Cầm nang thủ Kĩ thuật và cách luyện

ĐIỂM HUYỆT

Như đã nói ở trên, các kỹ thuật điểm huyệt gõ hoặc ấn vào các huyệt thuộc hệ kinh

mạch, cơ thể người ta có trên 800 khí huyệt nằm trên 8 mạch và 12 kinh. Hai trong số các

mạch này là Đốc mạch và Nhâm mạch. Khí lưu thông trong hai mạch Nhâm Đốc theo một chu

kỳ 24 tiếng đồng hồ. Về phần 12 kinh, chúng có liên hệ với các cơ quan nội tạng. Nhịp tăng

giảm của khí trong 12 kinh được trực tiếp gắn liền với các giờ trong ngày, chuyển từ kinh này

qua kinh khác mỗi 2 giờ. Mặt khác toàn bộ chuyển động bên trong của khí trong mạng lưới này

được điều tiết theo chu kỳ mùa và năm. Khi việc lưu hành của khí bị trì trệ hoặc ngừng hẳn là

lúc bệnh tật hoặc cái chết xảy ra. Châm cứu là một phương cách chữa trị bằng việc điều hòa

lưu thông khí.

Ấn vào huyệt là một cách thức để tác động lên sự lưu thông này. Trong bộ cầm nã có

108 huyệt có thể bị vỗ hoặc ấn. 72 trong số đó có thể gây tê liệt hay bất tỉnh, 36 huyệt còn lại

được coi là tử huyệt. Để xuất chiêu hữu hiệu ta cần phải biết thời điểm khí cường trong đường

kinh liên hệ, kỹ thuật gõ thích hợp tương ứng với chiều sâu của huyệt.

Chúng ta sẽ không đào sâu khía cạnh này trong - tập sách này - không chỉ vì tính cách vôcùng phức tạp của nó mà còn vì nguy hiểm tiềm tàng của nó khi nghiên cứu mà không được

một võ sư lưu tâm theo dõi.

Trong giới người Hoa cổ truyền, vị chân sư sẽ không truyền lại cho bất cứ bí kíp nào

cho đệ tử mà ông không hoàn toàn tin tưởng. Tuy nhiên một số chiêu thức này có thể được dạy

lại mà không gây nguy hiểm. Đó là một phần các huyệt không gây tử vong mà phần lớn trong

số đó thuộc vào nhóm “chảo huyệt”

pdf29 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 765 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cầm nang thủ Kĩ thuật và cách luyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm vỡ một độngmạch. Dù loại kỹ thuật cầm nã được sử dụng là gì chăng nữa thì đại lược nó cũng nhằm nắm bắt và kềm giữ một đối phương. Thế khóa trong cầm nã Thông thường cầm nã được sắp sếp như sau: 1.Tác động lên cơ / dây chằng 2.Tác động trên xương / quan tiết 3.Tác động trên hô hấp 4.Tác động trên tuần hoàn 5.Tác động trên huyệt, kinh mạch và thần kinh Phân Cân, Thác cốt thủ Thông thường học Phân cân, Thác cốt hay các kỹ thuật Bế khí thì tương đối đơn giản và cũng dễ nắm bắt được các nguyên lý được sử dụng. Các chiêu thức đó chỉ đòi hỏi một ít sức mạnh cơ bắp và không nhiều công phu để thủ đắc được hiệu quả trong lúc thi triển, nhưng nếu muốn làm gãy xương hay làm tổn hại một quan tiết, một dây chằng ở sâu bên trong thì cần phải sử dụng đến kình lực Về phần các kỹ thuật phong bế khí mạch hay huyết mạch thì cần phải nắm vững vị trí chính xác các huyệt, độ sâu của chúng và thời điểm chúng dễ bị thương tổn nhất, ngoài ra còn có một số thủ thuật được luyện tập đặc biệt cùng với việc quán triệt được Ý, Khí và Kình. Lúc này hành giả cần phải được hướng dẫn bởi một vị thầy đủ trình độ để hy vọng có thể tiến, bởi vì đây là một kiến thức phong phú và thâm sâu mà việc nghiên cứu rất tinh tế và gắn liền một cách thiết yếu với sự cảm nhận tế vi phức tạp. Một số các kỹ thuật đó có thể gây ra tử vong, do đó sư phụ chỉ truyền lại cho những đệ tử xứng đáng về mặt đạo đức mà ông có thể tin cậy Do tính kiến hiệu của chúng trong thực dụng, các kỹ thuật cầm nã được học kèm theo các hình thức chiến đấu khác trong các môn võ thuật Trung Hoa từ khi mới được phát sinh cách đây nhiều ngàn năm, dù không có một hệ thống võ thuật nào chỉ dựa trên cầm nã để phát triển, hầu hết các bộ môn võ thuật đều đã dung nạp các chiêu thức phù hợp với bộ môn. Ngay cả tại Nhật, Hàn Quốc hoặc bất cứ quốc gia nào ở Đông Phương được thấm nhuần văn hóa Trung Quốc, thì các bộ môn võ thuật địa phương cũng đều chịu ảnh hưởng cầm nã ở mức độ khác nhau. Thường người ta công nhận rằng các môn phái võ miền Nam Trung Quốc do thường chuyên về các kỹ thuật, các chiêu thức quyền pháp và về cận chiến nên có khuynh hướng phát triển các kỹ thuật cầm nã và về mặt đấu pháp dựa vào chúng nhiều hơn các môn phái Bắc Trung Hoa. Cũng vì vậy các phái võ Hoa Nam thường lưu tâm đến việc công phu quyền pháp và việc thi triển cầm nã đòi hỏi nhiều sức lực hơn trong các kỹ thuật nắm bắt hoặc bế huyệt. Mặt khác, vì lưu tâm đặc biệt đến cận chiến nên các trường phái miền Nam thường nhấn mạnh đến việc thính kình và niêm kình với đối thủ và các chiêu thức thường được thực hiện theo dạng vòng cầu khiến người ta có thể áp dụng cầm nã mà kẻ địch không cảm nhận được việc chuẩn bị trước đó. Cước pháp cũng là một phần quan trọng trong việc luyện tập của họ. Tuy nhiên điều cần nhớ là đây chỉ là những ý niệm khái quát: Các trường phái vùng Hoa Bắc đôi khi cũng phát triển những đặc tính như vậy. Trong các môn phái nội gia như Thái Cực, Lục Hợp Bát Pháp, việc vô hiệu hóa đối phương thường được thực hiện bằng một động tác vòng cầu, dạng thức đó giải thích cho ta khuynh hướng của cầm nã là sự nhu nhuyễn và tròn trịa trong mọi thực hiện kỹ thuật Các kỹ thuật vòng tròn này gắn liền với những bộ pháp vòng cung cho phép đẩy bật bất cứ đối thủ nào và ném y xuống đất. Hiệp Khí Đạo và các môn Jujutsu của Nhật và Hàn Quốc cũng hoạt động trên nguyên lý đó. Chắc hẳn phép cầm nã cũng như các khía cạnh khác của văn hóa Trong Quốc nói chung đã ảnh hưởng một cách rõ ràng lên các đấu pháp của chúng Nguyên lí phân cân thác cốt 1. PHÂN CÂN Trong tiếng Hoa, Phân cân bao gồm dây chằng, gân hoặc cơ bắp. Phân cân hoặc trảo cân là nhằm chỉ các thế chộp cơ thể gây rách dây chằng hay cơ của đối thủ và đôi khi làm bung điểm nối dài dây chằng và xương. Cơ chứa đựng các dây chằng và nhiều đường khí. Nếu bạn xé rách cơ hoặc dây chằng, không chỉ bạn gây ra cảm gác đau được não ghi nhận mà bạn càn tác động lên khí một cách trực tiếp hoặc gián tiếp và sự hoạt động bình thường của các cơ quan. Một cơn đau cao độ có thể làm với xáo trộn việc luân lưu của khí và làm thương tổn trầm trọng nội tạng thậm chí có thể đem đến tử vong. Đo đó, trường hợp cảm giác đau dâng cao quá mức não bộ có thể gây kích ngất để hóa giải. Khi bị rôi vào tình trạng bất tỉnh, sự luân chuyển của khí giảm hẳn tốc độ, và điều này giúp hạn chế các thương tổn gây ra cho các cơ quan và có thể cứu được sinh mạng. Phép cầm nã phân cân chính yếu có hai cách làm giãn cơ và dây chằng. Một cách là vặn và gập khớp. Vặn khớp đồng nghĩa với việc vặn cơ và dây chằng của khớp liên hệ khi bạn gập khớp lại bạn có thể làm bung dây chằng hay làm rách cơ. Cách thứ hai là căng dãn cơ và dây chằng thay vì vặn. Phương pháp này áp dụng vào các ngón tay rất dễ dàng. Mặc dù các đòn cầm nã được gọi là trảo cân thường được xếp cùng các chiêu thức của phân cân thế nhưng nhiều hành giả Trung Hoa phân biệt hai loại khác nhau vì phương thức dùng để tác động vào cơ nó khác nhau. Trảo cân sử dụng công lực của các ngón tay để chộp, ấn và bấm, kéo các cơ lớn hoặc các dây chằng của đối thủ. Sức kéo tạo ra cơn đau do căng dãn quá mức của các sợi cơ hoặc sợi dây chằng vai là một trong những mục tiêu ưu tiên đối với các loại cầm nã này (hình 1.5, 1.6). 2. THÁC CỐT Chữ Thác theo Thiều Chửu có nghĩa là mài dũa, lẫn lộn, lầm lẫn, lệch lạc. Như vậy Thác Cốt là những kỹ thuật cầm nã làm cho xương bị di dịch khỏi vị trí tự nhiên. Các chiêu thức cầm nã nầy được áp dụng trên các quan tiết. Nếu người ta xem xét cơ cấu của một khớp, người ta có thể thấy là xương được nối kết lại với nhau bằng gân và sụn và với các cơ bằng dây chằng. Khi khớp bị bẻ ngược hướng tự nhiên của nó hoặc bị vặn tức thì có một cảm giác đau cao độ, gân có thể bị tước ra và xương bị lệch vị. Nói cho đúng thông thường rất khó tách rời các kỹ thuật phân cân và thác cốt. Vì hiếm khi có phân thân mà không thác cốt và ngược lại. 3. BẾ KHÍ (Kĩ thuật làm đối phương tắc thở) Theo tiếng Hoa bế có nghĩa là đóng, khóa, giam. Các chiêu thức này gây trở ngại cho hô hấp, thậm chí có thể khiến cho đối thủ bất tỉnh. Có ba loại bế khí khác nhau dựa trên nguyên lý làm ngưng khí. Loại thứ nhất nhắm vào việc làm nghẽn yết hầu để làm đối phương ngừng thở, người ta có thể xiết cổ bằng bàn tay hay bằng cả cánh tay. Người ta cũng có thể ấn hoặc xỉa vào yết hầu để tạo ra phản xạ co bóp của các cơ yết hầu làm trở ngại hô hấp (Hình 1-10). Hình 1-10 Các chiêu thức loại hai nhằm tới việc bế khí bằng cách tấn công các cơ vùng phổi. Do vùng ngực thường được bảo vệ cho nên khó có thể chạm tới phần lớn các cơ đó. Tuy nhiên một số cơ trải dài ra, ngoài vòng bảo vệ và khi bị đánh trúng chúng co lại và ép phổi gây nên ngạt thở cho nạn nhân. Có hai nhóm cơ chính cho phép sử dụng các thế cầm nã này (Hình 1-11). Hình 1-11 Loại thứ ba bao gồm các chiêu thức ấn huyệt và điểm các đầu dây thần kinh. Khi so sánh các chiêu thức này với các chiêu thức loại hai, thì sự khác biệt là ở các điển bị tấn công. Tuy nhiên các chiêu thức loại này khó hiểu và thủ đắc hơn. Thế nhưng một khi đã quán triệt được chúng hơn hẳn các loại khác về mặt lợi hại. Như chúng tôi đã giải thích đối với loại hai, hình dạng các xương sườn tạo thành một cái lồng bảo vệ các tạng phủ vùng ngực chống lại những tấn công từ bên ngoài. Mỗi xương sườn không được làm bằng một đốt xương chạy quanh vùng ngực mà không đốt nối kết với nhau bằng sụn và gân. (Hình 1-12). Khi có vật từ bên ngoài chạm vào ngực, các xương sườn phản ứng như một lò xo, một trái bóng bằng cao su làm giảm sốc. Lực tấn công sẽ được đẩy lùi theo phép đàn hồi hoặc chính cơ thể bị xô đẩy ra phía sau (hoặc phía trước), nhưng các nội tạng quan yếu và mảnh mai như tim và phổi được bảo vệ. Do vậy để tạo ra được một lực ép trên hai lá phổi khiến gây ngạt thở người ta phải điểm vào Hình 1-12 một số các huyệt đặc biệt thuộc châm cứu hoặc một vài điểm giao thoa của hệ thống thần kinh không được lồng ngực bảo vệ (Hình 1-13). Hình 1-13 Điểm vào các huyệt một cách chính xác với một lực thẩm thấu cần thiết sẽ tác động lên khí của các cơ bao quanh phổi (và tạo ra động tác hô hấp) khiến chúng co bóp. Điểm các đầu dây thần kinh sẽ tạo ra một cơn đau chạy xuyên qua lồng ngực và kích động phản xạ cũng của các cơ trên. Trong cả hai trường hợp phản xạ của cơ cũng đủ sức triệt khả năng hô hấp của nạn nhân. 4. ĐIỂM MẠCH HAY ĐOẠN MẠCH (bí ẩn khí công 4000 năm Trung quốc) Trong tiếng Hoa điểm có nghĩa là chỉ hoặc ấn bằng ngón tay. Mạch bao gồm kinh mạch của khí hay mạch máu (huyết mạch). Như vậy điểm mạch có nghĩa đánh hoặc ấn vào tĩnh, động mạch hay vào các đường kinh của khí. Trong trường hợp làm tổn thương động, tĩnh mạch người ta còn dùng từ ngữ đoạn mạch (làm ngưng trệ lưu thông của động mạch). Vì chữ đoạn có nghĩa là làm vỡ, ngăn chặn, che khuất. Người ta còn dùng thuật ngữ điểm huyệt, đây là trường hợp tấn công vào thái dương: một quả thôi sơn khiến động mạch bị vỡ. Các chiêu cầm nã ấn hoặc đả trên các huyệt nằm trên kinh mạch của khí được gọi là điểm huyệt Trên nguyên tắc kỹ thuật đoạn mạch được thực hiện hoặc bằng ấn hoặc bằng đả. Nếu đả huyệt đòn cầm nã có thể làm đứt mạch máu và làm ngưng trệ lưu thông bình thường của máu. Điều này có thể đem đến tử vong. Hình 1-14 Chẳng hạn nếu ta đánh vào thái dương ta có thể tạo ra sự co bóp của cơ đủ để khiến động mạch bị vỡ (hình 1-14 và 1-15A). Được thi triển theo dạng ấn, kỹ thuật này cũng có thể làm ngưng tuần hoàn máu. Chẳng hạn ấn vào động mạch cổ làm ngưng dòng chảy của máu về não và như vậy có nghĩa ngưng việc cung cấp oxy cho não, có hai động mạch chủ ở hai bên cổ mà chức năng chính là nuôi dưỡng não bộ (hình 1-15B và 1-16). Sự thiếu hụt này kéo theo một cách rất nhanh chóng tình trạng kích ngất rồi tử vong. Việc ngạt thở xảy ra rất nhanh. Đôi khi các cơ phụ hai bên bị tê liệt và gây trở ngại cho việc can thiệp để phục hoạt nạn nhân. Hình 1-15 Hình 1-16 Nếu bạn chưa có nhiều kinh nghiệm và nắm chắc khả năng phục hồi làm lai tỉnh đối tượng thì tốt hơn đừng sử dụng loại kỹ thuật này. 5. ĐIỂM HUYỆT Như đã nói ở trên, các kỹ thuật điểm huyệt gõ hoặc ấn vào các huyệt thuộc hệ kinh mạch, cơ thể người ta có trên 800 khí huyệt nằm trên 8 mạch và 12 kinh. Hai trong số các mạch này là Đốc mạch và Nhâm mạch. Khí lưu thông trong hai mạch Nhâm Đốc theo một chu kỳ 24 tiếng đồng hồ. Về phần 12 kinh, chúng có liên hệ với các cơ quan nội tạng. Nhịp tăng giảm của khí trong 12 kinh được trực tiếp gắn liền với các giờ trong ngày, chuyển từ kinh này qua kinh khác mỗi 2 giờ. Mặt khác toàn bộ chuyển động bên trong của khí trong mạng lưới này được điều tiết theo chu kỳ mùa và năm. Khi việc lưu hành của khí bị trì trệ hoặc ngừng hẳn là lúc bệnh tật hoặc cái chết xảy ra. Châm cứu là một phương cách chữa trị bằng việc điều hòa lưu thông khí. Ấn vào huyệt là một cách thức để tác động lên sự lưu thông này. Trong bộ cầm nã có 108 huyệt có thể bị vỗ hoặc ấn. 72 trong số đó có thể gây tê liệt hay bất tỉnh, 36 huyệt còn lại được coi là tử huyệt. Để xuất chiêu hữu hiệu ta cần phải biết thời điểm khí cường trong đường kinh liên hệ, kỹ thuật gõ thích hợp tương ứng với chiều sâu của huyệt. Chúng ta sẽ không đào sâu khía cạnh này trong - tập sách này - không chỉ vì tính cách vô cùng phức tạp của nó mà còn vì nguy hiểm tiềm tàng của nó khi nghiên cứu mà không được một võ sư lưu tâm theo dõi. Trong giới người Hoa cổ truyền, vị chân sư sẽ không truyền lại cho bất cứ bí kíp nào cho đệ tử mà ông không hoàn toàn tin tưởng. Tuy nhiên một số chiêu thức này có thể được dạy lại mà không gây nguy hiểm. Đó là một phần các huyệt không gây tử vong mà phần lớn trong số đó thuộc vào nhóm “chảo huyệt” PHẦN KẾT Để kết luận tương nên nhắc nhở tại đây một điểm tiên quyết trong việc nghiên cứu cầm nã. Nhất thiết bạn phải biết cách sử dụng “kình” thì các chiêu thức mới hữu hiệu được. Kình là một cách thể hiện của nội lực khiến cho lực phát ra mạnh hơn và có sức thẩm thấu hơn. Khi nó được sử dụng thì cơ gân được tăng cường bởi khí và điều này cho phép chúng đạt được những thành tích siêu việt. Kình được vận dụng theo nhiều cách khác nhau: Cương; Nhu và Cương – Nhu (chúng ta cũng biết các loại kình khác được gọi theo cách thể hiện hoặc mục đích phát kình: chuyết kình, âm kình, niêm kình, ). Khi sử dụng cầm nã dù đó là chiêu thức nào, nếu bạn không biết cách vận dụng kình (thích hợp) thì ngón cầm nã sẽ không phát huy được công lực thực sự. Chẳng hạn khi bạn không dùng kình trong các đòn “phân cân” đối phương có thể đương cự lực cơ bắp của bạn bằng chính sức mạnh cơ bắp của anh ta. Khi thi triển “thác cốt” bạn sẽ không thể làm sái hay gãy khớp của y nếu bạn không sử dụng kình dưới dạng phát lực đặc biệt, khiến cho kỹ thuật đạt được hiệu quả tối đa. Cũng vậy, trong kỹ thuật siết hoặc ấn huyệt nếu kình không được sử dụng đúng cách, lực phát ra sẽ không đủ hoặc không tới được chiều sâu cần thiết CÁC PHƯƠNG PHÁP LUYỆN CÔNG ĐỂ THI TRIỂN CẦM NÃ. Dẫn nhập: Cũng như trong tất cả mọi lãnh vực khác, việc luyện tập căn bản phải là nền tảng của mọi kỹ thuật cầm nã. Không chuyên tâm công phu, các động tác sẽ không được thuần thục, dũng mãnh, hữu hiệu. Dù các bài tập luyện công cơ bản có khác nhau từ trường phái này đến trường phái khác, thì lý thuyết và các nguyên lý vẫn là một 1. Luyện đóng mở bàn tay: Động tác này rất đơn giản và có thể tập bất cứ ở đâu. Tay thẳng đằng trước, các ngón hướng lên trời bạn nắm bàn tay lại cho đến khi các ngón tay chạm vào lòng bàn tay rồi đột ngột bung tay ra Cố gắng đóng mở nhanh hơn một cách từ từ Kỷ lục là 300 lần trong vòng 30 giây, 10 lần 1 giây. Các kỹ thuật cầm nã thường được xếp vào ba loại: tiểu khuyên, trung khuyên và đại khuyên. Chẳng hạn các thế áp dụng vào các ngón tay và cổ tay thuộc về tiểu khuyên, các thế nhằm vào khủyu tay được xem như là trung khuyên. Khi kỹ thuật nhằm vào khuỷu tay và vai có kèm theo di chuyển thì được gọi là đại khuyên Trong một buổi tập sau khi đã hòan tất các bài luyện công bạn hãy chuyển sang luyện tập kỹ thuật. Vào giai đoạn chót bạn hãy trở lại với các bài tập cơ bản với việc quán tưởng là ta đang đứng trước một đối thủ. Việc tập trung mới này sẽ giúp bạn nắm bắt được ý nghĩa đích thực của từng động tác. Việc luyện công cơ bản này nhằm tăng cường các khả năng chiến đấu cũng như phòng vệ bằng cầm nã của bạn. Quả vậy bạn phải nắm được và kiểm sóat đối phương cũng như phải tự giải thóat khỏi đòn nắm của y và khi cần thiết phản đòn. Để đạt hai mục tiêu đó bạn phải luyện tập cách đặc biệt năm yếu tố thiết yếu trên bình diện hữu hiệu. 2. Chuyển động các ngón như cánh chim hay như sóng biển. Bài tập này nhằm luyện gốc của các ngón tay, nghĩa là lòng bàn tay. Có 2 bài tập của bạch hạc: một gọi là “Phi Xĩ” luyện các quan tiết ở gốc các ngón tay, và bài kia là “Chỉ Ba” tạo hình sóng gợn. Yếu tố thứ nhất là “Lực”, ý nói lực cơ bắp. Cần có sức mạnh thể lực để khởi phát đòn và duy trì kiểm sóat. Yếu tố thứ hai là “Kình”. Mạn kình là một sự hòa hợp giữa lực và khí, trong đó lực đóng vai trò chủ chốt. Trong trường hợp khóai kình, cơ bắp ít hữu hiệu hơn khí. Lúc đó phải tạo ra một lực bật lớn, bùng nổ nảo đảm cho động tác đủ năng lượng thẩm thấu để tới được một huyệt nằm mở trong sâu để làm trật một quan tiết hay làm gãy một đốt xương. Yếu tố thứ ba là “Tốc độ”. Không có tốc độ bạn không thể sử dụng các kỹ thuật cầm nã vì đối phương có thể đóan được và tránh né dễ dàng. Yếu tố cuối cùng lẽ tất nhiên là chiêu thức phải vi diệu. Khỏi cần phải nói chúng ta cũng hiểu là ngay khi đã đạt được các yếu tố đó mà không có sự võ luyện (văn ôn võ luyện) là điều duy nhất có thể bảo đảm tính vi diệu trong đòn thế thì cũng khó có thể kiểm sóat được bất cứ đối phương nào. Từ những nhận định trên ta có thể đưa ra kết luận là việc luyện tập cơ bản bao gồm hai khía cạnh chính: luyện tập thể xác và luyện tập tinh thần Luyện tập tinh thần là nhằm vào “Khí” (nội lực), vào“Ý” (tập trung, ý chí, chủ đích), vào “Thần” (tinh thần, phần tâm linh của con người), vào sự cảm nhận và khả năng phản ứng Điều cuối cùng cần phải nhớ là để đạt hữu hiệu tối đa mỗi kỹ thuật phải vận dụng tổng lực của cơ thể và tinh thần. 3. Lượm bạc cắc: Tốc độ các ngón tay không đủ, người ta còn cần phải phối hợp giữa chuyển động của cánh tay và động tác nắm chộp. Bài tập lý tưởng để phát triển khả năng này khó hơn người ta tưởng. Các đồng tiền được trải trên bàn một cách lộn xộn, bạn dùng một tay lượm một đồng và bỏ vào tay bên kia. Bạn tiếp tục đến khi hết 50 đồng tiền. Tuy có vẻ đơn giản, nhưng đây là một bài tập phối hợp rất quan trọng: tốc độ, tiềm lực, phối hợp cánh tay và ngón tay, sự chính xác của cử động, sự tập trung và quyết đóan. 4. Ngắt lá Đây là một bài tập tương tự như bài trước nhưng đòi hỏi chính xác và tế nhị hơn trong các động tác. Trong vòng 30 giây bạn ngắt lá càng nhanh càng tốt và tránh để cho lá bị hư hại. Rồi bạn đặt lá vào tay kia. Sau 30 giây bạn hãy đếm xem mình đã hái được bao nhiêu lá. Sau một thời gian luyện tập số lá hái được sẽ nhiều hơn, chứng tỏ bạn có tiến bộ. Loại bài tập này khó hơn bài Lượm bạc cắc vì lá mọc theo nhiều góc độ khác nhau. B. LUYỆN KÌNH LỰC Nếu các kỹ thuật tiểu cầm nã (nhằm vào các ngón tay, ngón chân) không đòi hỏi nhiều khí lực để thực hiện, thì ngược lại, khi cần phải khóa cổ tay, cánh tay, vai, không thể không dùng đến khí lực. Sau đây là một số bài luyện khí lực cho hai tay: 1.Bắt không Trong nhiều môn phái có bài tập loại này. Mục đích của nó là phát triển Ý của hành giả vì Ý nghĩa là sự tập trung cao độ dẫn khí đến cơ bắp. Loại công phu này cũng tương tự như Dịch Cân Kinh của Tổ sư Đạt Ma. Cách tập: Bàn tay mở ra, bạn tập trung ý vào các ngón rồi co từng ngón tay một cho đến khi tay bạn trở thành quyền (Hình 2-11). Hình 2-11 Bạn lại mở tay ra và lập lại (Hình 2-12). Để thực hiện bài tập bạn vào thế tấn mã bộ, tấn pháp vững vàng, thần khí an nhiên, hơi thở điều hòa (Hình 2-13, 2-14, 2-15). Hai tay chéo vào nhau trước ngực, xoay lòng bàn tay về phía trước. Khi thực hiện động tác Bắt không (Hình 2-14, 2- 15) số lần tùy theo thể trạng. Khi phóng tay chộp bạn thở ra và hít vào khi đưa tay về lại trước ngực để tiếp tục. Hình 2-12 Hình 2-13 Hình 2-14 Hình 2-15 Hình 2-17 đến 2-21 Trong các hình 2-17 đến 2-21, hành giả vào thế mã bộ nghiêng người và xoay tay chộp theo kiểu Đại bàng trảo, bạn nhớ rút tay tròn về và xoay hông về phía trái trước khi thi triển Đại bàng trảo bằng cả 5 ngón hoặc chỉ 3 ngón. 1.Nắn cành (hay bóp lò xo) Trong nhiều môn phái người ta thường dành bài tập này để tăng cường khí lực của bàn tay. Thông thường người ta dùng một nạng cây để luyện công. Thời nay các tiệm bán dụng cụ thể thao có những dụng cụ thích hợp. Dù sao bạn cũng nên lưu tâm tập chú vào các cơ để dẫn khí đến nơi cần thiết. (Hình 2-22) Hình 2-22 [Với thời gian kình lực của cái bắt tay của bạn mạnh lên. Thế nhưng, vì quá tham lam tăng số lần luyện tập, đã có người bị tê cứng các ngón tay do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc acide lactique không được giải tỏa kịp thời]. 2.Hít đất Bài tập này nhằm hai mục đích khác nhau: -luyện ngưu lực -luyện sức bền ·Để bắt đầu tăng ngưu lực, bạn hít đất 20 lần và cứ thế tăng dần đến khoảng 50 lần. Sau đó bạn hít đất với 4 ngón, rồi 3, rồi 2. Điểm tột cùng là 2 ngón cái và 20 lần đẩy. Giai đoạn tiếp, là khi đang ở thế duỗi 2 cánh tay, bất chợt vỗ tay rồi lại vào tư thế như trước. Khi bạn có thể dễ dàng vỗ tay một lần bạn tăng thêm 1 lần vỗ, rồi 1 lần nữa. Điều này không những tăng cường gân, cơ bắp mà còn giúp luyện tốc độ và khả năng tập trung. Hình 2-23 ·Để luyện sức bền, bạn chỉ cần hạ người xuống thấp (Hình 2-23), thoạt tiên là 2 phút và cứ thế tăng dần. Làm như vậy bạn sẽ tăng khả năng duy trì lực co của các cơ bắp, các dây chằng và gân cốt. Xoắn không, bẻ cành Vào thời trước, cây cối là thứ mà các hành giả Trung Hoa có được một cách dễ dàng nhất để làm dụng cụ luyện tập đó là lý do tại sao ngoài việc hái lá, bóp nạng, họ còn xoắn cành để luyện các ngón tay, cổ tay và cánh tay. Khi thực hiện bài tập này với các nhánh cây, bạn nên bắt đầu với những cành tương đối mảnh và tăng dần kích thước tùy theo sự gia tăng khí lực của bạn. Trong các giai đoạn luyện tập nên lưu ý đến các loại cây khác nhau: Cùng kích thước, sức chịu đựng của chúng rất khác nhau từ loại này đến loại khác. Các bạn hãy nhớ khi bắt đầu các bài tập này là phải rất cẩn thận và không bao giờ khiên cưỡng trong việc phát triển khí lực và làm gia tăng sức chịu đựng của biểu bì. Tăng tốc độ thực hiện một cách từ tốn và tránh mình bị tổn thương, điều nên làm là bắt đầu loại công phu này bằng việc xoắn tay trong không khí và phối hợp ý với các cơ của ngón tay. Chỉ khi nào đã luyện thành kỹ thuật xoắn tay không, ta mới bắt đầu dùng đến các nhánh cây. Xoắn qua trái Tại sao hai chân đứng song song ? Khi bạn thực hiện các bài tập xoắn không, bạn vào thế với hai bàn chân đứng song song. Đây là một tư thế thường thấy khi luyện võ. Có nhiều lý do để làm như vậy, trước tiên tư thế này ổn định hơn thế đứng tự nhiên. Mặt khác, vị trí song song của hai bàn chân tạo ra một thế căng ở hai mắt cá và điều này làm tăng việc luân chuyển của khí. Điều này giúp tăng cường khí trầm Đan điền. Sau hết, với tư thế này, các huyện đạo nằm bên mặt trong của chân được bảo vệ tốt hơn. Điều này là rất thiết yếu, vì tất cả các huyệt này dễ bị tổn thương hơn các huyệt nằm trên mặt ngoài của chân. Hình 2-24 Hình 2-25 Lúc công phu, bạn hãy nhìn vào một điểm xa phía trước. Điều này sẽ giúp bạn tập trung tốt hơn và mở rộng tầm ý của bạn. Sau đó bạn tập trung vào các ngón tay, cổ tay, cánh tay, là những thành phần chính yếu của động tác xoắn. Và cuối cùng bạn sẽ cảm nhận được là tất cả toàn thân bạn tham gia vào động tác này (Hình 2-24, 2-25). Sau một thời gian công phu, bạn sẽ cảm nhận được là các phần thân thể tham gia vận động nóng lên. Đó là dấu hiệu khí tăng lên và bạn sẽ cảm thấy uy lực xoắn của mình gia tăng bội phần. Hình 2-26 Chỉ sau khi luyện như vậy nhiều tháng, bạn mới có thể luyện tập với các nhánh cây (hình 2- 26). Một lần nữa, xin nhắc các bạn, đừng nóng vội. Lúc đầu hãy làm những động tác chậm và nhanh dần một cách từ từ. Xin hãy nhớ luyện công một cách khôn ngoan, hãy đề phòng tính kiêu căng hiếu thắng [Hãy coi chừng tẩu hỏa nhập ma]. Xoắn qua phải Hình 2-27 Hình 2-28 Bài tập này cũng giống như bài tập trước. Động tác xoắn và chi tiết của bàn tay đang hoạt động được minh họa trong các hình 2-27, 2-28. Động tác xoắn trên một nhành cây được minh họa trong hình 2-29. Hình 2-29 Xoắn và đè hình 2-30 Hình 2-31 Động tác đặc thù này được minh họa trong hình 2-30 với chi tiết của bàn tay đang hoạt động (Hình 2-31). Thật khó có thể cảm nhận được một động tác kỹ thuật chỉ với hình ảnh, tuy nhiên về khía cạnh này, tác dụng đạt được trên các nhánh cây (Hình 2-32) là khá rõ và cho phép hiểu được mục đích của bài tập. Hình 2-32 Xoắn và nâng Hình 2-33 Hình 2-34 Bài tập này được tạo ra để tăng khả năng nắm giữ của ngón tay út và ngón trỏ. Động tác của bài tập được minh họa trong hình 2-33, 2-34 và việc áp dụng trên nhánh cây trong hình 2-35, 2-36. Hình 2-35 Hình 2-36 cách thả và bắt tạ để luyện tốc độ và phản xạ Bắt đá Thời xưa tại Trung Quốc, các hành giả luyện công với nhiều loại tạ khác nhau và cách luyện này rất phổ biến, nhất là trong các võ phái miền Nam, chuyên về sử dụng đòn tay. Thường người ta dùng loại tạ nặng từ 15-30 kg có hình dáng một ổ khóa (loại khóa Trung Hoa) nhằm luyện tốc độ, cường lực và sự phối hợp giữa các ngón tay, cổ tay và cánh tay. Chỉ cần đu đưa quả tạ bằng đá ném lên rồi chụp lại đúng vào chỗ tay cầm của nó. Còn nhiều cách tập luyện khác với loại tạ đó nhưng vì tại phương Tây không tìm đâu ra loại tạ này cho nên chúng ta sẽ không mất thời giờ nhiều với nó. Trong thực tế, các bạn có thể luyện tốc độ, cường lực và sự phối hợp các động tác tay cũng như với tia nhìn, với một dụng cụ đơn giản hơn nhiều: một cục “táp lô” thường dùng trong xây dựng. Bạn hãy kiếm một phiến gạch xây dựng khoảng 10 kg với bề ngang có thể nắm được bằng hai bàn tay và thực hiện các bài tập sau đây: - Thả rớt: Đây là bài tập đơn giản nhất, bạn vào thế trung bình tấn và nắm viên “táp lô” trước mặt. Bạn nhấc nó lên rồi thả rơi rồi chụp nó lại trước khi nó chạm đất. Khi đã quen với viên “táp lô” sức nặng và tốc độ của nó, bạn hãy kiếm một viên lớn hơn và cứ như thế - Thả rớt – vỗ tay: Bài tập này gồm bài tập trên. Chỉ khác là sau khi thả viên gạch, bạn vỗ tay trước khi bắt lại nó. Sau đó, khi bài tập trở nên dễ thực hiện, bạn có thể tăng số vỗ tay hoặc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcam_nang_thu_ki_thuat_va_cach_luyen.pdf
Tài liệu liên quan