Các tác động của du lịch đến kinh tế - Xã hội Việt Nam

A – Khái niệm, bản chất và đặc trưng của du lịch 3

I – Khái niệm du lịch 3

II – Bản chất của du lịch 3

III – Đặc trưng của du lịch 4

B Các tác động của du lịch đến kinh tế - xã hội Việt Nam 4

I – Về mặt kinh tế 4

II – Về mặt xã hội 9

III – Một số tác động tiêu cực do du lịch gây ra 13

IV – Một số biện pháp khắc phục 18

V – Mục tiêu của ngành du lịch trong những năm tới 18

C – Kết luận 20

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 31766 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tác động của du lịch đến kinh tế - Xã hội Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nd đã mua 70% cổ phần của Sofitel Metropole, khách sạn lâu đời, sang trọng và đắt khách nhất Hà Nội hiện nay. Còn Quỹ VinaCapital cũng không chịu thua kém khi mua 52,5% cổ phần của khách sạn 5 sao Hilton Hà Nội vào tháng 7/2006, nâng tổng số cổ phần của Quỹ tại khách sạn này lên tới 70%. Vinaland Fund cũng đầu tư thêm 43 triệu USD vào lĩnh vực khách sạn và du lịch của Hà Nội, đầu tư 31 triệu USD vào sân golf và khu vực nghỉ mát rộng 260 hecta tại thành phố Đà Nẵng. Vào tháng 4/2006, công ty xây dựng LaiSun đã vượt qua British Virgin Islands trong cuộc đấu thầu mua 63% cổ phần tại khu nghỉ mát Furama – Đà Nẵng. Trong điều kiện lạc hậu nghèo nàn và thiếu vốn đầu tư, Việt Nam rất cần hiện đại hoá nền kinh tế. Bên cạnh các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các hình thức liên doanh, liên kết với các nước ngoài trong kinh doanh du lịch cũng đã đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hầu hết các khách sạn 5 sao ở Hà Nội đều là kết quả của hoạt động liên kết giữa Việt Nam với một số nước châu Á. Ví dụ như : Khách sạn Sofitel Metroôle là liên kết giữa Việt Nam và Singapo, Sheraton là của Việt Nam và Indonexia, Sofitel plaza là liên kết giữa Việt Nam và Malaysia, Melia Hà Nội là liên kết giữa Việt Nam và Thái Lan. d – Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới : Việt Nam đã ký 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước, có quan hệ bạn hàng với 800 hãng của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Nước ta đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN, trở thành thành viên chính thức của hiệp hội Du lịch Đông Nam á ( ASEANTA ); khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với liên bang Nga; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với Pháp; bước đầu xây dựng quan hệ hợp tác du lịch với Hoa Kỳ. e - Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đường lối giao thông quốc tế Một ngành kinh tế lớn, ngành du lịch, có liên quan trực tiếp tới văn hóa. Những di sản văn hóa trên lãnh thổ một quốc gia là một chủ bài lớn để thu hút du khách nước ngoài, và từ đó nảy nở những mối giao thương khác. Mặt khác, khi bạn bè hay đối tác nước ngoài tới tìm hiểu đất nước ta, tìm hiểu con người, xã hội và các cơ hội làm ăn với Việt Nam, dĩ nhiên điều tối thiểu là họ phải được tiếp đón với những chuẩn mực văn minh hiện đại. Nhưng như thế chưa đủ. Những ứng xử, những sản phẩm có tính văn hóa cao ngoài việc thu hút và giữ chân du khách, tranh thủ cảm tình của họ, còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam tới những nhà đầu tư tiềm năng dù đôi khi miếng bánh lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn... f - Du lịch như đầu mối “xuất nhập khẩu” ngoại tệ, phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế : Hoạt động du lịch được đẩy mạnh và rộng khắp đã đem lại một hiệu quả thiết thực về kinh tế. Chỉ tính riêng trong 9 tháng của năm 2000, Chương trình đã thực hiện xuất khẩu tại chỗ ước đạt trên 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD. 3. Đối với du lịch quốc tế thụ động : Khác với du lịch quốc tế chủ động, du lịch quốc tế thụ động là một hình thức nhập khẩu đối với đất nước có khách đi ra nước ngoài. Cái mà họ nhận được đó chính là các “lợi ích vô hình”. Đó là nâng cao hiểu biết, học hỏi kỹ thuật mới, củng cố sức khỏecủa người dân. Nhưng nếu đi với mục đích kinh doanh, du lịch quốc tế thụ động có tác động gián tiếp đến nền kinh tế bởi nó là hình thức đem tiền đi tiêu nhưng họ có thể thu về là bản hợp đồng đầu tư thu lợi nhuận . 4. Các tác động khác về mặt kinh tế của việc phát triển hoạt động kinh doanh du lịch nói chung : a – Khu vực du lịch đã mang lại cho Việt nam cơ hội to lớn trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dựa vào dịch vụ : Nhiều gia đình dân tộc nghèo khó trước kia chỉ sống bằng nông nghiệp nay đã được cải thiện đời sống nhờ du lịch. Cụ thể như, người dân tộc Hmông Sapa trước đây là một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của Hmông ở Sapa gồm 3 bộ phận cấu thành là trồng trọt (lúa, ngô, thảo quả), hái lượm và nghề thủ công, trong đó chủ yếu là trồng trọt. Hầu hết mức sống, nguồn thu nhập của người làm nhờ vào trồng trọt và chăn nuôi, còn nghề thủ công chỉ đóng vai trò phụ và luôn phụ thuộc vào trồng trọt nên cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ. Điều kiện trồng trọt lại khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều lao động. Sapa lại không có điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp. Nhưng du lịch phát triển, các làng Hmông có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hóa trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó, đời sống kinh tế của người Hmông được cải thiện. Họ chuyển sang sản xuất hàng thổ cẩm, đồ trang sức, dẫn khách du lịch...thay vì làm nông nghiệp như trước đây. Hiện nay, tỉ lệ gia đình người Hmông tham gia hoạt động du lịch chiếm hơn 90%. Hay như ở bản Lác, một bản của người dân tộc Thái ở Mai Châu – Hòa Bình. Từ một làng dân tộc bình thường, do nhận thấy tiềm năng và có định hướng phát triển đúng đắn nên giờ đây bản Lác và một số bản xung quanh đã trở thành làng du lịch. Đời sống dân bản được nâng cao,giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn người lao động tại đây. Khách du lịch đến đây được sống trong nhà sàn, ăn thịt thú rừng, học cách dệt vải của người Thái nét văn hóa truyền thống không chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà còn được giới thiệu cả trong và ngoài nước. b – Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch, tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng : Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn. Ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các du khách đến thăm quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu. c - Du lịch phát triển thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo : Trước hết, đây là hoạt động kinh doanh cần nhiều sự hỗ trợ liên ngành. Nhiều khu vực khác cũng được hưởng lợi thông qua hỗ trợ các sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch, như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Như vậy, có thể khái quát các vấn đề về chính sách du lịch bao trùm một chuỗi lớn các lĩnh vực và lợi ích. Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ tăng cao hơn mức tăng GDP và cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ năm 2006, đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Các ngành dịch vụ có giá trị cao như ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông, du lịch được khai thác và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. d - Đối với nền sản xuất xã hội, du lịch mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa : Như đã nói ở trên, du lịch giúp củng cố và phát triển quan hệ quốc tế, do đó đã mở rộng thị trường, tăng thêm bạn hàng đối với các ngành tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Việc loại hình du lịch công vụ ngày càng phát triển góp phần đem về cho đất nước các khoản đầu tư, hợp đồng liên kết kinh doanh, Thị trường trong nước tiếp tục được mở rộng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2006. e - Tận dụng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác : Hoạt động du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của một số ngành sản xuất, do đó phát triển du lịch sẽ mở mang và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó còn tận dụng nguồn lực, điều kiện vật chất kỹ thuật để bổ sung cho nhu cầu cần thiết nhưng chưa được đáp ứng của ngành. Ở những vùng phát triển du lịch, do nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi vui chơi, thông tin liên lạc, vận chuyển nên mạng lưới giao thông, cầu cống, điện nước được hoàn thiện phục vụ nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Ví dụ: để thuận tiện cho việc đi lại và mở thêm tuyến đường giao thông nối giữa các tỉnh, nhà nước đã đầu tư xây dựng cầu Yên Lệnh nối giữa Hưng Yên và Hà Nam. Ngoài việc đảm bảo an toàn, nó còn giúp cho sự giao lưu buôn bán dễ dàng hơn, đi lại thuận tiện giúp cho hoạt động du lịch hai tỉnh ngày càng tăng bên cạnh sự phát triển ngành giao thông vận tải. II - Về mặt xã hội: a - Du lịch góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân điạ phương: Du lịch với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn mà không cần phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hiện nay tỷ lệ hộ kinh tế làm dịch vụ trong nông thôn mới chỉ chiếm 11,2%. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một thực tế nữa là, ở nước ta trên 3/4 số các khu di tích văn hóa, lịch sử, khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng của đất nước đều nằm tại các vùng nông thôn, miền núi và vùng hải đảo. Song thu nhập hiện từ du lịch mới tập trung chủ yếu ở hai thành phố du lịch lớn của đất nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 62% tổng doanh thu), vì thế phát triển du lịch ở các vùng miền nông thôn không những sẽ đánh thức những tiềm năng trên để phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn làm tăng thêm thu nhập cho đông đảo người dân sống ở nông thôn. Du lịch là ngành tạo ra nhiều việc làm thứ hai, sau nông nghiệp, ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đến nay, ngành du lịch đã tạo việc làm cho khoảng 150.000 lao động trực tiếp trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, chưa kể đến 30 vạn lao động gián tiếp có thêm việc làm như sản xuất hàng lưu niệm, bán hàng, các dịch vụ bổ trợ...Năm 1998 đã có trên 130 nghìn lao động, tăng trung bình hàng năm khoảng 25% năm.Tuy nhiên, do phát triển nhanh, các doanh nghiệp du lịch, các khách sạn, nhà hàng đã thu hút lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu; mới có 7% đạt trình độ đại học, 50% được đào tạo qua các trướng dạy nghề, các khoá bồi dưỡng ngắn hạn, còn lại chưa qua đào tạo. Tỷ lệ lao động nữ trong ngành du lịch Việt Nam chiếm 58%. Toàn ngành có khoảng trên 27.000 lao động nữ là cán bộ quản lý. Năng lực làm việc cao, chất lượng và hiệu quả làm việc của lao động nữ đóng vai trò quyết định đến chất lượng dịch vụ du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế không chỉ mang lại việc làm cho nhiều phụ nữ mà còn mang lại nhiều cơ hội to lớn vì sự tiến bộ của phụ nữ. Ngành Du lịch Việt Nam có đặc thù là tỷ lệ lao động nữ chiếm đa số. Hiện tại, ngành Du lịch có trên 235.000 lao động làm việc trực tiếp, trong đó lao động nữ chiếm 58%, tương đương trên 136.300 người và số lượng lao động gián tiếp trên 600.000 người. Lao động nữ tập trung đông vào các nghề như: phục vụ khách sạn, nhà hàng, đại lý du lịch, thông tin, dịch vụ giải trí. Trong đó, tỷ lệ lao động nữ trong khối nhà hàng khách chiếm trên 71%; phục vụ buồng, chăm sóc sắc đẹp chiếm trên 95%. Tỷ lệ lao động nữ trong ngành Du lịch giữ cương vị lãnh đạo ngày một tăng cao. Đến nay, toàn Ngành có khoảng trên 27.000 lao động nữ là cán bộ quản lý. Lãnh đạo điều hành từ cấp phòng trở lên cho tới quản đốc, giám sát, giám đốc doanh nghiệp chiếm 11% trong tổng số lao động và chiếm 19% trong tổng số lao động nữ. Tỷ lệ lao động nữ là lãnh đạo trong các cơ quan quản lý Nhà nước về Du lịch cũng dần được nâng lên. Phần đông lao động nữ trong Ngành ở độ tuổi còn trẻ từ 25 – 35 tuổi. Đây được coi là một thế mạnh, tiềm năng lớn đối với sự phát triển của ngành Du lịch. Có thể khẳng định, đối tượng lao động nữ trong ngành Du lịch có trình độ chuyên môn, năng lực làm việc cao, chất lượng và hiệu quả làm việc của lao động nữ đóng vai trò quyết định đến chất lượng dịch vụ du lịch”1, một trong những biện pháp cạnh tranh thu hút nguồn khách du lịch lớn để phát triển du lịch b - Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa ở các nước có nền kinh tế phát triển: Hiện nay tốc độ đô thị hóa tại các nước phát triển là rất lớn. Do công nghiệp là thế mạnh, là ngành kinh tế đem lại hiệu quả cao nhất cho đất nước nên việc xây dựng các khu công nghiệp, cơ sở hạ tàng hiện đại cho phù hợp với sự phát triển đó là điều tất yếu. Bên cạnh những điểm tích cực, quá trình đô thị hóa đã đem lại nhiều hậu quả cho xã hội. Dân cư tập trung đông dúc tại các thành phố lớn gây ra sự quá tải còn ở các vùng quê, miến núi lại không đủ lực lượng lao động tham gia sản xuất. Chính vì thế mà gây ra sự mất cân đối giữa các vùng kinh tế. Nhưng khi du lịch đã được sự quan tâm phát triển của địa phương thì sự tập trung dân cư không đồng đều được giảm hẳn. Do tài nguyên du lịch thường tập trung ở những vùng đồng quê hay miền núi, vì vậy để khai thác nguồn và phát triển hiệu quả cần đầu tư về mọi mặt: giao thông, thông tin liên lạc, văn hóa, xã hội Du lịch phát triển làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội các vùng miền. c - Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả Không chỉ quảng cáo hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua các du khách mà du lịch còn là phương thức hiệu quả nhất, mang hình ảnh đất nước, con người, truyền thống, văn hóa Việt Nam giới triệu với bạn bè năm châu. Đến Với Việt Nam, du khách được làm quen với các mặt hàng công nghiệp, thủ công nghiệp nổi tiếng như gốm sứ, dệt thổ cẩm, dệt lụa Như vậy, du lịch đã góp phần đánh thức và bảo tồn các ngành nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền d - Du lịch làm tăng tầm hiểu biết chung về văn hóa – xã hội Du lịch nội địa và quốc tế đến nay là một trong những phương tiện hàng đầu để trao đổi văn hoá, tạo cơ hội cho mỗi con người được trải nghiệm. Du lịch ngày càng được thừa nhận rộng rãi là một động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản thiên nhiên văn hoá. Du lịch có thể nắm bắt các đặc trưng về kinh tế của di sản và sử dụng chúng vào việc bảo vệ bằng cách gây quỹ, giáo dục cộng đồng và tác động đến chính sách. Đây là một bộ phận chủ yếu của nhiều nền kinh tế quốc gia và khu vực và có thể là một nhân tố quan trọng trong phát triển, khi được quản lý hữu hiệu. Thương mại hoá các di sản văn hoá. Du lịch là sự tìm kiếm của khánh du lịch đối với cái đẹp của các giá trị vật chất và tinh thần. Hoạt động du lịch phải thật sự đạt tới mục tiêu bền vững. Tác dụng tích cực của du lịch đối với môi trường thường gắn với công tác bảo tồn. Việc Chính phủ thành lập các khu bảo tồn và bảo vệ động vật hoang dã, các khu du lịch lịch sử văn hoá đã tạo nên những địa bàn quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển như nước ta. Ở môi trường nông thôn ven biển, du lịch nông thôn có thể phát triển các trang trại, làng du lịch sinh thái mang lại nhiều thu nhập hỗ trợ cho dân sẽ ngăn chặn được tình trạng hoang hoá đất đai. Những du khách nhận thức được đa dạng sinh học và các giá trị của tự nhiên và văn hoá cũng có thể thúc đẩy được nhận thức môi trường cho cộng đồng dân cư địa phương. Trong năm nay, ngành Du lịch đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại các tỉnh như: Điện Biên, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Trà Vinh về các chủ đề “Du lịch với xoá đói, giảm nghèo” và “Phát triển du lịch cộng đồng” đã thu hút đông đảo các tầng lớp tham gia. Các cuộc hội thảo này có mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển du lịch, một trong những biện pháp quan trọng để xoá đói, giảm nghèo và mang lại những cơ hội phát triển cho phụ nữ thông qua việc trực tiếp cũng như gián tiếp phục vụ khách du lịch. Du lịch cũng tác động trở lại văn hóa thông qua việc xây dựng và cải tạo môi trường văn hóa, xã hội, làm cho môi trường này khởi sắc, tươi mới, làm cho các hoạt động văn hóa năng động và linh hoạt hơn trong cơ chế thị trường. Hoạt động du lịch góp phần khơi dậy các tiềm năng văn hóa giàu có và phong phú đang còn ẩn chứa khắp nơi trên đất nước ta, "đánh thức nàng tiên ngủ trong rừng" để cả xã hội chiêm ngưỡng, thưởng thức cái đẹp, không để cái đẹp ấy bị che phủ, mai một và lãng quên. Nhờ có du lịch, hằng năm trung bình từ hai đến ba triệu du khách quốc tế đến nước ta tham quan, họ được hiểu sâu hơn về đất nước, con người Việt Nam, được tận mắt chứng kiến sự thay da, đổi thịt tươi mới và tốt đẹp đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong khi nguồn vốn của chương trình mục tiêu văn hóa dành cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử rất hạn hẹp, thì ngành Du lịch đã hỗ trợ kinh phí đầu tư, tu bổ, nâng cấp một số di tích trọng điểm tại các địa phương, góp phần làm cho những di tích ấy trường tồn với thời gian và trở thành "điểm sáng" văn hóa tại địa phương, được nhân dân mến mộ, cảm kích. Ngoài ra, bằng các hoạt động của mình, du lịch đã góp phần hỗ trợ và mở ra biên độ rộng lớn cho hoạt động giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa quốc tế; trong năm 2006, chúng ta đã cử 389 đoàn với 1.501 người ra nước ngoài và đón 168 đoàn nước ngoài với 1.514 người vào nước ta làm việc theo các văn bản hợp tác. Trong kinh tế thị trường, do điều kiện khách quan, hoạt động du lịch thích ứng nhanh hơn và trong chừng mực nhất định, chính hoạt động du lịch đã đi trước một bước, đảm nhiệm vai trò "kích cầu" các hoạt động văn hóa đi nhanh và mạnh hơn. Kinh doanh văn hóa du lịch đã đem lại nguồn thu không nhỏ. Mấy năm trước, tại lễ hội 110 năm Sa Pa đã thu hút năm vạn người tham dự và tổng doanh thu của lễ hội này đạt hơn năm tỷ đồng. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, văn hóa ngày càng mở rộng, cả hoạt động văn hóa và du lịch đều có tác dụng lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp CNH, HÐH đất nước. Văn hóa thể hiện vai trò là "mục tiêu và động lực" ở chỗ tập trung xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ở chỗ chăm lo vun đắp, bồi dưỡng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm hồn, tình cảm, đồng thời tạo lập môi trường văn hóa, xã hội vui tươi, lành mạnh, phục vụ đắc lực công việc sản xuất, lao động, học tập của nhân dân. Tất nhiên, với ưu thế là các loại hình nghệ thuật phong phú, đa dạng, các hoạt động văn hóa đã và đang góp phần không nhỏ đấu tranh với tệ nạn xã hội, với lối sống và tập quán lạc hậu, phê phán bài trừ các khuynh hướng tư tưởng và quan điểm sai trái. Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Cốsta Rica và Vênêxuêla, một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Ecuađo sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galápagó để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba lan cũng tích cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đã thiết lập một số vùng Thiên nhiên-và-Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. III. Một số tác động tiêu cực do du lịch gây ra: Bên cạnh các lợi ích to lớn của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta thì du lịch vẫn còn tồn tại những điểm tiêu cực như: - Phát triển du lịch quốc tế thụ động quá tải dẫn đến việc làm mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, gây áp lực cho lạm phát. - Ngành du lịch là ngành dịch vụ nên việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc đảm bảo doanh thu và phát triển ổn định của ngành du lịch là khó khăn hơn so với các ngành sản xuất khác. - Tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong một số ngành - Ngành du lịch mang tính thời vụ. Do đó, ảnh hưởng rất lớn tới việc sử dụng lao động. Đây cũng là bài toán khó cho các nhà quản lý - Du lịch làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến tài nguyên của đất nước do khai thác quá mức hoặc không hợp lý Sự phát triển “nóng” về du lịch trên toàn bộ dải ven biển và hải đảo cũng đang đứng trước những thách thức không bền vững nếu không được kiểm soát với mục tiêu bền vững. Sức chứa của nhiều địa bàn du lịch đã quá tải. Ô nhiễm nước và không khí do nước thải, tràn dầu, do chất thải, khí thải của phương tiện vận tải như tàu thuyền, ôtô, xe máy, nuôi trồng thuỷ sản. Từ đó đã ảnh hưởng tới tính đa dạng sinh học. Phá huỷ nơi cư trú (trên mặt đất hoặc biển) do giải phóng mặt bằng hoặc quy hoạch xây dựng hạ tầng, cơ sở dịch vụ du lịch. Xáo trộn cuộc sống hoang dã huỷ hoại thực vật do đi lại và phương tiện. Săn bắt động vật, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, phá huỷ nơi sinh sản do dùng các phương tiện đánh bắt mang tính huỷ diệt. Di sản thiên nhiên và văn hoá cũng như tính đa dạng của các nền văn hoá đang tồn tại là những hấp lực to lớn, một kiểu du lịch cực doan hoặc quản lý tồi và sự phát triển tuỳ thuộc vào du lịch có thể đe doạ tính toàn vẹn của hình thể tự nhiên và ý nghĩa của di sản. Sự viếng thăm thường hằng của khách du lịch cũng có thể làm cho hệ sinh thái, văn hoá và lối sống cộng đồng chủ nhà bị xuống cấp. Du lịch phải đem lại lợi lộc cho các cộng đồng chủ nhà và tạo cho họ một phương thức quan trọng và một động lực để chăm nom và duy trì di sản và các tập tục văn hoá của họ. Sự tham gia và hợp tác giữa các cộng đồng địa phương hoặc bản địa đại diện, các nhà bảo tồn, các điều hành viên du lịch, chủ sở hữu tài sản, các nhà hoạch định chính sách, các nhà làm kế hoạch phát triển quốc gia và các nhà quản lý di tích là cần thiết để thực hiện được một ngành kinh doanh du lịch bền vững và nâng cao việc bảo vệ các nguồn lực của di sản cho các thế hệ tương lai. Một mặt, du lịch mang lại nguồn ngoại tệ và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, trong đó có những công việc không đòi hỏi trình độ học vấn hay trình độ chuyên môn cao và đa phần ở các vùng sâu vùng xa nơi người lao động địa phương vốn rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, du lịch phát triển nhanh nhưng quản lý yếu kém sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. ở Siem Reap, Campuchia, nơi có khu đền Angkor Wat nổi tiếng thế giới, những tác động tiêu cực của một ngành du lịch phát triển quá nhanh nhưng được quản lý kém đã bộc lộ rõ. Các khách sạn mọc lên như nấm. Năm 2002, tổng công suất phòng chỉ có 2.500, nay đã tăng lên tới 5.000 phòng. Cuối năm nay, thành phố này có tới 8.000 phòng. Nguồn điện không đủ để cung cấp cho nhu cầu của cư dân địa phương. Hệ thống xử lý rác thải yếu kém. Dòng sông bị ô nhiễm bởi nguồn nước thải chưa xử lý. Thêm vào đó là mối lo ngại rằng việc tiêu thụ một lượng nước lớn có thể làm cạn kiệt các mạch nước ngầm dẫn đến sụt lở đất và kéo theo việc sụp đổ của các ngôi đền Angkor Wat. Đây là những vấn đề nghiêm trọng. - Du lịch gây ra một số tệ nạn xã hội do kinh doanh các loại hình không lành mạnh Bên cạnh những tác động tích cực làm tăng tầm hiểu biết và ý thức con người đối với nền văn hóa, một số nhân tố tiêu cực đã làm xấu đi bộ mặt của ngành nghề, gây ra những ấn tượng không tốt. Đó là việc tranh dành, lôi kéo khách hay những hoạt động buôn bán tại các lễ hội, các hình thức vui chơi có thưởng với mục đích lừa đảo hay kinh doanh cá loại hình không lành mạnh trong nhà hàng khách sạn. - Du lịch phát triển đã làm thay đổi một số nét truyền thống của một dân tộc VD: ảnh hưởng đến một số thiết chế xã hội của người Hmông ở Sapa + Gia đình của người Hmông ở Sa Pa có sự tác động mạnh mẽ của du lịch và kinh tế thị trường. Sự tác động này làm biến đổi cả về loại hình gia đình cũng như chức năng, sự phân công lao động vai trò giới trong gia đình. Gia đình người Hmông Sa Pa trước đây là một đơn vị kinh tế thuần nông. Cơ cấu kinh tế truyền thống của người Hmông ở Sa Pa gồm 3 bộ phận cấu thành là trồng trọt và hái lượm, nghề thủ công. Hiện nay do du lịch phát triển, các làng Hmông ở gần thị trấn có cảnh quan đẹp, giữ được bản sắc văn hoá trở thành những điểm du lịch hấp dẫn. Do đó du lịch đã tác động làm biến đổi đời sống kinh tế của các gia đình người Hmông. Tổng thu nhập bình quân mỗi hộ gia đình người Hmông Sa Pa làm nông nghiệp 1 năm từ 8 đến 10 triệu đồng/năm nhưng riêng về du lịch, mức thấp nhất cũng đạt 10 - 16 triệu VNĐ/năm. Số gia đình làm du lịch có mức thu nhập gấp từ 2 lần đến 2,5 lần gia đình thuần nông. Vì vậy cá gia đình đều chuyển sang làm du lịch. + Gia đình người Hmông ở Sa Pa đầu thập kỷ 70 thế kỷ 20 có loại hình gia đình phụ hệ, 3 thế hệ trở lên chiếm tỷ lệ khá cao. Thậm chí ở Sa Pa còn tồn tại một số gia đình lớn, có từ 30 đến 40 người. Hiện nay, gia đình người Hmông ở Sa Pa lại chủ yếu là l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5992.doc
Tài liệu liên quan