Không có ánh sáng –không có màu sắc. Nhưng điều này cũng có nghĩa
loại ánh sáng đó ảnh hưởng đến việc cảm nhận màu của chúng ta. Màu
sắc của ánh sáng đựơc xác định bởi thành phần quang phổ của nó.
Trong tự nhiên, ánh sáng mặt trời, tùy theo thời tiết cũng như mùa và
từng thời điểm torng ngày đều có ảnh hưởng đến thánh phần quang phổ
ánh sáng. Các nhà đạo diễn phim hoặc nhiếp ảnh gia thường phải đợi một
thời gian dài cho đến khi điều kiện chiếu sáng đạt đựơc như ý họ.
Hơn nữa, có sự khác biệt trong thành phần quang phổ của đèn chiếu sáng
nhân tạo. Một vài lọai đèn tạo ra ánh sáng hơi ngả sang đỏ trong khi loại
đèn khác toả ra ánh sáng hơi ngả sang lục hoặc xanh nhạt.
Sự phản xạ phổ và cảm nhận màu thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện chiếu
sáng. Do đó, việc xác định các giá trị kích thích 3 thành phần phải dựa
trên cơ sở ánh sáng chuẩn.
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3010 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các phép đo màu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các phép đo màu ( phần 1 )
1 Đo màu.
Các màu được đo bằng phương pháp kích thích 3 giá trị màu giống như
cảm nhận của mắt người hoặc đo phổ phản xạ.
Về nguyên tắc, cấu tạo của các thiết bị đo màu phải tuân theo phương
thức tương tự mắt người nhìn màu. (Xem hình).
Mực (mẫu đo) được chiếu sáng bởi một nguồn sáng phát xạ. Một phần
ánh sáng chiếu tới bị mẫu đo hấp thụ và phần còn lại phản xạ. Ánh sáng
phạn xạ được mắt người thu nhậ. Khi ánh sáng chiếu tới mắt, các tể bào
hình nón nhạy với các màu Red, Green, Blue bị kích thích và được các tế
bào thần kinh thị giác chuyển tín hiệu kích thích tới não bộ cho phép cảm
nhận màu.
Tíến trình cảm nhận màu tự nhiên này được mô phỏng lại trong các thiết
bị đo. Trong quá trình đo ánh sáng được chịếu tới mẫu đo. Ánh sáng phản
xạ đi qua một hệ thống ống kinh và tới bộ cảm biến, bộ cảm biến này
dùng để đo cường độ ánh sáng của mỗi màu và chuyển tín hiệu cảm nhận
được cho một máy tính. Tại đó, các tín hiệu này được đối chiếu với giá trị
cảm nhận tương ứng của 3 loại tế bào hình nón trong mắt người được xác
định theo chuẩn quan sát của CIE. Kết quả nhận được là các giá trị kích
thích X, Y và Z. Sau cùng, các giá trị này được chuyển đổi thành các độ
màu hay các toạ độ của các không gian màu khác (thí dụ như CIE LAB
hay CIE LUV).
2 Các giá trị kích thích 3 thành phần/ Điểm trắng tham chiếu
Trong đo màu, việc xác định các giá trị kích thích 3 thành phần từ các vật
phản xạ hoặc phát xạ đòi hỏi những điều kiện phải được chuẩn hoá trước.
Hầu hết các điều kiện được chuẩn hóa này được nhà sản xuất thiết bị đo
dự kiến cố ý để người sử dụng đừng quan tâm xa hơn nữa.
Tuy nhiên, trong phép đo màu của vật thể có 3 yếu tố thướng thay đổi và
phải được người sử dụng điểu chỉnh, đó là: điểm trắng tham chiếu, loại
ánh sáng và người (chủ thể) quan sát.
Thông thường, các gía trị đo màu liên quan tới độ trắng tuyệt đối. Vì thế,
việc cân chỉnh chính là cân chỉnh các đơn vị đo lần lượt theo một độ trắng
tuyệt đối tho lý thuyết. Ngược với phép đo mật độ, giấy chỉ được dùnng
như điểm trắng tham chiếu trong những trường hợp ngoại lệ.
3 Các điều kiện chiếu sáng chuẩn.
Không có ánh sáng – không có màu sắc. Nhưng điều này cũng có nghĩa
loại ánh sáng đó ảnh hưởng đến việc cảm nhận màu của chúng ta. Màu
sắc của ánh sáng đựơc xác định bởi thành phần quang phổ của nó.
Trong tự nhiên, ánh sáng mặt trời, tùy theo thời tiết cũng như mùa và
từng thời điểm torng ngày đều có ảnh hưởng đến thánh phần quang phổ
ánh sáng. Các nhà đạo diễn phim hoặc nhiếp ảnh gia thường phải đợi một
thời gian dài cho đến khi điều kiện chiếu sáng đạt đựơc như ý họ.
Hơn nữa, có sự khác biệt trong thành phần quang phổ của đèn chiếu sáng
nhân tạo. Một vài lọai đèn tạo ra ánh sáng hơi ngả sang đỏ trong khi loại
đèn khác toả ra ánh sáng hơi ngả sang lục hoặc xanh nhạt.
Sự phản xạ phổ và cảm nhận màu thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện chiếu
sáng. Do đó, việc xác định các giá trị kích thích 3 thành phần phải dựa
trên cơ sở ánh sáng chuẩn.
Theo tiêu chuẩn, sự phấn bố cường độ sáng cho các loại ánh sáng khác
nhau nằm trong khoảng giữa 380 và 780 nm (cách nhau từng khoảng 5
nm). Hình minh họa ở trên cho thấy sự phân bố cho các nguồn chiếu sáng
chuẩn A, C, D50 và D65.
Các nguồn chiếu sáng chuẩn C, D50 và D65 tương đồng như áng sáng
trung bình ban ngày với cường độ bức xạ cao nhất ở vùng màu tím. Hình
minh hoạ tiếp theo cho thấy thành phần của nguồn sáng D65. Một nguồn
chiếu sáng chuẩn A có cường độ đỉnh (cường độ cao nhất) nằm trong
vùng màu Red thì nó ngả đỏ (ánh sáng buổi chiều và đèn điện).
4 Người quan sát chuẩn. Các đường cong phối hợp màu.
Mỗi người có 3 đường cong phối hợp màu để ước lượng các màu Reb,
Green và Blue. Đối với những người nhìn màu bìnhthường thì các đường
cong này hầu như giống nhau. Vì thế, các màu chỉ được cảm nhận khác
nhau tại các vùng biên. Thí dụ, vẫn có những màu được người này cảm
nhận là xanh ngả lục, nhưng người khác lại cho là lục ngả xanh. Đó là lý
do tại sao, đối với việc đo màu, cần thiết phải định
nghĩa một cá nhân với cảm nhận về màu bình thường được xem như là:”
người quan sát chuẩn”. Một loạt các cuộc thử nghiệm toàn diện với một
số lượng lớn cho những người nhìn màu bình thường được tiến hành vào
năm 1931. Trên cơ sở thử nghiệm này, các đườong con phối hợp màu x, y
và z được xác định và trở thành các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế như
DIN 5033 và ISO/ DC 12 647.
Việc nghiên cứu được tiến hành cho người quan sát ở góc 20. Góc quan
sát trong bối cảnh các tiêu chuẩn của phép đo màu là góc nhìn vào một
vùng màu có đường kính 3,5 cm được quan sát ở khoảng cách 1m thì góc
nhìn màu chính xác là 20.
Năm 1964, cuộc thử nghiệm tươong tự đã được lặp lại nhưng với góc
quan sát 100, và cũng như trước, các kết quả được trở thành tiêu chuẩn bổ
sung. Người ta còn gọi góc quan sát 100 là “người quan sát chuẩn 1964”.
5 Đo màu bằng máy đo phổ.
Các giá trị màu tiêu chuẩn được tính từ đường con bức xạ của nguồn ánh
sáng )) và z(), y() cũng như là các đường cong phối hợp màu x
(S( của chuẩn quan sát.
để giữa 2 dấu ngoặc đơn cho thấy rằngDấu của ánh sáng (vd:việc
tính toán phụ thuộc vào bước sóng của ánh sáng trong bước sóng giữa
khoảng 400 – 700 nm, cách khoảng 5m). Trong bước đầu tiên của viẹc
tính toán, các giá trị của hàm bức xạ của nguồn chiếu ) của mẫu đo
cho() được nhân với giá trị phổ phản xạ sáng chuẩn S( mỗi bước
sóng. Kết quả là có đường cong mới - đường cong kích thích màu ).(
Ở bước thứ hai, các giá trị từ đường cong kích thích màu ) và),
y(được nhân với các giá trị từ đường cong phối hợp màu x ( ). Kết quả
cho 3 đường cong mới.z(
Cuối cùng, bằng phép tính tích phân và nhân với các thông số được chuẩn
hóa, các giá trị kích thích 3 thành phần X, Y, Z được tính từ các vùng
nằm trong đường cong bằng phép tích phân khiến nó có khả năng mô tả
màu đó một cách chính xác.