Các nhân tố tác động đến năng suất lao động - Lý luận và thực tiễn

Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có. Nhưng thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất những cơ hội đang đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức, kéo dài sự tụt hậu.

Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: “Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình; (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung yếu và lạc hậu; khả năng nghiên cứu thấp; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp ”

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10932 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nhân tố tác động đến năng suất lao động - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa được rèn luyện tư duy khoa học một cách nghiêm túc, không có sự hiểu biết rộng rãi về sản xuất, không nắm được nghệ thuật quản lý sản xuất thì khó tránh khỏi bị mất phương hướng, bị rơi vào thế bị động, bối rối. Lúc đó, các vấn đề sẽ không được giải quyết dẫn tới sản xuất bị trì trệ, năng suất lao động bị giảm sút. Phân công lao động gắn liền với chuyên môn hoá sản xuất - kinh doanh, nên mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ, và là biểu hiện trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Các loại phân công lao động xã hội : phân công lao động chung là phân chia nền kinh tế thành các loại sản xuất khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, vận tải...; phân công lao động riêng (phân công lao động đặc thù) là phân chia sản xuất thành những ngành và phân ngành như công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi...; phân công lao động cá biệt là phân công trong nội bộ xí nghiệp. Điều kiện của sự phân công lao động xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đến lượt nó, phân công lao động xã hội lại là nhân tố phát triển của lực lượng sản xuất. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đòi hỏi lực lượng sản xuất phải thay đổi cho phù hợp. Điều đó có nghĩa là phải có sự phân công lao động một cách hợp lý, giảm lao động giản đơn, lao động cơ bắp mà phải thông qua lao động trí óc. Sự thay đổi về tư liệu sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phải phù hợp tương ứng mới có hiệu quả cao. Quá trình phân công lao động phù hợp sẽ làm cho việc sản xuất có hiệu quả hơn, năng suất lao động tăng cao hơn. Trình độ quản lý và phân công lao động có tác động không nhỏ tới năng suất lao động. Các nhà sản xuất biết quản lý phù hợp thì năng suất của người lao động sẽ tăng, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận. Hiệu quả của tư liệu sản xuất . Tư liệu sản xuất là bất kì công cụ nào giúp người lao động biến nguyên liệu thành vật thể hữu dụng. Bao gồm tư liệu hữu hình (máy móc, xưởng,..) và tư liệu vô hình (sáng kiến, kiến thức,...). Hay tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Người lao động dùng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm hàng hoá. [] Sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động , cải thiện nền kinh tế . Các nhân tố khác : Tâm lý , điều kiện tự nhiên… Trong quá trình làm việc, mục đích của người lao động là sản xuất ra các sản phẩm để nuôi sống mình và gia đình. Khi người lao động có động lực thúc đẩy thì công việc họ làm sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài ra, khi người lao động được tạo cơ hội làm việc mình yêu thích họ sẽ làm hết sức mình. Các nhà quản lý cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động với công việc, đánh giá đúng mức đóng góp của họ. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất nên cho người lao động tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình sản xuất, giúp đỡ họ để họ phát huy năng lực của mình một cách tối đa. Như vậy người lao động sẽ thấy được vai trò của mình trong công ty, họ thấy được sự đóng góp của mình, thành công của công ty. Ngày nay, môi trường làm việc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất của người lao động. Đặc biệt là môi trường làm việc. Khi môi trường xung quanh an toàn, không bị ô nhiễm thì người lao động có thể an tâm làm việc. Họ có thể tập trung để sản xuất. Ngoài ra còn một số yếu tố như âm thanh, quần áo cũng ảnh hưởng tới năng suất của người lao động. Khi họ gặp được những điều kiện thuận lợi thì họ sẽ làm việc hiệu quả hơn. Năng suất lao động sẽ tăng lên. Ngựơc lại, trong những điều kiện bất lợi, những vấn đề làm cho người lao động bị căng thẳng, áp lực sẽ làm giảm đáng kể hiệu quả làm việc của họ. TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG . Nâng cao NSLĐ là tiết kiệm lao động sống và lao động vật hoá, là giảm tỉ lệ lao động vật hoá sao cho tổng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Tăng NSLĐ là một quy luật của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Theo Mác, “năng suất lao động là nhân tố quyết định sự thắng lợi của chế độ xã hội”. [ ] Tăng năng suất lao động sẽ làm cho chi phí vào một đơn vị sản phẩm giảm xuống , do đó tạo ra những điều kiện không những để hạ giá thành sản phẩm mà còn để nâng cao mức tiền lương bình quân . Việc phấn đấu để tăng năng suất lao động có liên quan chặt chẽ với việc sử dụng tốt tài sản cố định và tiêu hao các nguồn vật tư tiết kiệm hơn nữa . [1 , trang 7] Nâng cao năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế đến việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích lũy tái đầu tư và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Hơn nữa, năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). [ , 14/05/2007, 14:35 ] CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ : NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 . PHÂN TÍCH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CHUNG TOÀN NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2001-2005. Từ số liệu về tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế và lao động làm việc có trong Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê, ta tính được mức năng suất lao động của năm 2005 đạt 19,62 triệu đồng. Nếu tính theo giá cố định (giá năm 1994) và nghiên cứu biến động của năng suất lao động ta thấy 5 năm qua năng suất lao động chung toàn nền kinh tế quốc dân của Việt Nam liên tục tăng lên và tăng với xu thế cao dần, cụ thể như sau : Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Bình quân 5 năm Tốc độ tăng năng suất lao động (%) 4.25 4.48 4.54 5.19 5.51 4.81 Bảng 1: Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội giai đoạn 2001 – 2005 Nếu quy đổi mức năng suất lao động toàn nền kinh tế từ giá thực tế (VNĐ) theo tỷ giá hối đoái thành đô la Mỹ (1 USD = 15.858 VNĐ) thì năng suất lao động toàn nền kinh tế của Việt Nam năm 2005 đạt 1.237 USD. So sánh mức năng suất lao động tính theo USD và tốc độ tăng năng suất lao động tính bằng % năm 2005 của Việt Nam với một số nước trên thế giới, ta có kết quả như sau: Tên nước và lãnh thổ Mức năng suất lao động Tốc độ tăng NSLĐ Mức NSLĐ (USD) Thứ tự Tốc độ (%) Thứ tự Mỹ 77346 1 1,8 12 Nhật 77061 2 1,9 10 Ireland 62936 3 1,0 15 Hồng Kông 60299 4 5,0 4 Pháp 57677 5 1,4 14 Phần Lan 55698 6 0,1 18 Singapore 52426 7 1,9 10 Anh 51882 8 0,9 16 Đức 50789 9 0,9 16 Canada 49308 10 1,6 13 Australia 45545 11 -1,0 20 Đài Loan 35856 12 2,7 8 Hàn Quốc 27907 13 2,6 9 Malaysia 11300 14 3,0 6 Thái Lan 4305 15 3,0 6 Philippin 2807 16 -0,8 19 Trung Quốc 2272 17 7,1 1 Indonesia 1952 18 4,4 5 Ấn Độ 1242 19 6,6 2 Việt Nam 1237 20 5,51 3 Qua bảng số liệu trên ta thấy năng suất lao động của Việt Nam đạt ở mức thấp xấp xỉ năng suất lao động của Ấn Độ và đứng cuối cùng trong số 20 nước được chọn để so sánh. Nếu so với năng suất lao động của Mỹ (nước có năng suất lao động cao nhất trong bảng), thì năng suất lao động của Việt Nam chỉ mới bằng 1,6%. Nếu tách riêng 6 nước trong khối ASEAN có trong bảng trên gồm: Singapore , Malaysia , Thái Lan, Philippin , Indonesia và Việt Nam thì Singapore dẫn đầu và Việt Nam tất nhiên ở vị trí cuối. Năng suất lao động năm 2005 của Việt Nam so với Singapore = 2,35%, so với Malaysia = 10,95%, so với Thái Lan = 28,73%, so với Philippin = 44,07% và so với Indonesia = 63,37%. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng năng suất lao động thì trong số những nước này Việt Nam có tốc độ tăng cao (5,51%, đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Ấn Độ) trong khi đó 4 nước còn lại chỉ tăng từ 1,9% đến 4,4%. Riêng Philippin , năng suất lao động năm 2005 giảm -0,8% và Australia giảm -1,0%. Nếu tính theo phương pháp sức mua tương đương (PPP), năng suất lao động của Việt Nam năm 2005 đạt trên 5.000 USD. Tuy nhiên, vẫn ở vị trí cuối cùng của 20 nước kể trên. Như vậy, có thể nói, năng suất lao động của Việt Nam còn quá thấp so với năng suất lao động của các nước khác. Điều đó có thể giải thích về trình độ kỹ thuật, công nghệ của ta còn thấp, cơ sở vật chất còn nghèo, công tác quản lý còn một số hạn chế, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu xét theo xu thế biến động từ năm 2001 - 2005 thì năng suất lao động chung của Việt Nam liên tục tăng lên và có mức tăng khá (từ 4,25% đến 5,51%). Bình quân 5 năm là 4,81%. Những năm gần đây, Việt Nam đã chú ý đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển sản xuất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế... là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động. [ , 11/10/2007] THỰC TRẠNG NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA . Ta chỉ xét đến những nhân tố chính , tác động trực tiếp đến năng suất lao động . Nguồn nhân lực . Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có. Nhưng thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất những cơ hội đang đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức, kéo dài sự tụt hậu...  Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: “Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học -  mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình; (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung yếu và lạc hậu; khả năng nghiên cứu thấp; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp…” Tình hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề. Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi… Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế. “So với thế giới thì nước ta có tỷ lệ giữa thầy và thợ cao hơn nhiều lần, tuy nhiên nguồn nhân lực cấp cao lại ở mức khan hiếm. Chúng ta đang trong tình trạng lao động dư về lượng và yếu về chất”, Tiến sỹ Hồ Đức Hùng, Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐH Kinh tế TPHCM, nhận định. Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng: - Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10; - Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng gấp đôi của nước ta… Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng con người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, có nhiều ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng. Có phải như thế không? – xin được xem xét. Những nguyên nhân chính: 1. Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý chí hoặc nhân  danh phát huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế là lạc lõng (ví dụ: định thay bản chữ cái ABC, abc bằng bảng E,e; tình trạng bất cập của chương trình chuẩn, giáo án chuẩn; kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sỹ; một số chương trình nghiên cứu Kx;  sáng tác ra học vị phó giáo sư; việc ồ ạt xây dựng  trường đại học tại nhiều tỉnh - trong khi đó bằng đại học của nước ta không được quốc tế công nhận…) 2. Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã bóp méo những ý tưởng, những mong muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực; làm sai lệch hướng vận dụng mọi nguồn lực. 3. Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là khả năng cho phép của nguồn lực và một bên là đòi hỏi của phát triển; không lường đúng những mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm này trong đời sống quốc gia, không nhận thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc trầm trọng thêm tình trạng này. 4. Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người, dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ. [ www.tuoitre.com.vn , 07/11/2007 , 17:21] Khoa học công nghệ . Để đánh giá sự phát triển KH&CN của một quốc gia, cần phải sử dụng các chỉ tiêu đã quen thuộc trên thế giới. Về kết quả KH&CN, đó là số công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế và số sáng chế đăng ký ở các cơ quan có uy tín trên thế giới (Cục Sáng chế Mỹ,...). Về chỉ tiêu thứ nhất, ta ở sau Thái Lan hơn 20 năm; về chỉ tiêu thứ hai, ta chưa có gì để so sánh! Mặc dù, hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của đất nước, nhưng trên thực tế, hoạt động này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, nước ta có khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật, trên 2.250.000 người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 18.000 thạc sỹ và 16.000 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, trong đó có 610 tiến sỹ khoa học. Bình quân có 193 cán bộ khoa học công nghệ trên 10.000 dân. Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2004 của UNDP, ở Việt Nam đang có khoảng 50.000 người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Trong số này có hơn 37.000 người (72% có trình độ đại học trở lên) làm việc trong các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Nhà nước, với 68,9% làm việc theo chế độ biên chế và 31,1% làm việc theo chế độ hợp đồng. Tuy nhiên, tháp nhân lực khoa học và công nghệ này của nước ta còn rất hẹp, nếu so sánh với một nước công nghiệp phát triển như Cộng hòa Liên bang Đức với 82 triệu dân và 1,6 triệu tiến sỹ. Năm 2006, tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đã tăng lên gần 5.890 tỉ đồng, đạt 2% chi ngân sách nhà nước. Do môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh chưa cao nên các hoạt động khoa học và công nghệ chưa trở thành một công cụ và động lực thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm đến 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ, trong đó 2/3 dành cho sự nghiệp khoa học và 1/3 dành cho xây dựng cơ bản. ở các nước, số đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ chiếm trên 60%, còn đầu tư của nhà nước chỉ chiếm 30%. Về đầu tư của các doanh nghiệp, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ tại 28 tổng công ty 90 - 91, từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp này chiếm tỷ lệ 60% tổng số vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp toàn quốc. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu phát triển/đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là 6%/94%. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển của các tổng công ty dao động trong khoảng từ 0,05% - 0,1% trên tổng doanh thu (các nước là 5 - 6%). Như vậy, tỷ lệ này còn rất thấp để các tổng công ty 90 - 91 có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tình hình phát triển công nghệ ở Việt Nam có thể đánh giá thông qua giá trị nhập khẩu máy móc, trang thiết bị công nghệ trong thời gian gần đây. Trong 5 năm giai đoạn 2001 - 2005, nước ta đã nhập khẩu 35.997 triệu USD máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2006, con số này là 9.597 triệu USD, chiếm 21,8 % tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Chính vì tốc độ nhập khẩu công nghệ còn chậm nên hiện nay mặt bằng công nghệ trong các ngành sản xuất kinh doanh của nước ta còn ở mức thấp do công nghiệp hóa chưa hoàn toàn gắn với hiện đại hóa. Số ngành, lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít. Các ngành sử dụng công nghệ cao mới đang bắt đầu hình thành. Đến nay, nước ta sử dụng công nghệ trung bình là phổ biến, tỷ lệ nhóm ngành công nghệ cao của Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 20%, trong khi đó của Xin-ga-po là 73%, Ma-lai-xi-a là 51% và Thái Lan là 31% (theo tiêu chí, để đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%). Tốc độ đổi mới công nghệ của cả nước đạt khoảng 10% (nếu tính riêng 3 vùng kinh tế trọng điểm là nơi tập trung công nghệ cao nhất cả nước cũng chỉ đạt khoảng 12%), so với tốc độ đổi mới công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới thì đó là mức còn rất thấp.Trong công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp tự động hóa chỉ chiếm khoảng 1,9%, bán tự động là 19,6%, cơ khí hóa 26,6%, bán cơ khí hóa 35,7%, thủ công 16,2%. Việc chưa chú trọng tiếp nhận công nghệ và sự phát triển chậm của lĩnh vực công nghiệp chế tạo của Việt Nam đã biểu hiện qua năng lực cạnh tranh công nghệ yếu kém. Theo báo cáo phát triển công nghiệp 2002 - 2003 của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đánh giá về sự phát triển công nghiệp và năng lực cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chế tạo của 87 nền kinh tế đang phát triển, trong đó có 14 nền kinh tế châu á thì Việt Nam vẫn chưa nằm trong danh sách này. Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2004, năng lực cạnh tranh tổng hợp của nền kinh tế nước ta chỉ đứng thứ 77/104 nền kinh tế, chỉ số về chuyển giao công nghệ được xếp thứ 66 là nhờ tỷ lệ vốn FDI vào nước ta ở mức cao so với các nước trong khu vực. Chỉ số xếp hạng về công nghệ chỉ đứng thứ 92 do tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị trên tổng kim ngạch nhập khẩu mới ở mức thấp. Chỉ số về mức độ sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của Việt Nam chỉ đứng thứ 99 trong số 104 nền kinh tế được xếp hạng. Các số liệu trên cho thấy Việt Nam cần phải sớm khắc phục tình trạng yếu kém về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu, khắc phục sự mất cân đối giữa sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước với tiếp nhận công nghệ qua các doanh nghiệp FDI và khắc phục sự liên kết yếu kém giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất. Hiện nay, mặc dù vốn đầu tư của Nhà nước đang chiếm tỷ lệ rất cao, nhưng các ngành công nghiệp nước ta còn chưa tập trung thích đáng vào việc nhanh chóng phát triển và làm chủ các công nghệ nguồn, công nghệ chế tạo định hướng xuất khẩu, có xu hướng để các nhà đầu tư nước ngoài "phát triển giúp" các ngành công nghiệp nói trên. Điều này dẫn đến nguy cơ "công nghiệp hóa mà không nắm giữ được những bí quyết công nghệ chiến lược và mũi nhọn" như tình trạng của nhiều nước Đông - Nam Á hiện nay. Tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất công nghiệp trên tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nền kinh tế nước ta cũng chỉ đạt mức thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn trình độ công nghiệp hóa tương tự, tỷ lệ này của Nhật Bản và Hàn Quốc vào khoảng 40%. [ , 13/04/2007 , 15:53] CHƯƠNG 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA . PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC . Phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người. Đòi hỏi này đặt ra hai yêu cầu cùng một lúc: Phải tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia. Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, mà là ý chí phấn đấu với tất cả trí tuệ và nguồn lực có trong tay – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là tự do và nghị lực sáng tạo của nó; kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại. Phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt để toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một môi trường xã hội trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm chuẩn mực; xã hội trở thành xã hội học tập. Giáo dục đào tạo giữ vị trí quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sãn xuất của con người. Giáo dục, đào tạo giúp chúng ta tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia công nghệ, những nhà quản lý giỏi... Trình độ học vấn, tri thức khoa học, kỹ thuật công nghệ và sự hiểu biết về xã hội, con người là phương tiện hữu hiệu giúp người lao đông khắc phục được những hạn chế, thiếu sót và các tập quán xấu, phát huy những truyền thống tốt đẹp trong sản xuất. Tri thức, hiểu biết có vai trò to lớn cải tạo người lao động. Nó giúp cho người lao động sáng tạo hơn, sản xuất hiệu quả và năng suất lao động ngày càng tăng . [3 , trang 128-129] Bên cạnh việc đào tạo giáo dục, các nhà quản lý phải thường xuyên chăm lo cho công nhân. Phải có những chế độ khen thưởng hợp lý. Luôn luôn tạo điều kiện cho công nhân làm việc. Khuyến khích ngưới lao động tăng khả năng sáng tạo của mình trong sản xuất, tạo những động lực thúc đẩy công nhân làm việc... Xây dựng môi trường đảm bảo các điều kiện phát huy yếu tố con người. Luôn luôn quan tâm đúng mức tới lợi ích và nhu cầu của người lao động. Thực hiện công bằng, dân chủ. Một điều không kém phần quan trọng là phải có chế độ chăm sóc y tế, sức khoẻ thường xuyên cho công nhân. Song song với việc trích lập quỹ bảo hiểm y tế thì các nhà quản lý nên tổ chức những đợt khám định kỳ hàng tháng cho công nhân, người lao động. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ . Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, cần tăng cường trình độ khoa học và công nghệ theo hai hướng: tăng cường trình độ công nghệ trong từng ngành sản xuất và chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang những ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao - cũng chính là những ngành có giá trị gia tăng lớn. Sự tiến bộ công nghệ của nền kinh tế đất nước được thực hiện bằng cách kết hợp đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ ở nước ngoài và tự phát triển, sáng tạo công nghệ tiên tiến trên nền tảng các công nghệ nhập khẩu. Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với một nước đang trong quá trình phát triển như Việt Nam thì nhập khẩu công nghệ tiên tiến ở nước ngoài là phương pháp vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết kiệm chi phí nếu lựa chọn hiệu quả được những công nghệ có mức độ tiên tiến thích hợp với giá thành hạ trong quá trình nhập khẩu. Điều này được gọi là lợi thế đi sau của các nước đang phát triển do không bắt buộc phải trải qua hành trình tiến bộ công nghệ như các nước phát triển. Vấn đề nhập công nghệ tiên tiến đòi hỏi chi phí đầu tư lớn trong khi khả năng nguồn vốn của nền kinh tế còn hạn hẹp. Vì vậy, quá trình nhập khẩu và nâng cao trình độ công nghệ chỉ có thể được đẩy mạnh bằng chiến lược phát triển thị trường vốn trong nước và khai thông, kết nối với thị trường vốn quốc tế, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đây cũng chính là bí quyết công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn của Hàn Quốc, Đài Loan trước kia và của Trung Quốc hiện nay. Đồng thời với quá trình trên, chúng ta phải nhanh chóng thúc đẩy việc tiếp thu và phát triển khả năng tự chế tạo, tiến tới sáng tạo công nghệ. Khả năng sáng tạo công nghệ là con đường duy nhất để Việt Nam cũng như các nước đang phát triển đuổi kịp và vượt trình độ của các nước công nghiệp phát triển, nhờ vậy mới có thể giảm bớt những khoản chi phí tốn kém cho việc nhập khẩu những công nghệ tiên tiến. Khả năng sáng tạo công nghệ dựa trên cơ sở óc sáng tạo và trình độ quản lý hoạt động nghiên cứu và trình độ nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ ứng dụng. Nó phụ thuộc vào tiềm năng trí tuệ của dân tộc và đòi hỏi một chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác nhân tố tác động đến năng suất lao động - Lý luận và thực tiễn.doc
Tài liệu liên quan