Câu hỏi - Đáp án về thị trường tài chính

Trong một thị trường hiệu quả, cạnh tranh dẫn đến tình trạng giá cả các loại chứng khoán phản ánh tất cả các loại thông tin: cả những thông tin về những sự kiện đã xảy ra và cả những thông tin mà thị trường kì vọng sẽ xảy ra trong tương lai. Nói một cách khác, trong một thị trường hiệu quả, ở bất kì thời điểm nào, giá cả thực tế của một loại chứng khoán luôn là một dấu hiệu hoàn hảo về giá trị thật sự của nó.

Ví dụ: tin một công ty dầu lửa phát hiện ra mỏ dầu mới có trữ lượng lớn được công bố lúc 10 giờ sáng ngày hôm nay thì ngay lập tức thông tin đó sẽ được phản ánh vào giá cả khiến cho nó được đẩy lên ở mức thích hợp.

Ở Mỹ đã có những nghiên cứu đo lường tốc độ của sự điều chỉnh giá cả và kết quả là chỉ có thể kiếm được lợi nhuận khi mua chứng khoán trong vòng 30 giây sau khi thông tin mới được công bố rộng rãi.

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4792 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Câu hỏi - Đáp án về thị trường tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thị trường cho vay dưới chuẩn một thời gian dài nên con số vay nợ nước ngoài hàng năm của Mỹ tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 2000 Mỹ vay nợ nước ngoài có 300 tỷ USD thì 2006 đã vay 700 tỷ và 2007 lên tới 800 tỷ USD. Có vay có trả và nay đến lúc Mỹ phải tính đến những khoản nợ đó. Khi nền kinh tế Mỹ mất ổn định thì các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách rút tiền về nước để bảo toàn đồng vốn. Nếu họ rút ồ ạt thì đồng đô la sẽ mất giá mạnh và các nước sẽ khó xuất khẩu vào Mỹ được. Mặt khác khi người dân lo sợ đua nhau rút tiền ra khỏi ngân hàng thì nhiều ngân hàng có nguy cơ phá sản hàng loạt. Chính vì vậy chính phủ cần có những chính sách kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế để có thể giảm thiểu các rủi ro, cũng như phần nào tránh được cuộc khủng hoảng hiện tại. Anh: Chính phủ Anh công bố biện pháp giải cứu 50 tỷ bảng (88 tỷ USD) nhằm quốc hữu hóa 1/8 ngân hàng lớn nhất nước này và xây dựng các công trình xã hội. Ngược lại, chính phủ sẽ nhận được số cổ phiếu từ các thể chế tài chính này. Thêm vào đó, 200 tỷ bảng Anh sẽ dành cho Bank of England để ngân hàng này tăng tính lưu động thanh khoản cần thiết. Một công ty đặc biệt cũng được thành lập nhằm cung cấp 250 tỷ bảng về vốn vay đảm bảo cho các ngân hàng và xây dựng các công trình xã hội. Động thái này được đưa ra ngay sau khi cổ phiếu của Bank of England ngà(07/10/08) sụt giảm nghiêm trọng và Phòng thương mại Anh (BCC) đưa ra cảnh báo rằng Anh đã chính thức rơi vào suy thoái với số người thất nghiệp có thể lên đến 350.000 người vào năm tới.  Chính phủ Anh đã tăng bảo hiểm cho những người gửi từ 35.000 bảng (62.000 USD) lên 50.000 bảng từ hôm 07/10/08. Biểu đồ gói giải cứu của Chính phủ Anh Đức: Các ngân hàng tiết kiệm sở hữu nhà nước của Đức báo cáo, họ đang bị  ngập lụt vì số tiền gửi mới khi người dân nước này đổ xô đi gửi tiền nhằm tìm kiếm một tài khoản an toàn hơn trong đó họ được bảo đảm 100% về giá trị.  Nhà cho vay BĐS thương mại lớn thứ 2 nước này- Hypo Real Estate tuần trước vừa bị đe dọa sẽ bị phá sản sau khi lâm vào tình cảnh đối chọi với lượng khổng lồ tiền nợ xấu. Chính phủ đã phải ra tay cứu trợ ngày 05/10/08 vì lo sợ ngân hàng này sẽ phán sản với gói giải cứu trị giá 50 tỷ euro (68 tỷ USD)- tăng thêm 15 tỷ euro so với gói giải cứu lần trước.  Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel phát biểu: “Đối với những người nào tiến hành kinh doanh bất cẩn một cách vô trách nhiệm sẽ bị phạt”. Tây Ban Nha: Thủ tướng Tây Ban Nha Jose Luis Rodriguez Zapatero hôm 08/10/08 quyết định gia tăng bảo hiểm tiền gửi ngân hàng lên 100.000 euro (136.000 USD) từ mức hiện tại 20.000 euro.  Ông Zapatero phát biểu với các ngân hàng hàng đầu trong nước rằng Chính phủ sẽ tiến hành các biện pháp ngay lập tức để tăng bảo hiểm tiền gửi nhằm thúc đẩy niềm tin trong hệ thống tài chính. Tây Ban Nha cũng đã kêu gọi một hành động chung của Châu Âu nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu này. Nga: Các nhà lãnh đạo của Nga đổ lỗi tính vô trách nhiệm của Mỹ chính là nguyên nhân gây ra bão tố tài chính hiện nay. Thị trường chứng khoán nước này đã buộc phải ngừng 2 phiên giao dịch vì cổ phiếu RTS và MICEX sụt giảm nghiêm trọng, hơn 10% ngay khi bắt đầu phiên giao dịch. Ngày 08/10/08, Tổng thống Dmitry Medvedev trong cuộc họp khẩn cấp tại Điện Kremlin , đã công bố chi 950 tỷ rub (36,4 tỷ USD) trong gói trợ giúp dài hạn cho các ngân hàng nhằm vực dậy tính thanh khoản. Việt Nam - Đưa ra gói kích cầu của chính phủ là 6 tỷ USD: đây là một cố gắng lớn của Chính phủ trong điều kiện ngân sách còn bội chi lớn, mức dự trữ ngoại hối của quốc gia còn mỏng. Đây không chỉ là sự nhạy bén trong việc dự đoán tình hình, chuyển hướng mục tiêu ưu tiên với những giải pháp có liều lượng cao, nhằm chủ động hạn chế tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thể hiện quyết tâm cao trong việc ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Kích cầu vào các lĩnh vực để tiêu thụ sản phẩm đang bị ứ đọng lớn (than, sắt thép, xi măng, phân bón, một số nông sản quan trọng…), những mặt hàng xuất khẩu lớn đang có thị trường. Kích cầu vào các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động để giải quyết công ăn việc làm, để tạo sức mua có khả năng thanh toán của dân cư, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người bị mất việc, những người làm công ăn lương. - Hổ trợ 4 % lãi suất Ngân hàng: Trong năm 2009, các tổ chức, cá nhân vay vốn sản xuất kinh doanh sẽ được ngân hàng trừ 4% lãi vay. Mức lãi suất hỗ trợ khách hàng vay là 4%, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế, nằm trong khoảng thời gian từ 1/2 đến 31/12. Ngoại trừ 13 đối tượng không thuộc diện hỗ trợ lãi suất, tất cả các cá nhân, doanh nghiệp, hộ gia đình, hợp tác xã vay vốn lưu động để sản xuất kinh doanh đều được ngân hàng giảm lãi suất theo quyết định của Thủ tướng. Chính phủ kỳ vọng hỗ trợ giảm lãi suất sẽ giúp giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm trong điều kiện nền kinh tế chịu tác động của khoảng hoảng tài chính và suy thoái trên thế giới. - Bảo đảm an toàn hệ thống Ngân hàng: Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, trước những diễn biến mới nhất của khủng hoảng kinh tế Mỹ, hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ trong nước hiện vẫn ổn định, không có biến động lớn.   Đề phòng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng có thể xảy ra, các ngân hàng trong nước đã chủ động rút tiền gửi ở nước ngoài về và gửi một phần vào các ngân hàng có uy tín cao ở Hồng Kông và Singapore để linh hoạt trong sử dụng. Ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược ngân hàng - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: "Thị trường tài chính của chúng ta chưa hội nhập quá sâu nên không chịu nhiều tác động từ khủng hoảng toàn cầu. Vấn đề quan trọng là cho đến giờ, Chính phủ luôn kiểm soát tốt và chặt chẽ toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Còn Ngân hàng Nhà nước cũng kiểm soát được rất tốt toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại của chúng ta trước những biến động của tài chính toàn cầu, vấn đề cốt lõi là chúng ta phải đảm bảo được tính thanh khoản và dự phòng rủi ro của các ngân hàng thương mại trong nước. Điều này đã được Ngân hàng Nhà nước tập trung giải quyết trong suốt 6 tháng qua, và ở vào thời điểm này, hệ thống ngân hàng trong nước đang có tính thanh khoản rất tốt" - Thực hiện giảm thuế, cải cách hành chính: Đối với các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm cũng sẽ được hỗ trợ thông qua việc giảm lãi suất cơ bản và điều hành lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng theo tín hiệu của thị trường và chỉ số giá. Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn trong buổi trả lời họp báo ngày 02/11 cũng cho biết, trong thời gian sắp tới thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được giảm từ 28% xuống 25%, đây sẽ là cơ hội giúp cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư. Đồng thời, sẽ tiến hành một loạt các giải pháp khác nhằm khích thích doanh nghiệp tiếp tục ổn định sản xuất như: Cho phép các tổ chức tín dụng nhân dân cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án có hiệu quả, thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp giãn nợ và áp dụng các giải pháp giãn nợ vay vốn ngân hàng đối với doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Câu 2 : Thị trường hiệu quả là gì? Hãy cho biết tầm quan trọng của tính hiệu quả của thị trường đối với diễn biến giá cổ phiếu? Các nghiên cứu tiền hành trong thời gian gần đây có ủng hộ quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán là hiệu quả hay không? I - Thị trường hiệu quả : Thị trường hiệu quả (effecient market) là nơi mà tại bất kỳ thời điểm nào, tất cả các thông tin mới đều được những người tham gia thị trường nắm bắt và tức thì được phản ánh vào trong giá cả thị trường. Giả thuyết thị trường hiệu quả là một giả thuyết của lý thuyết tài chính cho rằng giá cả trên các thị trường có tính chất đầu cơ, đặc biệt là thị trường chứng khoán phản ánh đầy đủ mọi thông tin đã biết, hay nói cách khác, phản ánh đầy đủ kỳ vọng của các nhà đầu tư. Khái niệm hiệu quả ở đây được dùng với hàm ý hấp thụ thông tin nhanh chóng chứ không phải các nguồn lực tạo ra sản lượng tối đa như trong các lĩnh vực kinh tế học khác. Thông tin cũng được hiểu là những tin tức có thể ảnh hưởng đến giá cả và không dự đoán trước được. Các dạng thị trường hiệu quả : Thị trường yếu: là dạng thị trường mà thị giá của các chứng khoán hoàn toàn không phản ánh hay không bao hàm tất cả các thông tin về các chứng khoán. Nhà đầu tư chủ yếu kiếm lợi nhuận thông qua việc tận dụng của thông tin bất cân xứng. Nghĩa là, nhà đầu tư (NĐT) nào có nhiều thông tin chính xác hơn thì NĐT đó khả năng thu được lợi nhuận cao. Thị trường trung bình: là thị trường cho rằng giá chứng khoán sẽ điều chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào, tức là, mức giá hiện tại phản ánh đầy đủ mọi thông tin công khai. Thông tin công khai cũng bao gồm tất cả các thông tin phi thị trường như: các thông báo về thu nhập và cổ tức, tỷ lệ P/E, tỷ lệ D/P, tỷ lệ thư giá/ thị giá, chia cổ phần, các thông tin về kinh tế cũng như chính trị. Giả thuyết này có ý nghĩa rằng các nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên các thông tin mới sau khi nó được công bố sẽ không thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi mức giá chứng khoán này đã phản ánh mọi thông tin công khai đó. Thị trường mạnh: là dạng thị trường mà thị giá của các chứng khoán phản ứng lại hoàn toàn hay thị trường hàm chứa một cách đầy đủ các loại thông tin của các chứng khoán đang giao dịch trên thị trường hay tình trạng thông tin bất cân xứng liên quan đến giá chứng khoán khó xảy ra trên dạng thị trường này. Đây là thị trường hoàn hảo nhất cho các nhà đầu tư cũng như các nhà quản lý, và nó chỉ tồn tại ở các thị trường chứng khoán có lịch sử phát triển lâu đời, đồng thời có sự quản lý tốt của các nhà quản lý thị trường. II - Tầm quan trọng của thị trường hiệu quả: - Giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu: Trong một thị trường hiệu quả, cạnh tranh dẫn đến tình trạng giá cả các loại chứng khoán phản ánh tất cả các loại thông tin: cả những thông tin về những sự kiện đã xảy ra và cả những thông tin mà thị trường kì vọng sẽ xảy ra trong tương lai. Nói một cách khác, trong một thị trường hiệu quả, ở bất kì thời điểm nào, giá cả thực tế của một loại chứng khoán luôn là một dấu hiệu hoàn hảo về giá trị thật sự của nó. Ví dụ: tin một công ty dầu lửa phát hiện ra mỏ dầu mới có trữ lượng lớn được công bố lúc 10 giờ sáng ngày hôm nay thì ngay lập tức thông tin đó sẽ được phản ánh vào giá cả khiến cho nó được đẩy lên ở mức thích hợp. Ở Mỹ đã có những nghiên cứu đo lường tốc độ của sự điều chỉnh giá cả và kết quả là chỉ có thể kiếm được lợi nhuận khi mua chứng khoán trong vòng 30 giây sau khi thông tin mới được công bố rộng rãi. Thuyết thị trường hiệu quả là một trong những giả định đầu tiên nhưng khá tốt trong việc xác định phương thức giá cả các loại cổ phiếu phản ứng với lại với các thông tin trong một thị trường tự do. Thực tế việc thông tin được hấp thụ một cách nhanh chóng vào giá cổ phiếu và việc các cửa sổ cơ hội đầu tư luôn mở ra với cả thị trường là một trong những luận điểm sắc bén nhất cho việc bảo đảm thị trường không giao dịch với chi phí bị đẩy lên quá cao. Chính các nhà đầu cơ, ở một khía cạnh tốt đẹp nào đó, là những người quan trọng giúp giá cả trên thị trường luôn không đi quá xa khỏi giá trị kinh tế đích thực… - Công khai, công bằng, minh bạch: Một thị trường "hiệu quả" là nơi có một số lượng khổng lồ những NĐT tối đa hóa lợi nhuận một cách khôn ngoan đang cạnh tranh hết sức sôi nổi với nhau và luôn nỗ lực để dự đoán trước giá trị thị trường tương lai của từng loại chứng khoán. Đó là nơi mà các thông tin hiện có được "phơi bày" tối đa đối với tất cả mọi người.. - Bảo vệ nhà đầu tư: Có rất nhiều ẩn ý của giả thuyết thị trường hiệu quả trên thực tế khá rõ ràng. Hầu hết các nhà đầu tư hay giao dịch cá nhân đều mua bán cổ phiếu với sự tự giả định rằng các chứng khoán họ mua đều có giá trị hơn cái giá họ phải trả, trong khi các chứng khoán mà họ bán lại không có giá trị bằng giá mà họ bán ra. - Lượng hóa quan hệ cung cầu: giống như hiện tượng "nước chảy chỗ trũng", khi thị trường trở nên kém hiệu quả, quy luật cung cầu trên thị trường do nhà đầu tư cạnh tranh lẫn nhau khai thác các hiện tượng đã được nhận biết để kiếm lợi nhuận. Và chính điều này sẽ đưa thị giá trở về trạng thái cân bằng, đồng thời xóa bỏ hiện tượng đó. Thị trường khi đó sẽ bắt đầu phát sinh những hiện tượng mới và trở thành thị trường hiệu quả ở hình thái mạnh bởi những hiện tượng, quy luật mới chưa được nhà đầu tư nhận biết. - Kiểm tra giám sát của nhà nước: Nhà nước điều tiết thị trường thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ điều tiết khác, bao gồm: quan điểm, chiến lược phát triển, pháp luật, kế hoạch và quy hoạch phát triển, chính sách, bộ máy và cán bộ quản lý,… Quản lý nhà nước kích thích được sự hợp tác, liên kết, hỗ trợ nhau giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Phân tích xu hướng giá trên thị trường: Khi tất cả thông tin cảnh báo khi thị trường tăng nóng, chứng khoán vượt quá giá trị thật đã được nhà đầu tư nhận biết và sự cạnh tranh của họ đã đưa thị trường trở lại trạng thái cân bằng. Ngược lại, khi thị trường giá lên là do NĐT nhận thấy, chứng khoán trở nên rẻ hơn so với giá trị nội tại, đồng thời những thông tin về doanh nghiệp, về thị trường nói chung đã làm NĐT bắt đầu mua vào và cũng chính sự cạnh tranh của nhà đầu tư đã hình thành thị trường hiệu quả mạnh thoát khỏi hình thái thị trường hiệu quả yếu. III - Các nghiên cứu gần đây có ủng hộ rằng thị trường chứng khoán (TTCK) là hiệu quả hay không? Tuy có những chức năng hữu ích như trên, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy, giả thuyết thị trường hiệu quả không giải thích được một cách thuyết phục những hiện tượng sau: Sự sụt giảm mạnh mẽ của giá cả chứng khoán trong những thời điểm nào đó ví dụ như đã xảy ra ở thị trường chứng khoán Mỹ từ 15 tháng 10 đến ngày Thứ Hai Đen 19 tháng 10 năm 1987. Khi nhà kinh tế học James Tobin nói rằng: “không có một yếu tố hữu hình nào có thể tạo ra sự chênh lệch đến 30% trong giá trị cổ phiếu” thì các lý thuyết gia của thị trường hiệu quả không thể đưa ra được lập luận phản bác. Giả thuyết thị trường hiệu quả tỏ ra đúng với những cổ phiếu riêng rẽ chứ không hoàn toàn đúng đối với toàn bộ thị trường. Thị trường chứng khoán trong dài hạn có những biến động tự đảo ngược rõ rệt mà nhiều nhà kinh tế học cho rằng đó là kết quả của tâm lý chung của hầu hết những người tham gia thị trường. Khi thị trường bị ảnh hưởng bởi làn sóng tâm lý thì trên góc độ vĩ mô không một nỗ lực cá nhân nào có đủ nguồn lực để đảo ngược. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, đã có rất nhiều lý thuyết dày công nghiên cứu phương pháp đầu tư có lợi nhuận cao trên thị trường này như phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật... hay các quy tắc mua sau khi giá tăng 2 ngày; mua khi có tin xấu, bán khi có tin tốt...Tuy vậy kết quả của nó không thỏa mãn mong muốn của những nhà đầu tư. Một nghiên cứu về hoạt động của những nhà môi giới chứng khoán đã dẫn đến kết luận rằng tính trung bình, lợi nhuận đem lại từ các danh mục đầu tư do họ thực hiện cũng không hơn một danh mục đầu tư được lựa chọn ngẫu nhiên. Những nghiên cứu về xu hướng giá của thị trường chứng khoán sử dụng số liệu thống kê trong nhiều năm cũng rút ra: chỉ có một điều chắc chắn đối với giá cổ phiếu là chúng lên xuống rất thất thường. Nói tóm lại, những nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua đưa đến kết luận không thể kiếm lợi nhuận cao trên thị trường chứng khoán bằng các quy tắc hay công thức bởi vì nhìn chung nó cũng không tốt hơn một cơ cấu đầu tư chứng khoán được đa dạng hóa và lựa chọn ngẫu nhiên. Tóm lại, những phương pháp dùng để phân tích đầu tư chứng khoán đều có những ưu điểm và nhược điểm. NĐT phải lựa chọn, sử dụng phương pháp nào phù hợp với bản thân và ở từng thời điểm của thị trường. Có thời điểm sử dụng phương pháp này là phù hợp, còn phương pháp kia không phù hợp nữa. Tuy nhiên, để đầu tư thành công, ngoài việc có phương pháp phân tích tốt, NĐT còn phải biết sử dụng chúng sao mang lại kết quả. Biết phối hợp tất cả các phương pháp phân tích đầu tư lại với nhau sẽ chính là phương pháp mang lại hiệu quả cao nhất Câu 3: Hãy xác định các chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán phái sinh trong nền kinh tế và giải thích các chứng khoán phái sinh có thể bị sử dụng một cách sai mục đích như thế nào? I - Khái niệm chứng khoán phái sinh: Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ phiếu, trái phiếu như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong khi thị trường chứng khoán còn rất bao la, mà cổ phiếu, trái phiếu chỉ là một vài trong số những “món đồ chơi” ở đây. Còn vô số những khái niệm và công cụ đầu tư khác phải kể đến, mà chứng khoán phái sinh chính là yếu tố quan trọng đầu tiên không thể bỏ qua. Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là: Hợp đồng kỳ hạn (forwards): là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, tiền tệ cho tới các chứng khoán Hợp đồng tương lai (futures): là việc thoả thuận giữa các bên về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó Quyền chọn (options): bao gồm quyền chọn mua (call option) và quyền chọn bán (put option). Quyền chọn mua (call option) là quyền mua một tài sản xác định vào/trước một ngày xác định tại một mức giá thiết lập trước. Quyền chọn bán (put option) là quyền bán một tài sản xác định vào/trước một ngày xác định tại một mức giá thiết lập trước. Hợp đồng hoán đổi (swaps): Hợp đồng hoán đổi là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có hợp đồng hoán đổi để ấn định tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Ngoài ra, hợp đồng hoán đổi cũng rất hiệu quả trong việc huy động vốn II - Chức năng cơ bản của giao dịch chứng khoán phái sinh Thông qua các công cụ của mình, chứng khoán phái sinh có các chức năng hữu ích như sau: a) Dẫn vốn chủ thể thừa sang chủ thể thiếu: Ta nhận thấy rằng hợp đồng hoán đổi rất hiệu quả trong việc huy động vốn. Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã thoả thuận một hợp đồng hoán đổi với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng, Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn. b)Giải quyết lợi ích: Đặc biệt thông qua nghiệp vụ hoán đổi, có thể giúp giải quyết lợi ích cho các bên như sau: nghiệp vụ hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung. Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suát cố định , nhưng lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi. Giao dịch hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân hàng, doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất hiện công cụ này vào đầu thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho các bên cụ thể có nhu cầu cần bổ sung cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại diện trong các giao dịch này. Thị trường càng phát triển, ngân hàng tham gia với vai trò chủ chốt, thực hiện những bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang nhau và đối nghịch. Thu nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận được, hoặc phí trả trước để giàn xếp. c) Tạo tính thanh khoản cho các công cụ phái sinh Thông qua quyền chọn mua và quyền chọn bán, góp phần tăng thêm tính thanh khoản cho các công cụ phái sinh Người mua quyền chọn trả một khoản tiền cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai (hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua. Ví dụ: Giá cổ phiếu của ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ lên khoảng 200.000 đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000 đồng để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không đúng như dự báo bị giảm xuống còn 60.000 đồng thì nhà đầu tư bị lỗ: 40.000.000 đồng. Trong trường hợp này, để vừa giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Quyền chọn mua, cụ thể: mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000 đồng/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000 đồng/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000 đồng. Trong thời gian 3 tháng trên, nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000 đồng/cổ phiếu thì bạn sẽ thu được: 1000 cổ phiếu x 200.000 đồng = 200.000.000 đồng tức là bạn lãi 100.000.000 đồng – 20.000.000 đồng phí mua quyền chọn = 80.000.000 đồng. Trong thường hợp giá cổ phiếu của AB không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất 20.000.000 đồng tiền phí quyền chọn mua. Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai. Ví dụ: Nhà đầu tư là người nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000 đồng/cổ phiếu thì sẽ bị mất 30.000.000 đồng. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000 đồng/cổ phiếu = 20.000.000 đồng để đảm bảo rằng cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán được 100.000 đồng/cổ phiếu. Tức là nếu như giá cổ phiếu giảm xuống dưới 100.000 đồng/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao hơn mức giá của cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó. d) Tăng hấp dẫn cho chứng khoán gốc Quyền chọn được phát minh dựa trên yếu tố các nhà đầu tư ưa thích cảm giác an toàn khi họ chắc chắn họ sẽ được mua và bán với giá ấn định, họ thu lợi nhuận không cao nhưng bù lại sẽ rất ổn định. Đối tượng của quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản. quyền chọn có thể được mua bán trên thị trường tập trung như Thị trường quyền lựa chọn cổ phiếu Chicago - CBOE, thị trường hợp đồng tương lai quốc tế London - LIFFE hay các thị trường phi tập trung OTC.  Có thể nói, các công cụ phái sinh đang ngày một phổ biến và được áp dụng nhiều hơn bao giờ hết đối với tất cả các hàng hoá chính trên thị trường chứng khoán, từ cổ phiếu, trái phiếu cho đến tiền tệ và hàng hoá như sắt, năng lượng, sản phẩm nông nghiêp…. Sự phố biến của các công cụ phái sinh trên thị trường xuất phát từ tính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCâu hỏi - Đáp án về chứng khoán.doc
Tài liệu liên quan