Tỷ lệ thai lưu ở tuổi thai ≥ 34 tuần, thời điểm phổi thai nhi trưởng thành, 
chiếm tỷ lệ đáng kể (32%). Hiện nay, ngành Dưỡng Nhi Việt Nam đã có thể 
nuôi được các trẻ sơ sinh non tháng từ tuổi thai 28 tuần. Nhưng các di chứng 
lâu dài như xơ hóa võng mạc, chậm phát triển tâm thần vận động của các trẻ
sơ sinh 28 –< 34 tuần còn cao. Các di chứng này ở trẻ sơ sinh non tháng ≥ 
34 tuần giảm đáng kể và theo ACOG (1995), tỷ lệ sống sót với tối thiểu các 
di chứng ở tuổi thai 34 tuần chỉ kém hơn 1% so với tuổi thai 37 tuần (20). Vì 
vậy theo chúng tôi, đối vớicác thai kỳ phát hiện bất thường trong quá trình 
khám thai (IUGR, thiểu ối ), nên chăng chấm dứt thai kỳ ở tuổi thai 34 
tuần để dự phòng thai lưu
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 30 trang
30 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2251 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân 20 – 40 tuần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THAI LƯU KHÔNG RÕ NGUYÊN 
NHÂN 20 – 40 TUẦN 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ 
nguyên nhân tại bệnh viện Hùng Vương trong thời gian từ tháng 11/2006 
đến tháng 12/2007. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh chứng. Dân số nghiên cứu: các 
thai phụ nhập viện vì thai lưu không rõ nguyên nhân (nhóm bệnh) và các 
thai phụ có thai sống (nhóm chứng) tại phòng khám thai bệnh viện Hùng 
Vương. Mỗi trường hợp chứng được bắt cặp với một trường hợp bệnh theo 
tuổi thai. Các đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi sọan 
sẵn và từ 3 nữ hộ sinh không biết giả thuyết nghiên cứu. Các thông tin 
phỏng vấn bao gồm các đặc điểm xã hội, tiền sử sản phụ khoa và các đặc 
điểm của thai kỳ hiện tại. Dùng phân tích hồi quy đa biến để xác định các 
yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân. 
Kết quả: 324 thai phụ gồm 162 trường hợp thai lưu và 162 trường hợp thai 
sống được chọn vào nghiên cứu. Các yếu tố được nhận thấy có liên quan đến 
thai lưu không rõ nguyên nhân: tuổi mẹ từ 35 trở lên (OR = 2.5, 95%CI = 
1.36 – 4.72), khám thai mức độ trung gian (OR = 2.4, 95%CI = 1.47 – 4.04), 
khám thai không thường xuyên (OR = 4.5, 95%CI = 1.36 – 14.79) và sanh ≥ 
1 lần (OR = 0.36, 95%CI = 0.22 – 0.59). 
Kết luận: Các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân là các yếu 
tố có thể phát hiện được trong quá trình khám thai định kỳ. Việc khám thai 
định kỳ là yếu tố quan trọng trong việc phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ và 
dự phòng thai lưu không rõ nguyên nhân. 
ABSTRACT 
RISK FACTORS FOR SUDDEN INTRAUTERINE UNEXPLAINED 
STILLBIRTH AT HUNG VUONG HOSPITAL IN YEAR 2006 – 2007 
Nguyen Vu Đong Hang, Nguyen Duy Tai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 159 – 
164 
Objective: to identify risk factors for sudden intrauterine unexplained 
stillbirth at Hung Vuong hospital during 11/2006 – 12/2007. 
Methods: A case – control study was carried out. Population: women had 
unexplained stillbirth (case) and women had live birth (control) at outpatient 
clinic, Hung Vuong hospital. A case was matched with a control by fetal 
age. A questionnaire designed to collect information on socio – demographic 
characteristics, obstetric and gynecologic history, antenatal care and 
characteristics of the current pregnancy. Three midwifes unknown the 
research theories were trained to interview the women in research 
population. Multivariate logistic regression was used to assess risk factors 
for unexplained stillbirth. 
Result: A total of 324 women participated (162 with stillborn babies and 162 
with live born babies). Variables were found to be related to unexplained 
stillbirth include: mother age ≥ 35 (OR = 2.5, 95%CI = 1.36 – 4.72), 
inadequate antenatal care (OR = 2.4, 95%CI = 1.47 – 4.04), intermediate 
care (OR = 4.5, 95%CI = 1.36 – 14.79) and multiparity (≥ 1 baby) (OR = 
0.36, 95%CI = 0.22 – 0.59). 
Conclusions: Risk factors for unexplained stillbirth are the factors identified 
during prenatal care. So, prenatal care is important in detecting early the risk 
factors and preventing unexplained stillbirth. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thai lưu là một bệnh lý phức tạp, chiếm trên 50% tử vong chu sinh ở các 
nước phát triển. Tỷ lệ thai lưu là 5,3/1000 ở các nước phát triển, trong khi ở 
các nước đang phát triển tỷ lệ này cao gấp 4 lần. Trong các châu lục, Châu Á 
có tỷ lệ thai lưu cao thứ hai (25 – 40/1000), sau Châu Phi(15). 
Thực tế, nguyên nhân thai lưu vẫn còn khá phức tạp và khoảng 30% thai lưu 
không rõ nguyên nhân. Trong 5 thập kỷ qua, trong khi tỷ lệ thai lưu nói 
chung giảm dần, tỷ lệ thai lưu không rõ nguyên nhân vẫn tương đối ổn định, 
dao động từ 20% đến 30,2%(8). Vì thế, việc xác định các yếu tố liên quan 
đến thai lưu không rõ nguyên nhân có thể góp phần giảm tỷ lệ thai lưu. 
Trên thế giới, đa số các tác giả nhận thấy các yếu tố liên quan đến thai lưu 
bao gồm tuổi mẹ cao, sanh nhiều con, hút thuốc lá, điều kiện kinh tế xã hội 
thấp, thai chậm tăng trưởng trong tử cung, không khám thai định 
kỳ(9,10,14). 
Ở Việt Nam, tại thành phố Hồ Chí Minh, theo báo cáo của hai bệnh viện phụ 
sản là bệnh viện Từ Dũ và bệnh viện Hùng Vương, tỷ lệ thai lưu trên 1000 
trường hợp sanh sống trong năm 2005 tại hai bệnh viện này lần lượt là 
9,1/1000 và 8,1/1000(1,2). Tác giả Đỗ Đình Thống(7) nhận thấy thai lưu 
chiếm tỷ lệ cao ở lứa tuổi mẹ 20 – 30 (59,9%) và các phụ nữ chưa sanh lần 
nào (39,7%). Tác giả Swee May Cripe và Từ Thị Thanh Phụng (19) đã ghi 
nhận một số yếu tố liên quan đến thai lưu sau 20 tuần: học vấn dưới lớp 12 
tăng nguy cơ thai lưu gấp 3 lần so với học vấn trên lớp 12, sống tại nông 
thôn tăng nguy cơ thai lưu gấp 2,4 lần so với sống tại thành thị, thai phụ 
chưa sanh lần nào có nguy cơ thai lưu gấp 3,8 lần so với thai phụ đã từng 
sanh con, không khám thai làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 4,2 lần. Chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu bệnh chứng này tại bệnh viện Hùng Vương nhằm khảo 
sát các yếu tố liên quan đến thai lưu không rõ nguyên nhân 20 – 40 tuần, từ 
đó giúp xác định các thai kỳ nguy cơ cao bị thai lưu để có chiến lược theo 
dõi phù hợp và tư vấn đúng mức cho các thai phụ. 
Mục tiêu nghiên cứu 
So sánh một số đặc điểm giữa nhóm thai lưu và nhóm thai sống. 
Xác định mối liên quan giữa các yếu tố: tuổi mẹ ≥ 35, sự tuân thủ chương 
trình khám thai định kỳ, số lần sanh và thai lưu không rõ nguyên nhân 20 – 
40 tuần. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhóm bệnh 
Đơn thai lưu 20 – 40 tuần nhập viện tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 
11/2006 đến tháng 12/2007. Chúng tôi chọn các trường hợp thai lưu chưa 
xác định nguyên nhân về phía mẹ, thai và nhau trên lâm sàng (không kèm 
theo các tình trạng như: cao huyết áp mãn, tiền sản giật, thiếu máu nặng, đái 
tháo đường, đa thai, thai dị tật nghiêm trọng, nhau bong non…). 
Nhóm chứng 
Các trường hợp đơn thai sống, được chọn tại phòng khám thai theo phương 
pháp mẫu kế tiếp. Mỗi trường hợp chứng được bắt cặp với một trường hợp 
bệnh theo tuổi thai. 
Tiêu chuẩn loại trừ khỏi mẫu 
Thai dị tật bẩm sinh nặng phát hiện qua siêu âm hoặc sau sanh 
Các trường hợp thai lưu do nhau bong non, chẩn đoán sau sanh 
Các thai phụ có các tình trạng bệnh lý nội khoa có thể là nguyên nhân của 
thai lưu 
Thời gian nghiên cứu 
Từ tháng 11/2006 đến tháng 12/2007. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu bệnh chứng 
Cách tiến hành 
Các trường hợp bệnh (thai lưu) được thu nhận tại khoa Sản 4 và khoa Nội 
Tiết. Cùng ngày nhập viện của mỗi trường hợp bệnh, một trường hợp chứng 
(thai sống) có số hồ sơ khám thai kế tiếp với số hồ sơ nhập viện của trường 
hợp bệnh tương úng được thu nhận tại phòng khám thai. Các thai phụ trong 
hai nhóm nghiên cứu được phỏng vấn theo bảng câu hỏi sọan sẵn. Để tránh 
sai lệch thông tin, 3 nữ hộ sinh không biết giả thuyết nghiên cứu được huấn 
luyện để phỏng vấn theo bảng câu hỏi. 
Xử lý số liệu 
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm EPIDATA, phân tích số liệu bằng 
phần mềm STATA 6.0. Các kết quả được phân tích bằng các phép kiểm Chi 
bình phương, T – test, phân tích hồi qui đơn biến và hồi qui đa biến tìm các 
yếu tố liên quan đến thai lưu sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu. 
KẾT QUẢ 
324 trường hợp nghiên cứu gồm 2 nhóm thai lưu và thai sống thỏa tiêu 
chuẩn chọn mẫu được chọn vào nghiên cứu. Chúng tôi thu thập các thông tin 
về tiền sử sản phụ khoa, các đặc điểm về xã hội, thai kỳ (lâm sàng và cận 
lâm sàng). 
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Các đặc điểm riêng của nhóm thai lưu 
Tuổi thai trung bình là 30.3 tuần (SD = 5.6), các trường hợp thai lưu ≥ 34 
tuần chiếm 32%, ≥ 37 tuần chiếm tỷ lệ 16%. Tỷ lệ thai chậm tăng trưởng 
chiếm 51.2%, trong đó tuổi thai ≥ 34 tuần chiếm tỷ lệ 31.3%. 
Bảng 1. Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu: 
Biến số 
Thai lưu (%) 
Thai sống (%) 
P 
Tuổi mẹ 
< 35 
123 (75,9) 
145 (87) 
0,01 
≥ 35 
39 (24,1) 
17 (13) 
Nghề nghiệp 
Công nhân viên 
50 (30,9) 
67 (41,3) 
0,204 
Nội trợ 
71 (43,8) 
57 (35,2) 
Nghề khác 
41 (25,3) 
38 (23,5) 
Tiền sử thai lưu 
Không 
155 (95,7) 
159 (98,2) 
0,158 
Có 
7 (4,3) 
3 (1,8) 
Tiền sử mổ lấy thai 
Có 
16 (9,9) 
13 (8,1) 
0,561 
Không 
146 (90,1) 
149 (91,9) 
Khám thai 
Thường xuyên 
85 (52,5) 
115 (71) 
0,003 
0,019 
Trung gian 
65 (40,1) 
43 (26,5) 
Không thường xuyên 
12 (7,4) 
4 (2,5) 
Số lần sanh 
Chưa sanh 
99 (61,1) 
70 (43,2) 
0,001 
Sanh 1 lần 
52 (32,1) 
79 (48,8) 
≥ 2 lần 
11 (6,8) 
13 (8) 
Xác định các yếu tố liên quan đến thai lưu 
Bảng 2: Phân tích đơn biến các yếu tố liên quan đến thai lưu 
Biến số 
% nhóm bệnh 
% nhóm chứng 
OR 
95%CI 
Giá trị P 
Tuổi mẹ 
 < 35 tuổi 
75,9 
87,0 
1 
 ≥ 35 tuổi 
24,1 
13,0 
2,13 
1,15-4,02 
0,01 
Tiền sử thai lưu 
 Không 
95,7 
98,2 
1 
 Có 
4,3 
1,8 
3,81 
0,53-14,56 
0,158 
Khám thai 
Thường xuyên 
52,5 
71 
1 
 Trung gian 
40,1 
26,5 
2,04 
1,27-3,29 
0,003 
 Không thường xuyên 
7,4 
2,5 
4,05 
1,26-13,02 
0,019 
Số lần sanh 
 Chưa sanh 
61,1 
43,2 
1 
 Sanh ≥1 lần 
38,9 
56,8 
0,48 
0,30-0,77 
0,001 
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến thai lưu sau khi đã hiệu chỉnh các yếu tố 
gây nhiễu 
Các biến số 
OR hiệu chỉnh 
95%CI 
Giá trị P 
Tuổi mẹ ≥ 35 
2,5 
1,36 – 4,72 
0,003 
Khám thai mức trung gian 
2,4 
1,47 – 4,04 
0,001 
Khám thai không thường xuyên 
4,5 
1,36 – 14,79 
0,014 
Sanh ≥1 lần 
0,36 
0,22 – 0,59 
<0,001 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ thai lưu ở tuổi thai ≥ 34 tuần, thời điểm phổi thai nhi trưởng thành, 
chiếm tỷ lệ đáng kể (32%). Hiện nay, ngành Dưỡng Nhi Việt Nam đã có thể 
nuôi được các trẻ sơ sinh non tháng từ tuổi thai 28 tuần. Nhưng các di chứng 
lâu dài như xơ hóa võng mạc, chậm phát triển tâm thần vận động của các trẻ 
sơ sinh 28 – < 34 tuần còn cao. Các di chứng này ở trẻ sơ sinh non tháng ≥ 
34 tuần giảm đáng kể và theo ACOG (1995), tỷ lệ sống sót với tối thiểu các 
di chứng ở tuổi thai 34 tuần chỉ kém hơn 1% so với tuổi thai 37 tuần (20). Vì 
vậy theo chúng tôi, đối với các thai kỳ phát hiện bất thường trong quá trình 
khám thai (IUGR, thiểu ối…), nên chăng chấm dứt thai kỳ ở tuổi thai 34 
tuần để dự phòng thai lưu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thai lưu ở tuổi thai đủ tháng (≥ 37 tuần) 
chiếm tỷ lệ không nhỏ (16%). Tác giả Cotzias(4) đã ghi nhận nguy cơ thai 
lưu không rõ nguyên nhân tăng dần từ 1/606 ở tuổi thai 37 tuần đến 1/474 ở 
tuổi thai 40 tuần. Tác giả Yudkin(21) cũng nhận thấy các thai lưu không rõ 
nguyên nhân chủ yếu xảy ra vào nửa sau của tam cá nguyệt 3, trong đó hơn 
phân nửa xảy ra sau 38 tuần. Do đó các tác giả này khuyến cáo ở những thai 
kỳ có nguy cơ cao bị thai lưu, đặc biệt ở những thai phụ có tiền sử thai lưu 
không rõ nguyên nhân, nên xem xét chấm dứt thai kỳ ở quanh tuần lễ 38 và 
việc này có thể giúp làm giảm tỷ lệ thai lưu. 
Mối liên quan giữa tuổi mẹ và thai lưu 
Bảng 4: So sánh tuổi mẹ ≥ 35 với nguy cơ thai lưu giữa các tác giả 
Tác giả 
Thiết kế nghiên cứu 
OR 
P 
Miller(12) 
Cohort hồi cứu 
2 
< 0,05 
Svein Rasmussen(17) 
Bệnh chứng 
2,4 
< 0,05 
Uma(19) 
Cohort hồi cứu 
2,2 
< 0,05 
Tác giả 
Bệnh chứng 
2,5 
0,003 
Svein Rasmussen(16) nhận thấy các thai phụ từ 35 tuổi trở lên có nguy cơ 
thai lưu tăng gấp 2,4 lần các thai phụ dưới 35 tuổi (P < 0,05). Nguy cơ này 
tăng gấp đôi nếu thai phụ từ 45 tuổi trở lên. Ngoài ra, Svein Rasmussen còn 
nhận thấy nguy cơ thai lưu không rõ nguyên nhân ở thai phụ ≥ 35 tuổi tăng 
dần theo tuổi thai. Đối với tuổi thai < 39 tuần, nguy cơ này là 2,5/10.000, 
nhưng từ tuổi thai 39 tuần trở đi, nguy cơ này là 50/10.000. Tác giả Uma(18) 
cũng nhận thấy ở phụ nữ trên 35 tuổi, nguy cơ thai lưu bắt đầu tăng đáng kể 
từ 39 tuần và cao nhất ở tuổi thai 41 tuần. So với nhóm tuổi < 35, các thai 
phụ trong nhóm tuổi 35 – 39 tăng nguy cơ thai lưu ở các tuần tuổi thai 20 – 
27 và 34 – 41. Nguy cơ này ở các thai phụ trên 40 tuổi tăng suốt thai kỳ (từ 
20 – 41 tuần). Nghiên cứu của chúng tôi, với cỡ mẫu và thời gian nghiên cứu 
hạn chế nên không thể khảo sát mối liên quan của thai lưu với tuổi mẹ theo 
từng nhóm tuổi thai. 
Đa số các tác giả, sau khi loại trừ các tình trạng bệnh lý nội khoa kèm theo 
và các dị tật bẩm sinh, ghi nhận tuổi mẹ cao (≥ 35) vẫn là yếu tố nguy cơ độc 
lập của thai lưu(17,18). Trong nghiên cứu của chúng tôi, đối tượng nghiên 
cứu là các thai phụ không có các bệnh lý nội khoa kèm theo (xác định trên 
lâm sàng và xét nghiệm). Do đó, mối liên quan này cũng phù hợp với các tác 
giả trên. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong nhóm thai lưu, tỷ lệ thai chậm tăng 
trưởng ở nhóm tuổi < 35 cao gấp 3 lần nhóm tuổi ≥ 35 (74,7% và 25,3%) và 
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P = 0,03). Tác giả Miller (2005)(13) 
cũng đã chứng minh tuổi mẹ cao làm tăng nguy cơ thai lưu không rõ nguyên 
nhân đối với các thai phát triển bình thường chứ không làm tăng nguy cơ 
này ở các thai chậm tăng trưởng. Do đó, kết quả nghiên cứu tác giả Miller 
cũng như của chúng tôi cho rằng thai chậm tăng trưởng không phải là cơ chế 
nguyên phát làm tăng nguy cơ thai lưu ở các thai phụ trên 35 tuổi. 
Mối liên quan giữa sự tuân thủ khám thai và thai lưu 
Bảng 5: So sánh mối liên quan giữa sự tuân thủ khám thai và nguy cơ thai 
lưu giữa các tác giả 
Tác giả 
Thiết kế nghiên cứu 
OR (khám thai mức độ trung gian) 
OR (khám thai không thường xuyên) 
Gelen(6) 
Bệnh chứng 
2 
Diana(10) 
Cohort hồi cứu 
2,2 
Swee(18) 
Bệnh chứng 
4,2 
Tác giả 
Bệnh chứng 
2,4 
4,5 
Tác giả Swee(19), trong một nghiên cứu bệnh chứng tại bệnh viện Thái 
Nguyên năm 2004 – 2005 đã cho kết quả phù hợp với chúng tôi: khám thai 
không thường xuyên làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 4 lần. Có lẽ tác giả Swee 
và chúng tôi cùng nghiên cứu trên một dân số là các thai phụ Việt Nam nên 
có kết quả tương tự nhau trong khi các tác giả khác nghiên cứu trên các thai 
phụ ở Châu Mỹ La Tinh. Tác giả Wulf(22) đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu 
tại Bavaria (Đức) năm 1994 về mối liên quan giữa thời điểm khám thai đầu 
tiên và mức độ khám thai thường xuyên với thai lưu. Tác giả đã nhận thấy 
bắt đầu khám thai sau 21 tuần sẽ làm tăng nguy cơ thai lưu gấp 1,7 lần (RR 
= 1,7; P < 0,025) so với khám thai đầu tiên lúc thai 9 – 12 tuần và nếu khám 
thai < 4 lần, nguy cơ này sẽ tăng gấp 7,65 lần so với khám thai trên 10 lần 
(RR = 7,65; P < 0,0001). 
Các tác giả Michael và Wulf(12,22) đã kết luận các yếu tố ảnh hưởng đến 
việc tuân thủ khám thai bao gồm: tuổi mẹ 39, sanh từ 3 lần trở 
lên và hút thuốc lá. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ khám thai mức độ 
trung gian ở nhóm đã sanh 1 lần và ≥ 2 lần cao hơn nhóm chưa sanh lần nào 
(38% và 36% so với 28%) và tỷ lệ khám thai không thường xuyên ở nhóm 
đã sanh ≥ 2 lần cao hơn rõ rệt hai nhóm sanh 1 lần và chưa sanh lần nào 
(14% so với 3% và 5%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P = 0,011). 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi nhận thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê của mức độ tuân thủ khám thai trong các nhóm tuổi mẹ. 
Chúng tôi nhận thấy trong nhóm thai lưu, tỷ lệ thai chậm tăng trưởng tăng 
dần theo các mức độ khám thai thường xuyên, mức độ trung gian và khám 
thai không thường xuyên (33,2%, 42,6% và 58,3%) và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (P = 0,018). Tác giả Michael(12) cũng kết luận nguy cơ thai 
chậm tăng trưởng ở nhóm không khám thai tăng gấp 4 lần nhóm có khám 
thai (OR = 4,47; 95%CI = 3,35 – 5,98; P < 0,001). Từ kết quả này cho thấy 
rằng việc không tuân thủ chương trình khám thai làm bỏ sót việc phát hiện 
các trường hợp thai chậm tăng trưởng, do đó làm tăng nguy cơ thai lưu. 
Mối liên quan giữa số lần sanh và thai lưu 
Bảng 6: So sánh mối liên quan giữa chưa từng sanh và nguy cơ thai lưu giữa 
các tác giả 
Tác giả 
Thiết kế nghiên cứu 
OR 
P 
Diana(6) 
Hồi cứu 
1,74 
<0,05 
Rachana(15) 
Hồi cứu 
1,74 
<0,05 
Tác giả 
Bệnh chứng 
2,06 
0,001 
Tác giả Swee(19) trong một nghiên cứu bệnh chứng tại bệnh viện Thái 
Nguyên năm 2004 – 2005 cũng đã nhận thấy tỷ số nguy cơ của thai lưu là 
3,83 nếu thai phụ chưa từng sanh. Gelen(6), trong nghiên cứu bệnh chứng tại 
Jamaica trong 2 năm 1996 – 1997 trên 150 trường hợp thai lưu và 150 
trường hợp thai sống, nhận thấy nguy cơ thai lưu của thai phụ giảm khoảng 
46% khi số con hiện sống của thai phụ tăng (OR = 0,54; 95%CI = 0,09 – 
0,41). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với các tác giả trên. 
Lý giải về điều này, các tác giả cho rằng các thai phụ đã từng sanh sẽ có 
kinh nghiệm hơn trong việc theo dõi thai máy cũng như các dấu hiệu bất 
thường trong thai kỳ. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1_3009.pdf 1_3009.pdf