Tỷ lệ thai lưu ở tuổi thai ≥ 34 tuần, thời điểm phổi thai nhi trưởng thành,
chiếm tỷ lệ đáng kể (32%). Hiện nay, ngành Dưỡng Nhi Việt Nam đã có thể
nuôi được các trẻ sơ sinh non tháng từ tuổi thai 28 tuần. Nhưng các di chứng
lâu dài như xơ hóa võng mạc, chậm phát triển tâm thần vận động của các trẻ
sơ sinh 28 –< 34 tuần còn cao. Các di chứng này ở trẻ sơ sinh non tháng ≥
34 tuần giảm đáng kể và theo ACOG (1995), tỷ lệ sống sót với tối thiểu các
di chứng ở tuổi thai 34 tuần chỉ kém hơn 1% so với tuổi thai 37 tuần (20). Vì
vậy theo chúng tôi, đối vớicác thai kỳ phát hiện bất thường trong quá trình
khám thai (IUGR, thiểu ối ), nên chăng chấm dứt thai kỳ ở tuổi thai 34
tuần để dự phòng thai lưu
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân 20 – 40 tuần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THAI LƯU KHÔNG RÕ NGUYÊN
NHÂN 20 – 40 TUẦN
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ
nguyên nhân tại bệnh viện Hùng Vương trong thời gian từ tháng 11/2006
đến tháng 12/2007.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh chứng. Dân số nghiên cứu: các
thai phụ nhập viện vì thai lưu không rõ nguyên nhân (nhóm bệnh) và các
thai phụ có thai sống (nhóm chứng) tại phòng khám thai bệnh viện Hùng
Vương. Mỗi trường hợp chứng được bắt cặp với một trường hợp bệnh theo
tuổi thai. Các đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi sọan
sẵn và từ 3 nữ hộ sinh không biết giả thuyết nghiên cứu. Các thông tin
phỏng vấn bao gồm các đặc điểm xã hội, tiền sử sản phụ khoa và các đặc
điểm của thai kỳ hiện tại. Dùng phân tích hồi quy đa biến để xác định các
yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân.
Kết quả: 324 thai phụ gồm 162 trường hợp thai lưu và 162 trường hợp thai
sống được chọn vào nghiên cứu. Các yếu tố được nhận thấy có liên quan đến
thai lưu không rõ nguyên nhân: tuổi mẹ từ 35 trở lên (OR = 2.5, 95%CI =
1.36 – 4.72), khám thai mức độ trung gian (OR = 2.4, 95%CI = 1.47 – 4.04),
khám thai không thường xuyên (OR = 4.5, 95%CI = 1.36 – 14.79) và sanh ≥
1 lần (OR = 0.36, 95%CI = 0.22 – 0.59).
Kết luận: Các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân là các yếu
tố có thể phát hiện được trong quá trình khám thai định kỳ. Việc khám thai
định kỳ là yếu tố quan trọng trong việc phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ và
dự phòng thai lưu không rõ nguyên nhân.
ABSTRACT
RISK FACTORS FOR SUDDEN INTRAUTERINE UNEXPLAINED
STILLBIRTH AT HUNG VUONG HOSPITAL IN YEAR 2006 – 2007
Nguyen Vu Đong Hang, Nguyen Duy Tai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 159 –
164
Objective: to identify risk factors for sudden intrauterine unexplained
stillbirth at Hung Vuong hospital during 11/2006 – 12/2007.
Methods: A case – control study was carried out. Population: women had
unexplained stillbirth (case) and women had live birth (control) at outpatient
clinic, Hung Vuong hospital. A case was matched with a control by fetal
age. A questionnaire designed to collect information on socio – demographic
characteristics, obstetric and gynecologic history, antenatal care and
characteristics of the current pregnancy. Three midwifes unknown the
research theories were trained to interview the women in research
population. Multivariate logistic regression was used to assess risk factors
for unexplained stillbirth.
Result: A total of 324 women participated (162 with stillborn babies and 162
with live born babies). Variables were found to be related to unexplained
stillbirth include: mother age ≥ 35 (OR = 2.5, 95%CI = 1.36 – 4.72),
inadequate antenatal care (OR = 2.4, 95%CI = 1.47 – 4.04), intermediate
care (OR = 4.5, 95%CI = 1.36 – 14.79) and multiparity (≥ 1 baby) (OR =
0.36, 95%CI = 0.22 – 0.59).
Conclusions: Risk factors for unexplained stillbirth are the factors identified
during prenatal care. So, prenatal care is important in detecting early the risk
factors and preventing unexplained stillbirth.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai lưu là một bệnh lý phức tạp, chiếm trên 50% tử vong chu sinh ở các
nước phát triển. Tỷ lệ thai lưu là 5,3/1000 ở các nước phát triển, trong khi ở
các nước đang phát triển tỷ lệ này cao gấp 4 lần. Trong các châu lục, Châu Á
có tỷ lệ thai lưu cao thứ hai (25 – 40/1000), sau Châu Phi(15).
Thực tế, nguyên nhân thai lưu vẫn còn khá phức tạp và khoảng 30% thai lưu
không rõ nguyên nhân. Trong 5 thập kỷ qua, trong khi tỷ lệ thai lưu nói
chung giảm dần, tỷ lệ thai lưu không rõ nguyên nhân vẫn tương đối ổn định,
dao động từ 20% đến 30,2%(8). Vì thế, việc xác định các yếu tố liên quan
đến thai lưu không rõ nguyên nhân có thể góp phần giảm tỷ lệ thai lưu.
Trên thế giới, đa số các tác giả nhận thấy các yếu tố liên quan đến thai lưu
bao gồm tuổi mẹ cao, sanh nhiều con, hút thuốc lá, điều kiện kinh tế xã hội
thấp, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, không khám thai định
kỳ(9,10,14).
Ở Việt Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh, theo báo cáo của hai bệnh viện phụ
sản là bệnh viện Từ Dũ và bệnh viện Hùng Vương, tỷ lệ thai lưu trên 1000
trường hợp sanh sống trong năm 2005 tại hai bệnh viện này lần lượt là
9,1/1000 và 8,1/1000(1,2). Tác giả Đỗ Đình Thống(7) nhận thấy thai lưu
chiếm tỷ lệ cao ở lứa tuổi mẹ 20 – 30 (59,9%) và các phụ nữ chưa sanh lần
nào (39,7%). Tác giả Swee May Cripe và Từ Thị Thanh Phụng (19) đã ghi
nhận một số yếu tố liên quan đến thai lưu sau 20 tuần: học vấn dưới lớp 12
tăng nguy cơ thai lưu gấp 3 lần so với học vấn trên lớp 12, sống tại nông
thôn tăng nguy cơ thai lưu gấp 2,4 lần so với sống tại thành thị, thai phụ
chưa sanh lần nào có nguy cơ thai lưu gấp 3,8 lần so với thai phụ đã từng
sanh con, không khám thai làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 4,2 lần. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu bệnh chứng này tại bệnh viện Hùng Vương nhằm khảo
sát các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân 20 – 40 tuần, từ
đó giúp xác định các thai kỳ nguy cơ cao bị thai lưu để có chiến lược theo
dõi phù hợp và tư vấn đúng mức cho các thai phụ.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh một số đặc điểm giữa nhóm thai lưu và nhóm thai sống.
Xác định mối liên quan giữa các yếu tố: tuổi mẹ ≥ 35, sự tuân thủ chương
trình khám thai định kỳ, số lần sanh và thai lưu không rõ nguyên nhân 20 –
40 tuần.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nhóm bệnh
Đơn thai lưu 20 – 40 tuần nhập viện tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng
11/2006 đến tháng 12/2007. Chúng tôi chọn các trường hợp thai lưu chưa
xác định nguyên nhân về phía mẹ, thai và nhau trên lâm sàng (không kèm
theo các tình trạng như: cao huyết áp mãn, tiền sản giật, thiếu máu nặng, đái
tháo đường, đa thai, thai dị tật nghiêm trọng, nhau bong non…).
Nhóm chứng
Các trường hợp đơn thai sống, được chọn tại phòng khám thai theo phương
pháp mẫu kế tiếp. Mỗi trường hợp chứng được bắt cặp với một trường hợp
bệnh theo tuổi thai.
Tiêu chuẩn loại trừ khỏi mẫu
Thai dị tật bẩm sinh nặng phát hiện qua siêu âm hoặc sau sanh
Các trường hợp thai lưu do nhau bong non, chẩn đoán sau sanh
Các thai phụ có các tình trạng bệnh lý nội khoa có thể là nguyên nhân của
thai lưu
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 11/2006 đến tháng 12/2007.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng
Cách tiến hành
Các trường hợp bệnh (thai lưu) được thu nhận tại khoa Sản 4 và khoa Nội
Tiết. Cùng ngày nhập viện của mỗi trường hợp bệnh, một trường hợp chứng
(thai sống) có số hồ sơ khám thai kế tiếp với số hồ sơ nhập viện của trường
hợp bệnh tương úng được thu nhận tại phòng khám thai. Các thai phụ trong
hai nhóm nghiên cứu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi sọan sẵn. Để tránh
sai lệch thông tin, 3 nữ hộ sinh không biết giả thuyết nghiên cứu được huấn
luyện để phỏng vấn theo bảng câu hỏi.
Xử lý số liệu
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm EPIDATA, phân tích số liệu bằng
phần mềm STATA 6.0. Các kết quả được phân tích bằng các phép kiểm Chi
bình phương, T – test, phân tích hồi qui đơn biến và hồi qui đa biến tìm các
yếu tố liên quan đến thai lưu sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu.
KẾT QUẢ
324 trường hợp nghiên cứu gồm 2 nhóm thai lưu và thai sống thỏa tiêu
chuẩn chọn mẫu được chọn vào nghiên cứu. Chúng tôi thu thập các thông tin
về tiền sử sản phụ khoa, các đặc điểm về xã hội, thai kỳ (lâm sàng và cận
lâm sàng).
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Các đặc điểm riêng của nhóm thai lưu
Tuổi thai trung bình là 30.3 tuần (SD = 5.6), các trường hợp thai lưu ≥ 34
tuần chiếm 32%, ≥ 37 tuần chiếm tỷ lệ 16%. Tỷ lệ thai chậm tăng trưởng
chiếm 51.2%, trong đó tuổi thai ≥ 34 tuần chiếm tỷ lệ 31.3%.
Bảng 1. Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu:
Biến số
Thai lưu (%)
Thai sống (%)
P
Tuổi mẹ
< 35
123 (75,9)
145 (87)
0,01
≥ 35
39 (24,1)
17 (13)
Nghề nghiệp
Công nhân viên
50 (30,9)
67 (41,3)
0,204
Nội trợ
71 (43,8)
57 (35,2)
Nghề khác
41 (25,3)
38 (23,5)
Tiền sử thai lưu
Không
155 (95,7)
159 (98,2)
0,158
Có
7 (4,3)
3 (1,8)
Tiền sử mổ lấy thai
Có
16 (9,9)
13 (8,1)
0,561
Không
146 (90,1)
149 (91,9)
Khám thai
Thường xuyên
85 (52,5)
115 (71)
0,003
0,019
Trung gian
65 (40,1)
43 (26,5)
Không thường xuyên
12 (7,4)
4 (2,5)
Số lần sanh
Chưa sanh
99 (61,1)
70 (43,2)
0,001
Sanh 1 lần
52 (32,1)
79 (48,8)
≥ 2 lần
11 (6,8)
13 (8)
Xác định các yếu tố liên quan đến thai lưu
Bảng 2: Phân tích đơn biến các yếu tố liên quan đến thai lưu
Biến số
% nhóm bệnh
% nhóm chứng
OR
95%CI
Giá trị P
Tuổi mẹ
< 35 tuổi
75,9
87,0
1
≥ 35 tuổi
24,1
13,0
2,13
1,15-4,02
0,01
Tiền sử thai lưu
Không
95,7
98,2
1
Có
4,3
1,8
3,81
0,53-14,56
0,158
Khám thai
Thường xuyên
52,5
71
1
Trung gian
40,1
26,5
2,04
1,27-3,29
0,003
Không thường xuyên
7,4
2,5
4,05
1,26-13,02
0,019
Số lần sanh
Chưa sanh
61,1
43,2
1
Sanh ≥1 lần
38,9
56,8
0,48
0,30-0,77
0,001
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thai lưu sau khi đã hiệu chỉnh các yếu tố
gây nhiễu
Các biến số
OR hiệu chỉnh
95%CI
Giá trị P
Tuổi mẹ ≥ 35
2,5
1,36 – 4,72
0,003
Khám thai mức trung gian
2,4
1,47 – 4,04
0,001
Khám thai không thường xuyên
4,5
1,36 – 14,79
0,014
Sanh ≥1 lần
0,36
0,22 – 0,59
<0,001
BÀN LUẬN
Tỷ lệ thai lưu ở tuổi thai ≥ 34 tuần, thời điểm phổi thai nhi trưởng thành,
chiếm tỷ lệ đáng kể (32%). Hiện nay, ngành Dưỡng Nhi Việt Nam đã có thể
nuôi được các trẻ sơ sinh non tháng từ tuổi thai 28 tuần. Nhưng các di chứng
lâu dài như xơ hóa võng mạc, chậm phát triển tâm thần vận động của các trẻ
sơ sinh 28 – < 34 tuần còn cao. Các di chứng này ở trẻ sơ sinh non tháng ≥
34 tuần giảm đáng kể và theo ACOG (1995), tỷ lệ sống sót với tối thiểu các
di chứng ở tuổi thai 34 tuần chỉ kém hơn 1% so với tuổi thai 37 tuần (20). Vì
vậy theo chúng tôi, đối với các thai kỳ phát hiện bất thường trong quá trình
khám thai (IUGR, thiểu ối…), nên chăng chấm dứt thai kỳ ở tuổi thai 34
tuần để dự phòng thai lưu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thai lưu ở tuổi thai đủ tháng (≥ 37 tuần)
chiếm tỷ lệ không nhỏ (16%). Tác giả Cotzias(4) đã ghi nhận nguy cơ thai
lưu không rõ nguyên nhân tăng dần từ 1/606 ở tuổi thai 37 tuần đến 1/474 ở
tuổi thai 40 tuần. Tác giả Yudkin(21) cũng nhận thấy các thai lưu không rõ
nguyên nhân chủ yếu xảy ra vào nửa sau của tam cá nguyệt 3, trong đó hơn
phân nửa xảy ra sau 38 tuần. Do đó các tác giả này khuyến cáo ở những thai
kỳ có nguy cơ cao bị thai lưu, đặc biệt ở những thai phụ có tiền sử thai lưu
không rõ nguyên nhân, nên xem xét chấm dứt thai kỳ ở quanh tuần lễ 38 và
việc này có thể giúp làm giảm tỷ lệ thai lưu.
Mối liên quan giữa tuổi mẹ và thai lưu
Bảng 4: So sánh tuổi mẹ ≥ 35 với nguy cơ thai lưu giữa các tác giả
Tác giả
Thiết kế nghiên cứu
OR
P
Miller(12)
Cohort hồi cứu
2
< 0,05
Svein Rasmussen(17)
Bệnh chứng
2,4
< 0,05
Uma(19)
Cohort hồi cứu
2,2
< 0,05
Tác giả
Bệnh chứng
2,5
0,003
Svein Rasmussen(16) nhận thấy các thai phụ từ 35 tuổi trở lên có nguy cơ
thai lưu tăng gấp 2,4 lần các thai phụ dưới 35 tuổi (P < 0,05). Nguy cơ này
tăng gấp đôi nếu thai phụ từ 45 tuổi trở lên. Ngoài ra, Svein Rasmussen còn
nhận thấy nguy cơ thai lưu không rõ nguyên nhân ở thai phụ ≥ 35 tuổi tăng
dần theo tuổi thai. Đối với tuổi thai < 39 tuần, nguy cơ này là 2,5/10.000,
nhưng từ tuổi thai 39 tuần trở đi, nguy cơ này là 50/10.000. Tác giả Uma(18)
cũng nhận thấy ở phụ nữ trên 35 tuổi, nguy cơ thai lưu bắt đầu tăng đáng kể
từ 39 tuần và cao nhất ở tuổi thai 41 tuần. So với nhóm tuổi < 35, các thai
phụ trong nhóm tuổi 35 – 39 tăng nguy cơ thai lưu ở các tuần tuổi thai 20 –
27 và 34 – 41. Nguy cơ này ở các thai phụ trên 40 tuổi tăng suốt thai kỳ (từ
20 – 41 tuần). Nghiên cứu của chúng tôi, với cỡ mẫu và thời gian nghiên cứu
hạn chế nên không thể khảo sát mối liên quan của thai lưu với tuổi mẹ theo
từng nhóm tuổi thai.
Đa số các tác giả, sau khi loại trừ các tình trạng bệnh lý nội khoa kèm theo
và các dị tật bẩm sinh, ghi nhận tuổi mẹ cao (≥ 35) vẫn là yếu tố nguy cơ độc
lập của thai lưu(17,18). Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng nghiên
cứu là các thai phụ không có các bệnh lý nội khoa kèm theo (xác định trên
lâm sàng và xét nghiệm). Do đó, mối liên quan này cũng phù hợp với các tác
giả trên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong nhóm thai lưu, tỷ lệ thai chậm tăng
trưởng ở nhóm tuổi < 35 cao gấp 3 lần nhóm tuổi ≥ 35 (74,7% và 25,3%) và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P = 0,03). Tác giả Miller (2005)(13)
cũng đã chứng minh tuổi mẹ cao làm tăng nguy cơ thai lưu không rõ nguyên
nhân đối với các thai phát triển bình thường chứ không làm tăng nguy cơ
này ở các thai chậm tăng trưởng. Do đó, kết quả nghiên cứu tác giả Miller
cũng như của chúng tôi cho rằng thai chậm tăng trưởng không phải là cơ chế
nguyên phát làm tăng nguy cơ thai lưu ở các thai phụ trên 35 tuổi.
Mối liên quan giữa sự tuân thủ khám thai và thai lưu
Bảng 5: So sánh mối liên quan giữa sự tuân thủ khám thai và nguy cơ thai
lưu giữa các tác giả
Tác giả
Thiết kế nghiên cứu
OR (khám thai mức độ trung gian)
OR (khám thai không thường xuyên)
Gelen(6)
Bệnh chứng
2
Diana(10)
Cohort hồi cứu
2,2
Swee(18)
Bệnh chứng
4,2
Tác giả
Bệnh chứng
2,4
4,5
Tác giả Swee(19), trong một nghiên cứu bệnh chứng tại bệnh viện Thái
Nguyên năm 2004 – 2005 đã cho kết quả phù hợp với chúng tôi: khám thai
không thường xuyên làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 4 lần. Có lẽ tác giả Swee
và chúng tôi cùng nghiên cứu trên một dân số là các thai phụ Việt Nam nên
có kết quả tương tự nhau trong khi các tác giả khác nghiên cứu trên các thai
phụ ở Châu Mỹ La Tinh. Tác giả Wulf(22) đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu
tại Bavaria (Đức) năm 1994 về mối liên quan giữa thời điểm khám thai đầu
tiên và mức độ khám thai thường xuyên với thai lưu. Tác giả đã nhận thấy
bắt đầu khám thai sau 21 tuần sẽ làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 1,7 lần (RR
= 1,7; P < 0,025) so với khám thai đầu tiên lúc thai 9 – 12 tuần và nếu khám
thai < 4 lần, nguy cơ này sẽ tăng gấp 7,65 lần so với khám thai trên 10 lần
(RR = 7,65; P < 0,0001).
Các tác giả Michael và Wulf(12,22) đã kết luận các yếu tố ảnh hưởng đến
việc tuân thủ khám thai bao gồm: tuổi mẹ 39, sanh từ 3 lần trở
lên và hút thuốc lá. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ khám thai mức độ
trung gian ở nhóm đã sanh 1 lần và ≥ 2 lần cao hơn nhóm chưa sanh lần nào
(38% và 36% so với 28%) và tỷ lệ khám thai không thường xuyên ở nhóm
đã sanh ≥ 2 lần cao hơn rõ rệt hai nhóm sanh 1 lần và chưa sanh lần nào
(14% so với 3% và 5%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P = 0,011).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi nhận thấy sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê của mức độ tuân thủ khám thai trong các nhóm tuổi mẹ.
Chúng tôi nhận thấy trong nhóm thai lưu, tỷ lệ thai chậm tăng trưởng tăng
dần theo các mức độ khám thai thường xuyên, mức độ trung gian và khám
thai không thường xuyên (33,2%, 42,6% và 58,3%) và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (P = 0,018). Tác giả Michael(12) cũng kết luận nguy cơ thai
chậm tăng trưởng ở nhóm không khám thai tăng gấp 4 lần nhóm có khám
thai (OR = 4,47; 95%CI = 3,35 – 5,98; P < 0,001). Từ kết quả này cho thấy
rằng việc không tuân thủ chương trình khám thai làm bỏ sót việc phát hiện
các trường hợp thai chậm tăng trưởng, do đó làm tăng nguy cơ thai lưu.
Mối liên quan giữa số lần sanh và thai lưu
Bảng 6: So sánh mối liên quan giữa chưa từng sanh và nguy cơ thai lưu giữa
các tác giả
Tác giả
Thiết kế nghiên cứu
OR
P
Diana(6)
Hồi cứu
1,74
<0,05
Rachana(15)
Hồi cứu
1,74
<0,05
Tác giả
Bệnh chứng
2,06
0,001
Tác giả Swee(19) trong một nghiên cứu bệnh chứng tại bệnh viện Thái
Nguyên năm 2004 – 2005 cũng đã nhận thấy tỷ số nguy cơ của thai lưu là
3,83 nếu thai phụ chưa từng sanh. Gelen(6), trong nghiên cứu bệnh chứng tại
Jamaica trong 2 năm 1996 – 1997 trên 150 trường hợp thai lưu và 150
trường hợp thai sống, nhận thấy nguy cơ thai lưu của thai phụ giảm khoảng
46% khi số con hiện sống của thai phụ tăng (OR = 0,54; 95%CI = 0,09 –
0,41). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với các tác giả trên.
Lý giải về điều này, các tác giả cho rằng các thai phụ đã từng sanh sẽ có
kinh nghiệm hơn trong việc theo dõi thai máy cũng như các dấu hiệu bất
thường trong thai kỳ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1_3009.pdf