Châu Á khu vực kinh tế phát triển năng động và tiềm tàng của một trung tâm kinh tế thế giới

Trong gần hai thập kỷ sau cuộc chiến Việt nam,quan hệ thương mại Mỹ-Việt vẫn còn băng giá với việc Mỹ áp đặt cấm vận thương mại đối với Việt nam.Tiếp theo những bước đột phá tăng tiến trong cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 về vấn đề tù binh Mỹ(POW) và lính Mỹ mất tích(MIA) tại Việt nam,Oasinhton và Hà nội từng bước bình thường hoá quan hệ.Năm 1994,tiếp theo việc nới lỏng sơ bộ một số hạn chế,tổng thống dành cho Việt nam việc miễn áp dụng các điều khoản của luật sửa đổi Jackson Vanik (bao gồm trong đạo luật thương mại năm 1974,mục IV,khoản 402)một luật cấm tổng thống khôi phục quy chế MFN cho các nước XHCN cũ được lựa chọn nếu không đáp ứng được những yêu cầu nhất định liên quan đến tự do cư trú.trong hai năm 1998&1999,hai viện của Quốc hội đã đánh bại các quyết định phủ quyết việc miễn áp dụng của tổng thống,mở đường cho OPIC và EXIMBANK ủng hộ giới kinh doanh Mỹ xuất khẩu sang Việt nam và hoạt động tại Việt nam.

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Châu Á khu vực kinh tế phát triển năng động và tiềm tàng của một trung tâm kinh tế thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp, hội nhập hoàn toàn các xí nghiệp của VN vào nền kinh tế toàn cầu, và về kinh tế trao quyền hợp pháp cho cá nhân. Về mặt chiến lược, Chính quyền lập luận rằng cùng với các BTA mới hoàn tất với Campuchia và Lào, BTA Mỹ -VN sẽ khuyến khích sự ổn định khu vực thông qua việc hội nhập một cách êm ả Đông Dương vào cộng đồng toàn cầu và khu vực. ChươngII Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam và Mỹ từ 1991đến nay I Lịch sử và thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt -Mỹ từ 1991 cho đến trước khi ký kết hiệp định thương mại. 1.1 Giai đoạn trước khi bình thường hoá (1991-1994) Tháng 4/1991, chính quyền BUSH đã trao cho các quan chức VN một lộ trình trong đó vạch ra những bước mà VN và Mỹ, mỗi bên sẽphải thực hiện để tiến tới bình thường hoá các quan hệ đã bị đình chỉ về căn bản kể từ khi kết thúc chiến tranh năm 1975. Theo lộ trình này, sự tiến bộ vcủa VN trong việc giúp giải quyết vấn đề POW/MIA là các vấn đề khác sẽ được Mỹ đáp lại bằng một loạt những bước cụ thể nhằm mở rộng các quan hệ. Lộ trình này gồm 4 giai đoạn mà kết thúc bằng việc Mỹ sẽ thiết lập các quan hệ ngoại giao, cấp địa vị buôn bán tối huệ quốc và ủng hộ việc các tổ chức tài chính quốc tế (IFI) giúp đỡ các nhu cầu không cơ bản của con người ở VN. Năm 1992, Mỹ đã cung cấp3 triệu USD viện trợ nhân đạo cho Việt Nam đồng ý tái thiết liên lạc viễn thông trực tiếp với VN, đồng ý cho phép các công ty thương mại Mỹ bán hàng để đáp ứng nhu cầu con người cơ bản ở VN và loại bỏ những hạn chế với các dự án ở VN do các tài chính phi chính phủ("NGOs") Mỹ thực hiện. Vào tháng 7 /1993, đáp lại sự tiến bộ của chính phủ VN, Mỹ đã thôi phản đối việc khôiphục các dự án của IFI. Ngay sau đó, vào tháng9/1993, chính quyền Clinton đã gia hạn thêm lệnh cấm vận thương mại nhưng lại cho phép các công ty Mỹ đâú thầu các dự án phát triển ở VN do IFI tài trợ. 1.2 Giai đoạn sau khi bình thường hoá ( Từ 1994 đến nay) 1.2.1 Bãi bỏ lệnh cấm vận: Tháng 2/1994, tổng thống Clinton đã bãi bỏ lệnh cấm vận buôn bán kéo dài ở VN và tuyên bố cho phép có những giao dịch tài chính thương mại là giao dịch mới khác với VN và các công dân VN. Cùng ngày 3/2 Tổng thống còn tuyên bố ý định cho phép lập các văn phòng phi ngoại giao Washington và HN. Được Mỹ coi như là một điều kiện tiên quyết, một hiệp định giải quyết các tài sản ngoại giao và những yêu cầu còn tồn tại khác đã được ký kết các tài sản ngoại giao và những yêu cầu còn tồn tại khác đã được ký kết tại HN vào ngày 28/1/1995 và chính thời điểm đó các VP này phải có một quan chức phụ trách ngoại thương nào tiếp theo tuyên bố 3/2/1994 là việc xem xét lại địa vị của VN trong hệ thống những quy định kiểm soát xuất khẩu Mỹ. 1.2.2 Thiết lập các quan hệ ngoại giao. Vào ngày 11/7/1995, tổng thống Clinton đã tuyên bố rằng VN và Mỹ sẽ thiết lập mối quan hệ ngoại giao bằng việc trao đổi đại sứ. Hành động này đã có nhiều hàm ý quan trọng đối với giới kinh doanh Mỹ. Trước khi các đại sứ quán vận hành với đầy đủ chức năng và quan hệ kinh tế được chính phủ Mỹ bảo hộ, tất nhiên sẽ phải hoàn tất. 1.2.3 Đối xử tối huệ quốc Việc thiết lập quan hệ ngoại giao chỉ là sự khởi đầu của một quá trình phải tuân thủ trước khi chính phủ Mỹ có thể mở rộng địa bàn buôn bán tối huệ quốc (MFN) cho VN và trước khi các công ty Mỹ có thể cảm thấy an toàn về các công việc làm ăn và đâù tư của mình ở VN.. Tối huệ quốc đề cập đến một đơn vị buôn bán có tiêu chuẩn công bằng hay bình thường. Đó là sự đối xử không phân biệt mà Mỹ áp dụng với những đối tác thương mại của mình. Đó là tiêu chuẩn nâng đỡ, làm nền tảng cơ sở cho những mối quan hệ thương mại bình thường giữa Mỹ và hầu hết tất cả các đôí tác buôn bán của Mỹ. Hiện nay, Mỹ từ chối đối xử MFN chỉ với một số nước như: Việt Nam, Cuba, Campuchia, Lào, Bắc Triều Tiên, ..Tuy Mỹ có dành MFN cho Lybia và Irắc nhưng việc cấm vận về buôn bán chống lại những nước này đã khiến địa vị tối huệ quốc của họ trở thành vô giá trị. Để phân biệt các sản phẩm được hưởng MFN và các sản phẩm không được hưởng địa vị đó, Mỹ đã duy trì một bản thuế quan gồm hai cột hoặc hai danh sách về các loại thuế. Cột 1 thực tế được phân thành 2 phần chung và đặc biệt,. Phần chung của cột cho thấy thuế suất áp dụng cho những hàng hoá được chế tạo ở những nước được hưởng đại vị tối huệ quốc ; phần đặc biệt của cột liệt kê các thuế quan ưu đãi hoặc đối xử đặc biệt mà Mỹ áp dụng theo các hiệp định thương mại đặc biệt như hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ. Cột 2 cho thấy thuế xuất áp dụng cho những hàng hoá của những nước không được hưởng MFN. Thuế quan của cột 2, trong nhiều trường hợp, hết sức cao. Sự khác nhau giữa thuế suất tối huệ quốc và thuế suất không tối huệ quốc là đáng kể. Đó là vì thuế quan tối huệ quốc được giảm đều đặn theo thời gian do kết quả của các cuộc thương lượng buôn bán nhiều bên trong đó Mỹ và các bạn hàng của Mỹ đồng ý giảm thuế quan mà họ áp dụng cho các hàng hoá của nhau trên cơ sở có đi có lại. Trong khi đó thuế quan ở cột 2 vẫn không thay đổi kể từ khi chúng được định ra lần đầu. Thuế quan tối huệ quốc trung bình của các hàng hoá hoà nhập vào thị trường Mỹ là dưới 4% còn thuế quan trung bình trong cột 2 là trên 50%. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của VN cho đến nay chỉ là cà phê. (VN xuất khẩu gần 30 triệu USD sang Mỹ vào năm 1994, trở thành nước cung cấp lớn thứ 5 của Mỹ). Trước khi có vòng thương lượng của hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) Mỹ chỉ đối xử tối huệ quốc với những nước đã thương lượng các hiệp ước buôn bán tay đôi. Về sau, cùng với việc hình thành GATT Mỹ đã chấp nhận nghĩa vụ của GATT là phải mở rộng địa vị tối huệ quốc vô điều kiện cho tất cả các thành viên của GATT, kể cả những nước mà Mỹ chưa thương lượng một hiệp định buôn bán tay đôi nào. Tuy vậy, những lo ngại về chủ nghĩa cộng sản đã dẫn đến Quốc hội và chính quyền Mỹ đến chỗ đình chỉ tối huệ quốc đối với các nước cộng sản. Theo đạo luật hiện hành ban hành ngày 3/1/1975, tổng thống Mỹ đã phải tiếp tục từ chối đối xử tối huệ quốc với bất cứ nước nào đã bị từ chối địa vị đó vào ngày ban hành đạo luật đó. Vì (Bắc) VN không được hưởng địa vị tối huệ quốc vào ngày 3/1/1975, nên hiện nay VN được yêu cầu phải đáp ứng 3 điều kiện để hàng hoá của mình có thể được hưởng thuế quan tối huệ quốc khi họ có quan hệ buôn bán với Mỹ. Khẳng định hoặc bãi bỏ yêu cầu về di cư: Tổng thống hoặc phải khẳng định được rằng VN đã cho phép các công dân của mình di cư tự do hoặc phải bãi bỏ yêu cầu về di cư đó trên cơ sở cho rằng việc bãi bỏ đó sẽ đẩy mạnh được các mục tiêu di cư của Mỹ. Theo điều 603 của Đạo luật mậu dịch năm 1974, tổng thống có thể khẳng định rằng một nước không có nền kinh tế thị trường không hợp tác với Mỹ để tiến hành kiểm kê đầy đủ những người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh ("MIA" để cho những người còn sống hồi hương hoặc trả lại những di vật của họ. Hiệp định thương mại song phương: Mỹ và VN phải ký với nhau một hiệp định thương mại để dành cho nhau sự đối xử không phân biệt. Loại hiệp định này Mỹ đã thương lượng với nhiều chính phủ cộng sản trước đây và hiện nay đảm bảo bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, việc có sẵn các thủ tục bảo vệ nếu nhập khẩu tăng gây ra đe doạ gây rối loạn thị trường trong nưóc và các tiêu chuẩn phân xử trong trường hợp xảy ra bất đồng buôn bán. Nếu là một hiệp định 3 năm thì phải được cả hai viện quốc hội thông qua. Tuy vậy, một khi được thông qua, nó sẽ tự động gia hạn thêm 3 năm nữa. Phê chuẩn quốc hội: Bước thứ 3 để đối xử tối huệ quốc đối với các hàng xuất khẩu của VN sang Mỹ là sự phê chuẩn của quốc hội đối với hiệp định mậu dịch. Một khi được trình bày cho quốc hội thì hiệp định mậu dịch này có thể bị chất vấn gay gắt cả về lịch sử quan hệ với VN bởi vì quốc hội rất chú ý các vấn đề nhân quyền, như các cuộc tranh luận xảy ra suốt 5 năm qua mỗi khi việc gia hạn địa vị tối huệ quốc của Trung Quốc đặt ra trước Quốc hội đã cho thấy. Cụ thể trong khung cảnh VN, cơ quan nghiên cứu của Quốc hội (CRS) đã lưu ý rằng " Những phàn nàn về việc vi phạm quyền con người" (như bắt bớ tuỳ tiện và ngược đãi) tại VN đã gây xôn xao dư luận quốc tế. Hơn nữa CRS còn chú thích rằng " những hoạch định chính sách trong quốc hội và chính phủ Mỹ luôn nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt của họ tới phần đông tù nhân ở VN, cảnh cáo rằng nhân quyền là một vấn đề trung tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ và cũng không chỉ liên quan đến chính sách đối với VN". 1.2.4 Những thành tựu Ngày 10/3/1998, thư ký báo chí Nhà Trắng ra thông báo cho biết Tổng Thống Bill Clinton đã ký quyết định bãi miễn áp dụng điều luận bổ sung Jackson Vanik đối với Việt Nam. Việc bãi miễn này cùng với các quy định có liên quan và việc bãi bỏ đạo luật viện trợ nước ngoaì và đạo luật Ngân hàng XNK sẽ cho phép Việt Nam tham gia vào các chương trình khuyến khích xuất khẩu có hỗ trợ đầu tư của Mỹ.Trong đó có chương trình liên quan đến Ngân hàng XNK , CTy đầu tư tư nhân ra nước ngoài (OPIC), cục hàng hải (MADRAD) và cơ quan phát triển quốc tế (AID)> Sự hỗ trợ của các CTy này sẽ giúp cho CTy Mỹ đang hoạt động ở Việt NAm cạnh tranh một cách có hiệu quả trên thị trường Việt Nam. Theo đó, Việt Nam và Hoa kỳ cùng hướng tới nhau trong mối quan hệ về nhu cầu XNK các mặt hàng mang tính chất bổ sung lẫn nhau. Hoa Kỳ hướng tới Việt Nam như một thị trường đông dân đầy tiềm năng ở Châu á. Còn Việt Nam hướng tới Mỹ như một thị trường có nền công nghệ kỹ thuật hiện đại và nguồn vốn dồi dào bậc nhất thế giới . Hoa Kỳ đang hướng về Châu á trong khi Việt Nam hướng tới các chuẩn mực thương mại thế giới. Đến nay, hầu hết các hãng lớn như: Microsft, Kilon, Kodak, General, Cocacola, Dial..,. đều đã xuất hiện tại Việt Nam. Mặc dù mới thâm nhập thị trường song các sản phẩm trên đã nhanh chóng chiếm được cảm tình, thu hút thị hiếu của khách hàng Việt Nam.nhờ chiến lược Marketing rầm rộ, chất lượng sản phẩm cao, nguồn vốn lớn..,. Sau khi lệnh cấm vận được huỷ bỏ, hàng Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường Mỹ con đường Chính ngạnh. Bia Sài Gòn hiện đã có mặt ở các tiểu bang Colorado, Washington, Orgon, Kanas..,.. với chất lượng được đánh giá cao hơn hẳn bia Trung Quốc vốn đã có mặt ở thị trường Hoa Kỳ từ rất lâu.. Năm 1995. hãng Bitis cũng đã đặt VPĐD tại New York để mở rộng buôn bán hàng Giày dép sang Hoa Kỳ. Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, con số về giá trị hàng XNK giữa hai nước còn lớn hơn nhiều. Kim ngạch mậu dịch Việt _Mỹ năm 1994 đã tăng lên gần 224 triệu USD so với 62 triệu năm 1993 ( tăng hơn 30 lần) và đạt trên 1 tỷ USD năm 1996. a. Về Thương Mại: Xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ Năm 1994, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ lượng hàng hoá trị giá 50,45 triệu USD trong đó hàng nông nghiệp là 38,3 triệu (chiếm 76% giá trị hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ ) và hàng phi nông nghiệp chỉ chiếm 12,15 triệu (tương ứng 24% ). Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 198,966 triệu USD ( chiếm 76% giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ) và hàng phi nông nghiệp đạt 47,417 triệu USD (24%). Như vậy, xét về mặt cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ trong năm 1994, 1995 là thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ sản,. Trong nhóm này, cà phê chiếm phần lớn với kim nghạch 29,969 triệu USD năm 1994, 145, 174 triệu năm 1995. Hàng Công nghiệp nhẹ của Việt Nam cũng bắt đầu xâm nhập thị trường Mỹ với kim ngạch năm 1995 đạt 24,4 triệu USD trong đó hàng dệt may chiếm chủ yếu gần 20 triệu USD. Năm 1996, chỉ trong 9 tháng đầu năm, giá trị kim ngạch XNK sang Mỹ đạt 232,595 triệu USD trong đó hàng NN chỉ còn chiếm 46% ( 106,5 triệu USD) và hàng phi NN là 54%(126,203 triệu USD). Trong năm 1996, nhóm hàng giày dép đã nổi lên như một điểm sáng với kim ngạch vượt nhóm hàng dệt may. Nhóm hàng CN nặng và khoáng sản đã có bước chuyển biến tích cực. Hai năm 1994-1995 nhóm hàng này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu là xuất khẩu thiếc (1994: 106.000 USD, 1995: 799.000 USD). Trong năm 1996 ta đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Mỹ và đạt trị giá 80,6 triệu USD, báo hiệu sự tăng mạnh kim ngạch nhóm mặt hàng này trong tương lai. Tuy xuất hiện muộn song giá trị của mặt hàng này đã chiếm vị trí thứ hai, sau cà phê trong danh mục các mặt hàng Mỹ nhập khẩu nhiều nhất từ Việt Nam. Nhập Khẩu của Việt Nam từ Mỹ: Ngay năm đầu tiên sau khi Mỹ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam hàng nhập khẩu từ Mỹ đã tăng mạnh về số lượng và phong phú đa dạng về chủng loại. Năm 1993, chỉ có 4 nhóm hàng được phép xuất khẩu sang Việt Nam nhưng trong năm 1994, số nhóm hàng đã tăng lên 35. Các mặt hàng chủ yếu xuất sang Việt Nam là máy móc và thiết bị, phân bón, ô tô, thiết bị viễn thông. Kim ngạch nhập khẩu hàng từ Mỹ năm 1994 đạt giá trị 172,223 triệu USD. Năm 1995, con số này đã tăng vọt lên 252,860 triệu USD. Trong Năm 1996, riêng trong 9 tháng đầu năm, hàng nhập khẩu từ Mỹ đã gấp 2 lần cả năm 1995, đạt 530,597 triệu USD. Trong mấy năm qua, Việt Nam luôn nhập siêu lớn trong buôn bán với Mỹ. Năm 1994, ta nhập siêu 121,773 triệu US. Năm 1995 là 53,894 triệu và 9 tháng đầu năm 1996 là 298 triệu USD. Lượng nhập siêu cao chủ yếu do Việt Nam mua máy bay của Mỹ ; Năm 1994 kim ngạch nhập khẩu máy bay là 72 triệu USD, trong 5 tháng đầu năm 1995, Việt Nam mua máy bay và phương tiện hàng không của Mỹ đạt trị giá 281,076 triệu USD. Năm 1994, nhóm máy móc thiết bị nói chung có kim ngạch 107 triệu, năm 1995 lên 115,4 triệu USD 5 tháng đầu năm 1996 khoảng 316 triệu USD. Nhóm mặt hàng nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất cũng chiếm phần kim ngạch đáng kể, chủ yếu là phân phối, bông sợi, xăng dầu sắt thép và một số loại hoá chất. Nhóm mặt hàng trong nước chưa sản xuất được và sản xuất của Việt Nam chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nên năm 1995 tổng kim ngạch nhập khẩu từ Mỹ tăng hơn 52% so với năm 1994. Trong nhóm hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất nhập từ từ Mỹ, phân bón có kim ngạch lớn nhất, 5 tháng đầu năm 1996 là 33,546 triệu USD. Các hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng ..,.. có kim ngạch thấp hơn. Đặc biệt, danh mục hàng xuất khẩu sang Việt Nam của Hoa kỳ còn có hàng xuất từ thiện chủ yếu là thuốc men, bột dinh dưỡng. Nhóm " hàng tổng hợp" gồm một loạt hàng hoá máy móc có tổng kim ngạch khoảng 24 triệu USD. b. Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam Giai đoạn trước khi lệnh cấm vận được huỷ bỏ ( trước 3/2/1994) Mỹ là một trong những nước chậm nhất đặt chân vào thị trường đầu tư Việt Nam. Trong khi các công ty của các nước khác hoạt động sôi động tại thị trường Việt Nam thì Mỹ lại có mặt vì lệnh cấm vận chống Việt Nam. Tuy nhiên, hy vọng vào tình hình được cải thiện và hấp dẫn với tiềm năng kinh tế to lớn trong hợp tác đầu tư với Việt Nam, các công ty có tiếng của Hoa Kỳ như: IBM, Boring, Ford, MoBil đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1988 để tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư, đặt nền móng để hoạt động được ngay khi lệnh cấm vận được huỷ bỏ, thông qua chi nhánh hoặc đầu tư gián tiếp qua công ty của nước thứ ba, Hoa kỳ đã có 7 dự án đầu tư tại Việt Nam. Khi bắt đầu có những nới lỏng từ phía chính phủ Mỹ, hợp đồng hợp tác đầu tư đã có những bước đột phá quan trọng. Năm 1991, Mỹ cho phép các công ty của mình được tổ chức đoàn Việt Nam thì từ đó có hàng trăm đoàn doanh gia Mỹ sang nước ta để tìm cơ hội làm ăn. Các công ty này đã ra sức tìm kiếm cơ hội ký kết hợp đồng thương mại và đầu tư để có thể hoạt động khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, đồng thời mở văn phòng đại diện của mình tại thị trường này để xúc tiến hơn nữa hoạt động làm ăn. Cuối năm 1992 văn phòng kiểm soát tài sản nước ngoài của Mỹ đã thông qua cơ chế xem xét từng trường hợp một và đã cấp giấy phép cho 160 CTy Mỹ được hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên trong số này chỉ có 27 CTy có được hoạt động thật sự trong năm. Giai đoạn sau khi lệnh cấm vận được huỷ bỏ: Sau khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận, đầu tư trực tiếp của các CTy Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tăng mạnh. Con số dự án đầu tư tăng vọt từ 7 đến 33 với tổng vốn lên tới 321, 9 triệu USD đứng vị trí thứ 14 trong danh sách các nước đầu tư lớn vào Việt Nam. Đến tháng 4/1996 Mỹ đã có 60 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 1.171.736.000 USD, trong đó có 5 dự án bị rút giấy phép. Mỹ đứng thứ 6 trong danh sách các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam sau Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore và Hàn Quốc năm 1996. Tính đến tháng 5/1997, Hoa Kỳ có 68 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký trên 1,2 tỷ USD trong đó có 62 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký trên 1,1 tỷ USD. Đầu tư của Mỹ chủ yếu tập trung vào Công nghiệp ( 24 dự án với 536,6 triệu USD ), nông lâm nghiệp (8 dứan với 77,5 triệu USD), xây dựng (41,6 triệu USD). Các địa phương có nhiều dự án đầu tư là thành phố Hồ Chí minh, Hà Nội , Đồng Nai. Tính đến 1997 vốn đầu tư đã thực hiện đạt 200,6 triệu USD chiếm 25,1 % tổng vốn đã đăng ký. Tính đến năm 1999, các công ty Mỹ đã nhận được hơn 30 giấy phép đầu tư với tổng giá trị gần 1,1 tỷ USD Mỹ và Hoa Kỳ hiện đứng thứ 9 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Đầu tư được tiến hành trong các lĩnh vực từ ngân hàng đến y tế và điện lực. Các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã có mặt tại hầu hết các tỉnh của Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho các khu vực còn phát triển chưa mấy thành công như Hà Nội và thành phố HCM. Các công ty Mỹ đã hỗ trợ nhiều chương trình XH qua việc ủng hộ tiền bạc và đóng góp kinh nghiệm chuyên môn. Nhiều tổ chức phi chính phủ của Mỹ đã đến đào tạo cho các nhà doanh nghiệp ở cả thành thị và nông thôn VN, tiến hành một lượng lớn các dự án có giá trị ở cấp cơ sở như dự án phát triển tiểu doanh nghiệp, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Hiện nay trở ngại lớn nhất đó là các vấn đề kinh tế và chính trị thường đan xen nhau, nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được cùng một lúc. Phía Mỹ, nhiều người muốn gắn việc giải quyết các vấn đề về người Mỹ mất tích và tù binh trong chiến tranh với việc bình thường hoá quan hệ kinh tế với Việt Nam, thậm chí chưa muốn thúc đẩy quan hệ thương mại với Việt Nam. Do hiệp định thương mại chưa được ký kết, Việt Nam cũng chưa giành được quy chế tối huệ quốc đã làm cho XNK hàng hoá bị hạn chế và các ngân hàng Hoa Kỳ chưa thật sự yên tâm hỗ trợ cho đầu tư của các CTy Mỹ và Việt Nam. Một trở ngại nữa hạn chế đầu tư của Mỹ vào Việt Nam là sự rườm rà của hệ thống luật pháp, nhất là thủ tục đầu tư vẫn chưa được đơn giản hoá và thuận tiện, chưa tạo được hành lang pháp lý đồng bộ và an toàn trong lĩnh vực này. Nói chung, mong muốn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ là luật đầu tư cũng như những quy định đầu tư của Việt Nam và các quy định luật pháp khác có liên quan đến lĩnh vực đầu tư phải thông thoáng, chính xác, dễ hiểu, ít thay đổi để tạo điều kiện cho họ làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Ngoài ra, yếu tố hấp dẫn của một thị trường tiềm tàng mới bắt đầu mở cửa của thị trường Việt Nam thực tế hiện nay cần phải được xem xét lại, bới các nhà đầu tư Mỹ nhìn nhận thị trường với con mắt nghiêm khắc hơn. Do đó, việc cải thiện môi trường đầu tư là một điều bức thiết đối với Việt Nam trong quá trình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư với các nước ASEAN. Xét về yếu tố nguồn lao động cần cù, chịu khó học hỏi và giá nhân công rẻ mạt thì Việt Nam vẫn có ưu điểm so với các nước ASEAN và những yêu điểm này vẫn còn phát huy tác dụng trong tương lai gần như xét ở bối cảnh chung của một môi trường đầu tư khả quan cần có thì Việt Nam vẫn còn là một thị trường có nhiều rủi ro hơn các nưóc trong khu vực. Tuy tốc độ đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã giảm 42% trong 6 tháng đầu năm 1999 so với cùng kỳ năm 1998 nhưng chắc chắn tình hình sẽ khả quan hơn nếu chính phủ Mỹ cố gắng bật đèn xanh trợ giúp cho các công ty của họ. Hiện nay, phía Việt Nam đang hy vọng ký được hiệp định về bảo hộ đầu tư giữa OPIC với chính phủ Việt Nam ( OPIC chuyên thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm và hỗ trợ đầu tư cho các công ty Hoa Kỳ ở khắp các nưóc trên thế giới). để các Công Ty Mỹ mạnh dạn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Hơn nữa, cho đến nay, khi mà điều sửa đổi JackSon Vanik đã được bãi bỏ thì một hiệp ước đầu tư song phương (BIT) là yêu cầu không tránh khỏi của Mỹ một khi hiệp ước này đem lại lợi ích cho những công ty tư bản của Mỹ đầu tư vào Việt Nam. Quan hệ thương mại song phương Việt Nam _Mỹ hiện nay chưa ngang tầm với tiềm năng dồi dào của hai nước, đồng thời chưa thực sự đáp ứng mong mỏi của giới kinh doanh nói riêng cũng như nhân dân hai nước nói chung. Ví dụ nhóm hàng may mặc hàng năm Mỹ nhập khẩu trị giá chừng 30 tỷ USD nhưng hàng của Việt Nam chỉ xuất khẩu được sang Mỹ khoảng 20 triệu USD, đó là một tỷ lệ khá thấp. Nhóm hàng chè, cà phê, đồ gia vị hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 1,5 tỷ USD trong khi nhập khẩu từ Việt Nam chỉ khoảng 2,3 triệu USD. Nhóm hàng hải sản cũng chỉ với tỷ lệ rất thấp: 2,2 tỷ USD so với 4,4 triệu USD ( chiếm khoảng 0,2% thị trường). Tại thị trường Mỹ, hàng hoá của Việt Nam kém sức cạnh tranh do biểu thuế nhập khẩu của Mỹ phân biệt rõ chế độ thuế MFN và FI MFN. thuế suất FI MFN đã cao hơn rất nhiều so với thuế suất MFN lại đặc biệt rơi vào những nhóm hàng mà Việt Nam có khả năng lớn về xuất khẩu như: Dầu Thô, gạo, may mặc, nông sản và hải sản chế biến. Ví dụ gạo của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải chịu thuế suất 55 cent/kg trong khi Thái Lan chỉ phải chịu thuế 21 cent/kg do được hưởng MFN, áo sơ mi có mức thuế tương ứng là 45% và 20,7%, quần áo thể thao là 90% và 8,5% ..,.. Hàng hoá của Việt Nam còn bị hạn chế vì chất lượng và kỹ thuật tại một thị trường đòi hỏi cao và nghiêm ngặt như thị trường Hoa Kỳ. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu và là chìa khoá để đi vào thị trường Hoa Kỳ. Về phía Mỹ, để cạnh tranh với các đối thủ khác một cách có hiệu quả ở thị trường Việt Nam, các công ty Mỹ cần có được tín dụng xuất khẩu tại eximbank., đồng thời cho biết có một chính sách đảm bảo hỗ trợ tài chính ngắn hạn và trung hạn đẩy xuất khâủ sang khu vực quốc doanh của Việt Nam. Tuy Jackson _Vanik đã được bãi bỏ, các công ty Mỹ được chính phủ hỗ trợ cho buôn bán và đầu tư tại Việt Nam nhưng thực tế sự hỗ trợ này còn hạn chế. Hơn nữa, trong nhiều năm trước Mỹ đã bị mất nhiều cơ hội : thị trường xe đạp khổng lồ bị Đài Loan, và Trung Quốc kiểm soát; khách sạn do Pháp, Singapore, Hàn Quốc và các nước Châu á khác kiểm soát; CN dầu hoả trong tay Nga. sản xuất ô tô trong tay Hàn Quốc và Nhật Bản; nhập khẩu thịt do ôxtrâylia và Niudilân kiểm soát ; vé của các tuyến hàng không bán cho hàng không Việt Nam do Pháp kiểm soát..,.. Ngân hàng thế giới (WB) cho biết xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, hiện trị giá 470 triệu USD/năm, sẽ tăng gấp đôi trong năm đầu thực hiện hiệp định thương mại. Cũng theo WB, trong vòng 4 năm, 70% xuất khẩu của Việt Nam có thể thuộc về thị trường Mỹ..,.. Do Vậy để phát triển quan hệ thương mại song phương, điều kiện tiên quyết là hai nước phải dành cho nhau MFN, tiếp đó là việc ký kết hiệp định thương mại song phương. Theo luật thương mại năm 1974 của Mỹ, các nước có nền kinh tế phi thị trường chỉ được hưởng MFN của Mỹ theo thể thức có điều kiện ( nghĩa là có thời hạn tối đa 3 năm, sau đó phải xem xét để gia hạn ), trong khi đó những nước được coi là có nền kinh tế thị trường ( chủ yếu là các thành viên WTO) được hưởng MFN không có điều kiện và không bị hạn chế về thời hạn. Việc chưa ký được hiệp định thương mại đang hạn chế rất nhiều đối với hoạt động thương mại của cả hai nước. Đây không chỉ là vấn đề bức xúc mà các nhà vạch chính sách của hai nước quan tâm, mà còn là vấn đề đang được giới kinh doanh mong mỏi để sớm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho họ. Triển vọng buôn bán đã lớn, khả năng hợp tác trong sản xuất càng lớn hơn. Phía các công ty Mỹ có thế mạnh về vốn, công nghệ và trình độ quản lý cần cho phát triển sản xuất của Việt Nam và tạo khả năng xuất khẩu trên quy mô lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến năm 1993 ( tức là ngay trước năm mà lệnh cấm vận được bãi bỏ) buôn bán giữa hai nước về mặt chính ngạch hầu như không có gì, chỉ có một phần nhỏ được thực hiện thông qua các nước thứ ba,. Từ sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ (ngày 3/2/1994) hàng Việt Nam mới bắt đầu thâm nhập thị trường Mỹ. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương Mại, kim ngạch mậu dịch hai chiều năm 1994: 222 triệu USD năm 1995:450 triệu USD, năm 1996:hơn 900 triệu năm 1998, khoảng 1 tỷ USD. Như vậy chỉ hơn 4 năm kể từ khi lệnh cấm nhanh chóng không chỉ về khối lượng mà cả về cơ cấu hàng hoá XNK. Hiện nay các sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ bao gồm:ngũ cốc, hải sản, giày dép, chè, cà phê, gia vị, dầu thô.. và các sản phẩm từ cao su , giày dép may mặc, gốm sứ , da và các sản phẩm da..,.. đồng thời nhập khẩu trở lại: nhiên liệu, hoá chất, thiết bị điện, sản phẩm quang học, thiết bị đo lường, phương tiện vận tải..,.. Buôn bán tăng nhanh một phần do phía Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng miễn thuế vào Mỹ như: Cà phê, hải sản và một số mặt hàng có thuế suất thấp như áo sơ mi dệt kim , găng tay. Cơ hội để hàng Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ còn khó khăn trong điều kiện chưa được hưởng MFN, nhưng kết quả đã đạt được là đáng khích lệ. Theo dự đoán khi có MFN thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng mạnh, riêng nhóm hàng quần áo may sẵn có thể đạt kim ngạch cao hơn thay vì 20 triệu USD như hiện nay. Về phía Mỹ, thời gian qua xuất khẩu vào Việt Nam tăng lên một phần là nhờ chính sách thương mại mở cửa và không phân biệt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0114.doc
Tài liệu liên quan