và của Hà Ký (2003); Phương pháp
nghiên cứu bệnh nhiễm khuẩn ở cá xương
của Kimberley A. Whitman (2004). Ngoài ra,
chúng tôi còn dùng kỹ thuật mô bệnh học-
Histopathology để tìm hiểu các biến đổi bệnh
lý bên trong và kỹ thuật PCR để chẩn đoán sự
nhiễm của virus gây hoại tử thần kinh ở các
mẫu có trạng thái bệnh lý bơi xoắn. Tên gọi
các loại bệnh phụ thuộc vào các dấu hiệu
chính đã quan sát được và dựa vào tác nhân
gây bệnh đã được phát hiện của các bệnh.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Bảng 1. Phân bố số phiếu điều tra theo hình thức nuôi và giống loài cá nuôi (n=90)
Các giống loài cá nuôi (%) Hình
thức
nuôi
cá biển
Cá Mú (%)
(Epinephelus spp)
Cá Hồng (%)
(Lutjanus
argentimaculat)
Cá Chẽm (%)
(Lates
calcarifer)
Cá Giò (%)
(Rachycentron
canadum)
Cá khác
(%)
Nuôi lồng
(n=30)
66,7 %
(20/30)
33,3%
(10/30)
33,3%
(5/30)
6,67,0
(2/30)
23,3%
(7/30)
Nuôi đìa
(n=60)
75,0%
(45/60)
16,6%
(10/60)
41,6 %
(25/60)
(3,54 %)
2/60
16,7%
(10/60)
(Chú thích: Có nhiều hộ dân nuôi không phải một mà nhiều loài cá biển)
3.1. Một số bệnh thường gặp trong nuôi cá
biển và đặc điểm dịch tễ.
Có 9 loại bệnh và 1 hội chứng bệnh ở cá
biển nuôi tại Khánh Hoà đã được phát hiện.
Các bệnh với dấu hiệu chính và kết quả
nghiên cứu tác nhân gây bệnh được trình bày
sau đây.
3.1.1. Bệnh Vibriosis (bệnh xuất huyết lở loét)
Cá bệnh xuất hiện các vết thương tổn
trên bề mặt cơ thể, tróc vẩy và xuất huyết dưới
da, nặng hơn có các vết loét sâu trên bề mặt
cơ thể. Cá bệnh bơi lờ đờ trên mặt nước, kém
ăn hoặc bỏ ăn và chết lác đác. Tần xuất gặp
(65/90): trong đó cá mú: 40/65, cá hồng:
12/20, cá chẽm: 10/25. Mùa khô (nhiệt độ cao)
là thời gian xuất hiện chính của bệnh này
(64,6%). Mọi kích cỡ của cá đều có thể nhiễm
bệnh. Bệnh Vibriosis gặp cao ở cá nuôi lồng
(100%), cá nuôi ao gặp thấp hơn (58,3%). Một
số loài vi khuẩn Vibrio spp đã phân lập được
từ nội tạng cá bệnh, trong đó Vibrio
anguillarum đã gây bệnh trong điều kiện cảm
nhiễm nhân tạo (60-80%) với liều tiêm 0,3ml
huyền dịch có mật độ vi khuẩn 4.106 - 4.107
tb/ml sau 3 ngày thử thách.
Mắt lồi
Loét
Cá lô lô đối chứng
Cá bệnh
1
Hình 1: Cá bị bệnh Vibriosis ở lồng và ao nuôi (1 và 3); Cá bị bệnh trong cảm nhiễm nhân tạo (2)
2 3
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
18
3.1.2. Bệnh mòn vây và đuôi
Cá bệnh có màu sắc nhợt nhạt, hoạt
động kém, các vây đặc biệt là vây đuôi bị ăn
mòn. Trường hợp nặng, toàn bộ thịt phần đuôi
bị hủy hoại để lộ xương sống, trên thân có các
vệt trắng nhợt do mất nhớt, mất vẩy. Bệnh đã
gây chết loạt rải rác hoặc hàng loạt cá trong ao
lồng nuôi tại Khánh Hòa, đặc biệt ở giai đoạn
cá con. Tần xuất gặp của bệnh là 25/90, trong
đó cá mú: 20/65, cá hồng: 10/20, cá
hồng:10/20, cá chẽm: 5/25 . Tần xuất gặp theo
mùa trong một năm không rõ ràng: Quanh
năm: 48%, mùa mưa 20% và mùa khô: 32%.
Sự xuất hiện bệnh mòn vây và đuôi hầu như
không liên quan tới kích cỡ của cá: mọi kích
cỡ cá: 36%, cá lớn: 24% và cá giống: 40%.
Kết quả phân lập của chúng tôi đã gặp với tần
số cao loại vi khuẩn dài (8- vài chục µm), gram
(-), có đặc điểm sinh hóa tương tự như loài
Flexibacter maritimus. Vi khuẩn này đã được
dùng để thử thách trên cá mú khỏe với liều
tiêm dưới da 0, 1ml huyền dịch có mật độ vi
khuẩn: 4. 106, 5.106 và 6.106 tb/ml và đặc
khúm khuẩn lạc ở vùng da bị thương tổn, kết
quả đã gây chết từ 30-60% cá thí nghiệm
trong thời gian 7 ngày.
3.1.3. Bệnh sán lá da (bệnh mè cá):
Cá bệnh thường bị cảm nhiễm sán lá đơn
chủ (Monogenea) dạng hạt mè trên bề mặt cơ
thể với cường độ cao (100% và 26-78
trùng/con cá), có thể làm cá đục mắt, hoạt
động không bình thường do ngứa ngáy, giai
đoạn cuối thường nổi lờ đờ trên mặt nước.
Trường hợp nhiễm nặng, cá bệnh thể hiện đục
mắt, suy kiệt sức khỏe mà chết. Tần xuất gặp
của bệnh này là 35/90, trong đó lần lượt gặp ở
các loài cá là: cá mú: 20/65, cá hồng: 12/20,
cá chẽm: 3/25, cá giò: 2/4. Bệnh thường xuất
hiện vào thời gian giao thời giữa 2 mùa khô và
mưa, khi nhiệt độ khoảng 25-300C (71,4 %).
57,1% trường hợp bệnh gặp ở cá có kích cỡ
nhỏ (<20cm) và cá nuôi ở lồng gặp bệnh này
cao hơn (83,3%) so với cá nuôi ở ao (16,7%).
Kết quả nghiên cứu các mẫu bị “ bệnh
mè cá” cho thấy một tỷ lệ và cường độ nhiễm
cao của sán lá đơn chủ (100% và 26-89
trùng/con cá) ở bề mặt cơ thể cá bệnh, trong
khi các mẫu cá khỏe thường không bị nhiễm
hoặc bị nhiễm ký sinh trùng này với tỷ lệ và
cường độ thấp. Bốn loài sán lá đơn chủ:
Neobenedenia melleni, Neobenedenia girellae,
Benedenia epinepheli và Benedenia sp đã
được xác định gây bệnh sán lá da trên cá biển
nuôi ở Khánh Hòa.
Hình 2. Cá bị bệnh mòn vây và đuôi ở ao lồng nuôi (1 và 3); Cá bệnh trong cảm nhiễm nhân tạo (2)
1
2 3
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
19
3.1.4. Bệnh sán lá mang (bnh sng mang,
hay bnh m mang)
Cá bệnh thường hoạt động yếu, bỏ ăn,
màu sắc nhợt nhạt. Khi bơi nắp mang phồng
lên, mang tiết nhiều dịch nhầy (mủ mang),
trường hợp bệnh nặng có thể gây chết cá rải
rác hoặc hàng loạt ở giai đoạn cá con
(<20cm). Tần xuất gặp của bệnh này là 32/90,
trong đó đã gặp lần lượt ở các loài cá như
sau: cá mú: 20/65, cá hồng: 10/20, cá chẽm:
2/30, chưa gặp bệnh này ở cá giò. Bệnh xuất
hiện chủ yếu vào thời gian giao thời giữa mùa
mưa và mùa khô và duy trì bệnh này trong
suất mùa khô 78,2%. Cỡ cá nhỏ (<20cm)
thường bị nhiễm cao (71,8%) so với cỡ cá lớn
(6,3%). Bệnh sán lá mang cũng xuất hiện ở cá
nuôi lồng cao hơn (66,7 với n=30) so với cá
nuôi ao (20% với n=60)
Khi phân tích các mẫu cá bị bệnh mủ
mang, chúng tôi đã phát hiện nhiều giống loài
sán lá đơn chủ ký sinh ở mang cá bệnh với tỷ
lệ và cường độ nhiễm rất cao (100% và 40 -
350 trùng/ phiến mang), như:
Pseudorhabdosynochus spp, Diplectanum spp
(Diplectanidae: Monogenea) và Haliotrema
spp (Ancyrocephalidae: Monogenea). Trong
khi đó, các mẫu cá khỏe thường không hoặc
nhiễm các ký sinh trùng này với tỷ lệ và cường
độ thấp (10-53% và 0-7 trùng/ lá mang). Do
vậy chúng tôi kết luận rằng, nguyên nhân gây
bệnh sưng mang ở cá biển nuôi của Khánh
Hòa là nhiều giống loài sán lá đơn chủ ký khác
nhau sinh với cường độ và tỷ lệ cao. Do vậy
bệnh này được gọi là bệnh sán lá mang.
3.1.5. Bệnh rận cá
Cá bị bệnh do rận có hiện tượng kém ăn,
chậm lớn, khi cảm nhiễm với mức độ cao gây
cá chết rải rác. Khi quan sát bằng mắt thường
thấy rõ từng đám rận cá (giáp xác ký sinh)
bám từng đám ở các khe mang, hốc mắt, hốc
mũi, xương cung mang, các tơ mang và trên
bề mặt cơ thể. Tần xuất gặp của bệnh là
30/90, trong đó gặp ở các loài cá là: cá mú:
20/65, cá giò: 2/4, cá chẽm: 8/30, chưa gặp ở
cá hồng. Bệnh rận ở cá xuất hiện quanh năm,
nhưng có tới 73,3% trường hợp xuất hiện vào
mùa mưa. Tất cá các cỡ cá nuôi đều bị nhiễm
bệnh này. Nguy cơ bị bệnh rận ở cá nuôi lồng
và nuôi ao là như nhau.
Hình 3: Cá giò và cá mú bị nhiễm bệnh sán lá da do sán lá đơn chủ ký sinh ở da với cường độ
cao (1. cá giò bị đục mắt do nhiễm Neobenedenia sp; 2. cá mú bị bệnh nhiễm nhiều
Neobenedenia sp trên bề mặt cơ thể; 3. Hình dạng của Neobenedenia meleni
(Monogenea) là tác nhân gây bệnh SLD)
1 2 3
Hình 4. Cá mú bị bệnh sán lá mang do sán lá đơn chủ (Monogenea) ký sinh [cá bị bệnh có
mầu tối, nắp mang phồng lên (1); Sán lá đơn chủ ký sinh ở các mang với cường độ cao (2,3)]
1 2 3
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
20
Kết quả nghiên cứu các mẫu cá bị bệnh
đã cho thấy, tác nhân gây bệnh rận ở cá là
một số loài giáp xác bậc thấp thuộc giống
Caligus spp, Parapetalus sp và Lepeophtheirus
sp (Caligidae: Copepoda) và Lernanthropus sp
(Lernanthropidae: Copepoda) ký sinh ở cá với
tỷ lệ và cường độ cao.
3.1.6. Bệnh hoại tử thần kinh (bệnh cá bơi xoắn)
Cá bị bệnh có màu sắc đen sậm, bơi lội
không định hướng, bơi xoắn ốc, đuôi cong và
liệt cứng, bụng cá chướng do bóng hơi căng
phồng, ruột không có thức ăn nhưng có
thường chứa chất dịch màu xanh lá cây. Trên
thân và nội tạng không có dấu hiệu bị tổn
thương. Bệnh này đã gây chết nhiều ở cá con.
Tần xuất gặp của bệnh cá bơi xoắn là 23/90,
trong đó gặp ở các loài cá biển nuôi ở Khánh
hòa là: cá mú: 18/65, cá chẽm: 5/30 và cá giò:
2/4. Đây là bệnh xuất hiện chủ yếu vào mùa
khô, mùa có nhiệt độ cao trong năm (78,3 %)
và cỡ cá con cũng thường chịu tác hại của
bệnh hoại tử thần kinh lớn hơn (65,2%) so với
cỡ cá lớn (21,7%). Cá nuôi ao hay lồng đều
có nguy cơ bị bệnh này như nhau.
Kết quả phân tích mẫu cá bơi xoắn tại
phòng thí nghiệm bằng kỹ thuật mô bệnh học
đã cho thấy các biến đổi mô học ở não và ở
mắt của cá bệnh rất đặc trưng cho bệnh nhiễm
virus gây hoại tử thần kinh ở cá biển đã được
thông báo ở nhiều nơi trên thế giới [Yukio
Maeno &CTV, 2004; Tanaka S &CTV, 2004].
Một số mẫu cá bị bệnh bơi xoắn đã được kiểm
tra bằng kỹ thuật PCR, cho kết quả dương
tính với virus gây hoại tử thần kinh (Viral
Nervous Necrosis- VNN).
3.1.7. Bệnh đỉa cá
Cá bị bệnh này có da, vây, mang, hốc mũi
khe miệng bị nhiễm ký sinh trùng thuộc họ đỉa
(Hirunidae) với cường độ cao (81-152 con đỉa
đu bám trên một con cá) làm cho cá bệnh gầy
yếu, suy kiệt sức khỏe và chết rải rác do mất
máu hoặc do bị nhiễm khuẩn cơ hội. Kết quả
điều tra đã thể hiện tần xuất gặp khá cao của
Hình 5: Cá giò bị bệnh do ký sinh trùng thuộc họ Caligidae [Từng đám Parapetalus sp ký sinh
ở mang và khe mang của cá giò (1); Parapetalus sp và Caligus sp (Caligidae) gây bệnh rận ở
cá biển nuôi tại Khánh Hòa (2 và 3)].
1 2 3
Hình 6: Cá mú con bị bệnh hoại tử thần kính do virus (VNN).
[Các dấu hiệu chính của cá khi bị nhiễm bệnh hoại tử thần kinh (1 và 2);
Mô bệnh học não của cá mú nuôi ở Khánh Hòa bị bệnh VNN (3)]
1 3 2
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
21
bệnh đỉa trên cá biển nuôi ở khánh Hòa
(30/90), trong đó cá mú nhiễm:15/65, cá chẽm:
13/30 và cá hồng: 5/20. Có 66,7% trường hợp
hặp bệnh đỉa vào mùa mưa và tất cá các cỡ
cá đều có thể bị nhiễm ký sinh trùng này, tuy
vậy tác hại gây chết cao hơn ở cá con khi
cùng bị nhiễm với cường độ đỉa như nhau.
3.1.8. Bệnh đốm trắng ở thận
Bệnh này gặp ở cá giò nuôi thương phẩm
trong các lồng trên biển ở Vạn Ninh, Khánh
hòa. Cá bị bệnh thể hiện kém ăn, chậm lớn,
giải phẫu bên trong cơ thể biểu hiện thận bị
sưng, xuất hiện các đốm trắng dạng hạt trong
mô thận, đôi khi gặp ở gan và tụy và gây chết
cá rải rác. Kết quả điều tra cho thấy tần số gặp
của bệnh này trên cá biển nuôi ở Khánh Hòa
thấp (2/90), và chỉ gặp ở cá giò với tần xuất
2/4. Vi khuẩn Photobacterium damsela
thường xuyên phân lập được từ mẫu cá bệnh.
3.1.9. Bệnh lymphocystic (bệnh u sần)
Cá bị bệnh xuất hiện khối u nhỏ, có mầu
trắng hay hồng trên vây, lưng, đầu cá. Đôi khi
khối u vỡ gây gây loét và xuất huyết. Bệnh này
chỉ gây chết rải rác nhưng ảnh hưởng tới sinh
trưởng và giá trị thương phẩm của cá nuôi.
Tần xuất gặp của bệnh lymphocystic ở cá biển
nuôi tại Khánh Hòa không cao (5/90), trong đó
chỉ gặp bệnh này ở cá giò: 2/4 cá chẽm: 3/30,
các loài cá khác chưa gặp bệnh này. Có tới
80% trường hợp bệnh này xuất hiện vào mùa
mưa. Bệnh có thể xảy ra ở các cỡ cá khác
nhau, nhưng vẫn gặp ở cá con cao hơn: cá
con: 40%, cá lớn: 20% và tất cả các cỡ cá:
40%. Các mẫu cá bị bệnh đã được phân tích
bằng kỹ thuật mô bệnh học cho thấy sự phi đại
của một số tế bào ở các khối u, tương tự như
đặc điểm mô bệnh học của bệnh lymphocystic
trên cá biển đã được mô tả bởi Cheng S. &
CTV (2006) và Lorenzen K. &CTV (1991).
Hình 7. Đỉa cá thu được từ
cá biển nuôi tại Khánh Hòa
1 2
Hình 8: Cá giò bị bệnh thể hiện dấu hiệu sưng với các đốm trắng trên lách (1) và trên thận (2)
Hình 9. Cá giò nuôi tại Vạn Ninh, Khánh Hòa bị bệnh lymphocystic (1);
Lát cắt mô bệnh học của khối u trên vây cá bệnh (2)
1 2
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
22
3.1.10 Hội chứng dị dạng ở cá biển
Cá bị hội chứng này thể hiện hình dạng
không bình thường, cột sống bị ưỡn cong và
bụng cá bệnh hóp lại như bị đói lâu ngày. Cá
bệnh sẽ chết sau đó ít ngày. Tần số gặp của
bệnh này là 5/90 và chủ yếu gặp ở cá mú, giai
đoạn cá con nuôi nuôi tại Khánh Hòa. Hội
chứng này chưa rõ nguyên nhân.
2. Một số biện pháp phòng trị bệnh đã được các nông hộ nuôi cá biển sử dụng
Bảng 2. Các biện pháp trị bệnh đã được sử dụng tại các cơ sở nuôi cá biển tại Khánh Hòa (n=90)
STT Tên gọi của bệnh Biện pháp trị bệnh đã sử dụng Hiệu quả trị bệnh
1 Bệnh Vibriosis
( n=65)
- Dùng kháng sinh để tắm cá bệnh (53,8%)
- Dùng malachite Green để tắm (23,1%)
- Không trị khi gặp bệnh (23,1%)
- Có hiệu quả: 42,9%
- Không hiệu quả: 57,1%
2 Bệnh sán lá da –
(bệnh mè cá).
(n=35)
- Dùng hóa chất (formol + malachite green) để
tắm cho cá (71.42%)
- Dùng nước ngọt hoặc nước mưa để tắm cho
cá. (42,8%)
- Dùng dipterex tắm: 14,3%
- Không chữa bệnh: 38,57%
- Có hiệu qủa khi tắm bằng
Formol nhưng bệnh tái phát
nhanh (60%)
-Tắm nước mưa, nước ngọt
chỉ giảm bệnh (100%)
- Dipterex hiệu quả tốt (100%)
3 Bệnh sán lá mang
(bệnh mủ mang)
(n=32)
-Dùng formalin (46,5%)
-Dùng Malachite green (21,7%)
-Dùng hóa dipterex (31,2%)
-Dùng nước ngọt (16,5%)
- Không dùng (16,5%)
- Bệnh chỉ giảm (66,7%)
- MG không có hiệu quả
(71%)
- Dipterex có hiệu quả (80%
- Với nước ngọt bệnh chỉ giảm
(100%)
4 Bệnh do rận cá
(n=30)
- Dùng dipterex để tắm: 33,3%
- Tắm nước mưa: 16,6%
- Tắm malachite (MG): 33,3%
- Không chữa trị: 16,6%
-Dipterex có hiệu quả (80%)
-Giảm với nước mưa (60%).
5 Bệnh đỉa cá (n=30) - Tắm Malachite (MG): 66.7%
- Tắm bằng Dipterex: 33,3%
-Dùng MG giảm bệnh (75%)
-Dùng dipterex có tác dụng
giảm bệnh (70%)
6 Bệnh mòn vây và
đuôi (n=25)
- Không biết cách nào để chữa trị (84,0%)
- Dùng hóa chất (Iodine, KMnO4)để tắm cá
bệnh và kết hợp với cho ăn kháng sinh (16,
0% )
- Có hiệu quả nếu cá nhiễm
chưa nặng, nhưng hao hụt
nhiều ( 50%)
- Không có hiệu quả (50%)
7 Bệnh hoại tử thần
kinh (n=23)
- Không chữa trị (34,8%)
-Tắm hóa chất và kháng sinh (65,2%)
- Hoàn toàn không có hiệu
quả (100%)
8 Bệnh lymphocystic
(n=5)
- Tắm kháng sinh (50%)
- Tắm nước ngọt (50%)
- Không có hiệu quả
9 Bệnh đốm trắng ở
thận. (n=2)
- Chưa dùng biện pháp nào để chữa trị
(100%)
- Không có thông tin
IV. THẢO LUẬN
Các kết quả điều tra và nghiên cứu đã
trình bày trên đây cho ta thấy cá biển nuôi ở
Khánh Hòa dù mới chỉ bắt đầu phát triển,
nhưng đã gặp không ít khó khăn về bệnh. Các
bệnh đã gặp ở cá biển nuôi tại Khánh Hòa
cũng không khác nhiều so với các bệnh trên
cá biển nuôi ở các quốc gia khu vực châu Á
Thái Bình Dương đã được thông báo bởi T.S.
Leong & CTV. (1992, 2006ª), bệnh ở cá mú
nuôi được nghiên cứu bởi S. Chinabut &
CTV.(2005), Erlinda R.C-L & CTV (2004) và
Mellba G &CTV (2006), bệnh ở cá giò nuôi
của Lopez & CTV (2002) và bệnh ở cá chẽm
nuôi của L. Ruangpan (2007
Một số bệnh ở cá biển nuôi của Khánh
Hòa có thể xảy ra quanh năm, không phân biệt
rõ ràng về mùa vụ, như bệnh mòn vây và đuôi,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
23
hội chứng dị dạng. Nhưng một số bệnh khác
lại có tần xuất gặp tập trung nhiều hơn vào
một mùa nào đó trong năm, thể hiện tính mùa
vụ của bệnh. Bệnh Vibriosis và bệnh hoại tử
thần kinh thường xảy ra nhiều hơn vào mùa
khô (mùa có nhiệt độ cao). Bệnh sán lá da và
bệnh sán lá mang xảy ra nhiều hơn vào giao
thời giữa 2 mùa mưa và khô (khi có nhiệt độ
nước 25-300C) và các bệnh đốm trắng ở thận
cá giò, bệnh rận cá, bệnh lymphocystic và
bệnh đỉa cá lại thường xảy ra vào mùa mưa.
Hầu hết các bệnh đều gây tác hại nhiều hơn ở
giai đoạn cá con (<20cm), ngoại trừ bệnh đỉa
và bệnh đốm trắng ở thận của cá giò.
Kết quả ghi nhận ở bảng 2 cho ta thấy
kháng sinh và hóa chất đã được dùng phổ
biến để chữa bệnh cho cá biển nuôi ở Khánh
Hòa, nhưng hiệu quả trị bệnh chưa cao. Ngoài
ra, trong số các loại hóa chất đã dùng, có 2
loại nằm trong danh mục thuốc cấm sử dụng ở
Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới,
đó là malachite green và dipterex đã được
dùng chữa cho nhiều bệnh. Do vậy dư lượng
của thuốc để lại trên cơ thể của cá nuôi có thể
là một vấn đề trong không đơn giản khi người
nuôi tiêu thụ sản phẩm của họ trên thị trường
thế giới.
KẾT LUẬN
1. Đã phát hiện 9 loại bệnh và 1 hội chứng
gây tác hại trên các loài cá biển nuôi ở Khánh
Hòa như cá mú, cá chẽm , cá hồng và cá giò .
Trong đó tần xuất gặp từ cao đến thấp theo
thứ tự như sau: Bệnh Vibriosis, bệnh sán lá
da, bệnh sán lá mang, bệnh rận cá. bệnh đỉa
cá, bệnh mòn vây và đuôi, bệnh hoại tử thần
kinh, bệnh lymphocystic, bệnh đốm trắng ở
thận và hội chứng dị dạng.
2. Một số bệnh xuất hiện quanh năm, như
bệnh mòn đuôi và vây, hội chứng dị dạng. Một
số bệnh khác lại có tính mùa vụ: Bệnh
Vibriosis và bệnh hoại tử thần kinh thường tập
trung vào mùa khô (mùa có nhiệt độ cao);
Bệnh sán lá da, bệnh sán lá mang thường tập
trung xảy ra vào thời gian giao thời giữa mùa
mưa sang mùa khô. Các bệnh rận cá, bệnh
đốm trắng ở thận, bệnh lymphocystic và bệnh
đỉa cá lại xảy ra nhiều hơn vào mùa mưa, mùa
có nhiệt độ mát mẻ ở Khánh Hòa (22 – 280C)
3. Người nuôi cá ở Khánh Hòa đã dùng
nhiều loại hóa chất và kháng sinh để trị bệnh,
trong khi hiểu biết của họ về tác nhân gây
bệnh và tác dụng của thuốc còn hạn chế, hiệu
quả trị bệnh chưa cao. Đặc biệt họ đã dùng
khá phổ biển 2 loại hóa chất đã cấm sử dụng
trong NTTS ở Việt Nam là malachite green và
dipterex.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Tề (1998). Bệnh của cá mú nuôi lồng ở vịnh Hạ Long. Báo cáo tại Hội nghị Nuôi
Trồng Thủy sản toàn quốc tháng 9/1998.
2. Phan Thị Vân, Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hằng (2004). Bệnh ký sinh trùng trên cá song, cá
giò nuôi tại Quảng Ninh và Hải Phòng. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và bệnh
động vật thủy sản. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I.
3. Cheng S., Wenbin Zhan, Jing Xing, Xiuzhen Sheng 2006. Development and characterization
of monoclonal antibody to the lymphocystis disease virus of Japanese flounder Paralichthys
olivaceus isolated from China. Journal of virological method. N. 135, pp. 173 - 180
4. Erlinda R. Cruz-Lacierda & Gregoria E. Erazo-Pagador (2004): Parasitic diseases of
cultured grouper. In diseses of cultured grouper. Edited by Kazuya N. and Erlinda R. Cruz-
Lacierda. Southeast Asian Fisheries Development Center, Aquaculture Department.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008 Trường Đại học Nha Trang
24
5. Leong T.S., Zilongtan & William J. Enright (2006a): Important parasitic diseases in cultured
marine fish in the Asia –Pacific region. In AQUA culture Asiapacific magazine. Part 1. The
parasite. Vol. 2, No. 1, p.14-15.
6. Leong T.S., Zilongtan & William J. Enright (2006b): Important parasitic diseases in cultured
marine fish in the Asia –Pacific region. In AQUA culture Asiapacific magazine. Part 2.control
measures. Vol. 2, No. 2, p.25-27.
7. Leong T.S. (2002): Practical approaches to health management for cage cultured marine
fishes. In J. Aquaculture Asia, Vol.VII, No.3. p. 42-45.
8. Leong T.S. (1994): Parasites and diseases of cultured marine finfishes in South East Asia.
School of Biological Sciences, University Sains Malaysia. 11800 Minden, Pulau Pinang,
Malaysia. 25p.
9. Lila Ruangpan (2007): Seabass (Lates calcarifer) culture in Thailand.
10. In http:/www.fao.org/docrep/field/003/AB707E/ AB707E10.htm.12pp.
11. Lopez, C, P.R. Rajan, J.H.Y. Lin, T.Y.Kuo & H. L.Wang (2002): Disease outbreak in sea
farmed cobia (Rachycentron canadum) associated with Vibrio spp, Photobacterium
damselae spp. piscicida, monogenean and myxosporean parasites. J. Fish Pathology. 22.
p.206 -211.
12. Lorenzen K. & Dixon P.F. (1991) Prevalence of antibodies to lymphocyctis virus in estuarine
flounder Platichthys flesus. Diseases of Aquatic Organisms 11, pp. 99 - 103.
11. Ogawa K. (2004): Monogenean diseases. In infectiuos ans parasitic diseases of fish ans
shellfish. Edided by Wakabayashi. H and Moroga K. P. 353-379.
12. Supranee Chinabut, Theerawoot Lersutthichawai, Thitiporn Laoprasert & Pisarn Kerdpol
(2005): Parasites of grouper (Epinephelus coioides) cultured in Thai Lan. In Thai Fisheries
Gazete (Thailand). 58 (2) P.132-139.
13. Tanaka S, I Kuriyama, T Nakai and Miyazaki 2003. Susceptibility of cultured juveniles of
several marine fish to the sevenband grouper nervous necrosis virus. Journal of fish diseases
26, 109-115
14. Yukio Maeno, Leobert D. De La Pena and Erlinda R. Cruz-La
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_benh_thuong_gap_o_ca_bien_3253.pdf