Chỉ số phát triển con người

CHƯƠNG I: QUAN NIỆM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI 1

CHƯƠNG II: ĐỔI MỚI LÀ QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG CƠ HỘI PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CON NGƯỜI. 3

2.1 Sự chuyển dịch cơ hội viếc làm và việc làm cho người lao động. Một số kết quả đáng khích lệ. 3

2.2 Giảm đói nghèo: Thành tích nổi bật về phát triển con người. 4

2.3 Một số kết quả phát triển con người trong lĩnh vực xã hội 4

a. Về giáo dục, đào tạo: 4

b. Về dân số: 5

2.4. Thách thức to lớn đối với việc nâng cao dân trí và vai trò của khoa học và công nghệ. 6

2.5. Bảo vệ môi trường để đảm bảo sự phát triển bền vững 8

Chương III: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu phát triển con người. 10

3.1. Củng cố và làm sâu sắc hơn thành quả của đổi mới: 10

3.2. Các định hướng chính sách cơ bản trong tiến trình tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp phát triển con người: 12

3.2.1. Đẩy mạnh quá trình đổi mới cơ chế kinh tế 12

3.2.2. Thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế 14

3.2.3 Phát triển bền vững khu vực nông thôn 16

3.2.4 Chuyển biến căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ 19

3.2.5 Hoàn thiện hệ thống y tế, chương trình dân số, và các hoạt động bảo trợ xã hội 23

3.2.6 Bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững 26

 

doc27 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chỉ số phát triển con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm nghèo là rất cần thiết nhằm tiếp tục duy trì và củng cố một cách bền vững những thành tích xoá đói giảm nghèo đã đạt được. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và môi trường: nó đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với quản lý môi trường. Chỉ tiêu GDP tăng gấp đôi trong 10 năm tới mức tăng trưởng công nghiệp hàng năm tăng 13% sẽ là trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu vực công nghiệp và vùng đô thị vốn đã bị ô nhiễm ở mức báo động. Hơn thế nữa, năng lực kỹ thuật yếu kém, tình trạng môi trường của ngành công nghiệp với công nghệ lạc hậu, thiết bị lỗi thời và thô sơ của quá trình phát triển công nghiệp, thiếu khuôn khổ pháp lý và thể chế có hiệu lực cộng với việc thi hành các quy định về môi trường một cách yếu kém có thể gây ra vô số mối nguy hại đối với môi trường trong tương lai. Cùng với quá trình hội nhập VN phải sẵn sàng đối phó với tình huống mang lại bất lợi cho môi trường thông qua việc nhập khẩu chuyển giao công nghệ, tránh tình trạng trở thành nơi chứa chất thải và các thiết bị công nghệ lạc hậu từ những nước phát triển nhanh hơn. Đô thị hoá: cùng với tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá, quá trình đô thị hoá cũng diễn ra với nhịp độ cao và có thể có những hậu quả đối với môi trường. Vn gặp phải một số vấn đề về quảnlý đô thị, quản lý rác thải, cung cấp nước sạch, hệ thống thoạt nước và các dịch vụ công cộng khác. Đây thực sự là một sức ép lớn vì tình trạng cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị hiện nay rất yếu kém. Thêm vào đó, luồng di dân từ nông thôn ra thành thị sẽ tạo thêm gánh nặng lớn hơn với vấn đề quản lý đô thị. Chương III: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu phát triển con người. Các chính sách kinh tế xã hội được thực hiện ở nước ta, dặc biệt trong quá trình đổi mới, rõ ràng đã nhìn nhận con người là trung tâm của sự phát triển. Trước đổi mới, cơ chế kế hoạch hoá đã hạn chế việc tạo ra động lực và cơ hội cho người dân nhằm xây dựng và phát huy năng lực lựa chọn của mình. Đổi mới đã mang lại những thành tựu đáng kể thông qua việc khuyến khích phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần với loại hình sở hữu đa dạng, chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng. Ta tập trung vào 5 nhân tố chính của chiến lược toàn diện phát triển con người ở Việt Nam: Đẩy mạnh quá trình cải cách thể chế. Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Đẩy mạnh phát triển khu vực nông thôn. Cải tổ giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ. Mở rộng và toàn thiện dịch vụ công cộng. 3.1. Củng cố và làm sâu sắc hơn thành quả của đổi mới: Trong suất quá trình xây dựng và phát triển đát nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn khẳng định: con người, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác và xét trên tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, là trung tâm của sự phát triển; con người là mục tiêu và cũng là động lực của sự phát triển. Những thành tựu đáng kể và quan trọng mà Việt Nam đạt được trong 15 năm qua, nhất là trong thập niên 1990, đã chứng tỏ, với nội dung chính là phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, chuyển sang cơ chế thị trường và mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề phát triển con người ở Việt Nam. Đồng thời, tính chất chuyển đổi và đang phát triển của nền kinh tế Việt Nam cũng cho thấy đổi mới là quá trình phức tạp và còn chưa hoàn thiện trên nhiều mặt. Việt Nam còn phải đối mặt với các vấn đề đói nghèo, việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ vốn khó tránh khỏi của một nước nghèo, đông dân. Song thách thức chính ở đâylà thể chế, chính sách vẫn còn hạn chế việc khơi dậy và sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực, việc duy trì chất lượng tăng trưởng, và việc nâng cao khả nảng cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả là thành tựu phát triển con người trên nhiều mặt của Viêt Nam chưa lớn, chưa vững chắc và có khi chưa tương xứng với tổn phí xã hội bỏ ra. Hơn nữa, sự phát triển của Việt Nam lại đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá với những đặc trưng mới về công nghệ, tốc độ biến đổi và sự đan kết về kinh tế, văn hoá, quản lý trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, việc củng cố và làm sâu sắc hơn thàh quả của đổi mới sẽ có quyết định đối với việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển của đất nước trong hai thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới. tiến trình đổi mới hàm chứa những nội dung chuyển đổi sâu sắc trên tất cả đời sống kinh tế – xã hội. Trước hêt, đó là các vấn đề đổi mới thể chế kinh tế, cải cách và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển khu vực nông thôn, cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Các vấn đề đó có thể dược xem là những đường nét chính của chương trình tổng thể phát triển con người trong giai đoạn 10 năm tới, với mục tiêu là tập chung mọi nỗ lực để nâng cao chất lượng của các kết quả phát triển con người. Một yêu cầu khác có tính nguyên tắc của nhiệm vụ phát triển con người của Việt Nam cần được củng cố trong giai đoạn tới là giữ vững định hướn xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Với nội dung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” ở Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với triết lý phát triển lấy con người làm trung tâm. Đối với Việt Nam, tính chất chuyển đổi và phát triển của nền kinh tế làm cho việc vừa thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, lại vừa nỗ lực duy trì tốc độ tăng nhanh để vượt qua nguy cơ tụt hậu, gặp rất nhiều khó khăn và không ít những đánh đổi giữa lợi ích phát triển lâu dài và lợi ích ngắn hạn, cục bộ. để bảo đảm phối hợp đồng bộ các mục tiêu và hạn chế đến mức thấp nhất tổn phí xã hội có thể phát sinh, chiến lược phát triển của giai đoạn tới phải nhấn mạnh hai yêu câu: tăng trưởng nhanh, hiệu quả và tạo lập năng lực phát triển mới. từ bài học kinh nghiệm của 15 năm đổi mới cùng với nhận thức đầy đủ về những thách thức trong nước và quốc tế đang và sẽ đặt ra với sự phát triển đất nước, có thể thấy rằng đổi mới thể chế kinh tế và phát triển nguồn nhân lực phải là hướng hành động ưu tiên trong giai đoạn tới và cần được tính đến trong tất cả các phương diện của tiến trình củng cố và làm sâu sắc hơn tiến trình đổi mới. 3.2. Các định hướng chính sách cơ bản trong tiến trình tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp phát triển con người: 3.2.1. Đẩy mạnh quá trình đổi mới cơ chế kinh tế Nhờ những thay đổi thể chế kinh tế thời gian qua, nông nghiệp, thương mại dịch vụ và sản xuất nhỏ của khu vực tư nhân đã có bước phát triển mạnh. Hiện nay, nhiệm vụ tạo dựng một thể chế kinh tế thị trường thích hợp trở nên phức tạp hơn vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến quan điểm phát triển của Việt Nam. Đó là các vấn đề về đất đai, lao động, cải cách khu vực DNNN và tài chính-ngân hàng, cải cách hành chính và bộ máy quản lí nhà nước, hội nhập kinh tế, chính sách xã hội, và sự tham gia của nhân dân trong đời sống chính trị, xã hội. Do vậy, việc đẩy mạnh quá trình đổi mới thể chế kinh tế đòi hỏi không chỉ sự tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện khung pháp lý, xử lý thích hợp các hành vi kinh tế, sản xuất kinh doanh của một nền kinh tế thị trường và mở cửa. Một là phải tạo ra “sân chơi bình đẳng” cho mọi thành phần kinh tế. Chủ trương xây dựng chỉ một luật đầu tư và một luật doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp cần được khẩn trương triển khai trên thực tế. Hai là phải hỗ trợ tích cực sự phát triển đồng bộ và có hiệu quả các loại hình thị trường: từ thị trường hàng hoá dịch vụ tiêu dùng thị trường sản phẩm khoa học-công nghệ, đến thị trường lao động, thị trường tài chính ... Bên cạnh đó cần xây dựng nhiều luật mới: luật về quyền sở hữu trí tuệ, luật thương mại điện tử ... Ba là phải đảm bảo tính phù hợp với các nguyên tắc và quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ cam kết thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là công việc phức tạp vì phải ra soát và đổi mới lại hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam. Một vấn đề nổi cộm ở đây là việc chỉnh sửa hệ thống pháp luật cho phù hợp với các nguyên tắc đối xử quốc gia trong quan hệ thương mại, đầu tư quốc tế. Việc hoàn thiện khung khổ pháp lý sẽ mất đi nhiều ý nghĩa nếu bộ máy quản lý nhà nước không được cải cách mạnh mẽ. Chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất quản lý kinh doanh chưa được tách bạch rõ ràng. Chất lượng dịch vụ công thấp, cơ chế xin cho và nạn tham nhũng lãng phí còn phổ biến, không ít quy trình hành chính rắm rối, phức tạp. Kết quả là mức độ rủi ro trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và hợp đồng thương mại gia tăng, chi phí giao dịch và do đó là chi phí kinh doanh nói chung cũng tăng lên. Nguy hại hơn, điều này đã và đang hạn chế đáng kể sự phát triển năng động, bền vững của các doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Những tư tưởng cải cách hành chính và bộ máy quản lý nhà nước là rõ ràng và thường được nhấn mạnh là: đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm thiểu cơ chế “xin - choạnh tranh của nền kinh tế. sẽ cam kết thực hiện trong qiasguyên tắc và quy định quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ cam kết thực hiện trong qias gian ”, tăng cường tính minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình của bộ máy quản lý Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí, thu gọn đầu mối, giảm biên chế và nâng cao năng lực công chức và chất lượng dịch vụ công. Cải cách hành chính là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên có hai định hướng giải pháp cần được đặc biệt lưu ý. Một là thay đổi chức năng bộ máy theo hướng giảm bớt sự can thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và các quy trình hành chính tương ứng. Cách làm này sẽ rất hiệu quả nếu gắn cùng với việc phát triển một thị trường lao động linh hoạt. Hai là tạo ra cơ chế giám sát có hiệu lực, chẳng hạn thông qua các cơ quan độc lập và có sự tham gia của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Mở rộng sự tham gia của người dân trong đời sống chính trị, xã hội cũng là một bộ phận cấu thành hữu cơ của công cuộc tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế vì mục tiêu phát triển và phát triển con người. Điều này còn là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần nâng cao năng lực và chất lượng của bộ máy quản lý nhà nước. Trước hết, sự tham gia của người dân trong đời sống chính trị, xã hội chỉ có thể có hiệu quả trong một môi trường xã hội dân chủ, công khai và công bằng. Đối với Việt Nam, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh cải cách hành chính và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Thông qua đó, người dân có quyền được “biết, bàn, làm và kiểm tra” khai và công bằng. Đối với Việt Nam, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh cải iển con người. Điê, dễ dàng tiếp cận với các cấp chính quyền để bày tỏ ý kiến của mình đối với các vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động quản lý của nhà nước. Vai trò của các tổ chức hiệp hội và các tổ chức quần chúng với tính cách là người đại diện tiếng nói của doanh nghiệp và nhân dân cần được phát huy hơn nữa. Hiệu quả tham gia của người dân còn phụ thuộc vào năng lực tham gia của chính họ. Việc tăng cường năng lực cho người dân là kết quả tổng hợp của các chính sách có liên quan đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững khu vực nông thôn, chuyển đổi căn bản hệ thống giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, và bảo vệ môi trường. Định hướng những chính sách chủ yếu đó sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của Báo cáo. Chỉ xin lưu ý hai điểm. Một là cần đặc biệt chú trọng tăng cường năng lực tham gia cho người nghèo cũng như người dân ở các vùng sâu, vùng xa và miền núi. Hai là cần nâng cao năng lực nhận thức pháp luật của người dân, giúp họ hiểu biết đầy đủ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình. Tri thức pháp luật còn là điều kiện để người dân hạn chế tác động tiêu cực và sự phát triển của tệ quan liêu, tình trạng mất dân chủ cũng như các tệ tham nhũng, hối lộ và sách nhiễu nhân dân của các quan chức chính quyền. 3.2.2. Thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế Việc đẩy mạnh đổi mới thể chế kinh tế là điều kiện quyết định thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Đến lượt mình, điều chỉnh cơ cấu kinh tế sẽ có tác động tích cực đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn nhân lực, việc làm và thu nhập, nâng cao năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế trong giai đoạn tới. Điều chỉnh cơ cấu cần nhằm vào các khu vực/ lĩnh vực chủ yếu sau: Cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước: bao gồm hai khía cạnh là giảm mạnh số lượng các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và nâng cao hiệu quả, nhất là đối với các Tổng công ty nhà nước. Cải cách doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc góp phần đảm bảo thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu ở nước ta. Việc thực hiện chương trình của Chính phủ về cổ phần hoá, khoán, cho thuê và bán một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, và việc kiên quyết giải thể những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, cần được phải được đẩy mạnh tổ chức lại các tổng công ty 90 và 91 cũng là những nội dung cải cách cần được đặc biệt quan tâm. Đổi mới chính sách đầu tư Nhà nước dựa trên cơ chế thị trường thay cho nguyên tắc trợ cấp, bao cấp, giảm thiểu bảo hộ, tạo “sân chơi bình đẳng” đối với các thành phần kinh tế và môi trường cạnh tranh, là những giải pháp chính sách quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước; Cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng: Phát triển hệ thống tài chính ngân hàng là một yêu cầu tất yếu nhằm ổn định vĩ mô, huy động và phân phối các nguồn vốn có hiệu quả, tăng cường tính năng động của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Đồng thời, nếu không có bước đi cải cách thích hợp và vững chắc, hệ thống này trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thường ẩn chứa những rủi ro và nguy cơ đổ vỡ, có thể gây khủng hoảng kinh tế xã hội. Hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam hiện được xem là tương đối yếu kém và chứa đựng nhiều nhiều rủi ro. Những cải cách cần thiết đối với hệ thống này là: Chuyển đổi sang sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp là chủ yếu, nâng cao tính động lập và năng lực giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh vỡ, có thể gây khủng hoảng kinh tế xã hội. Hệ thống tài chính, ngân hàng của Việt Nam hiện được xem là tương đối yếu và ngân hàng cổ phần. thị trường hoá đầy đủ hơn hoạt động của các ngân hàng thương mại (như tách bạch ngân hàng chính sách và ngân hàng thương mại, và tăng cạnh tranh). Tạo hành lang pháp lý phù hợp với cấu trúc hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường tài chính hiện đại. Đối với Việt Nam, có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng sẽ là nửa vời và không hiệu quả nếu không nằm trong tổng thể cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, do năng lực và trình độ của hệ thống này còn yếu, nên việc mở cửa tài chính và tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế cần được thực hiện theo trình tự chặt chẽ, song kiên định để đảm bảo tính nhất quán của cả quá trình cải cách cơ cấu và hội nhập quốc tế. Cải cách thương mại: Để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi, một mặt, Nhà nước phải nhanh chóng giảm các nỗ lực bảo hộ không hợp lý, buộc các doanh nghiệp phải làm quen dần với môi trường cạnh tranh, và mặt khác, phải thực thi các giải pháp hỗ trợ có điều kiện và thời hạn nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Trước tiên, căn cứ vào khuôn khổ hội nhập đã và sẽ được cam kết, cần xây dựng một Chương trình Hành động chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, sửa đổi, điều chỉnh các văn bản pháp lý, các quy định chính sách không phù hợp với yêu cầu hội nhập. Thứ ba, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường thế giới bằng các hoạt động cung cấp thông tin, cùng tìm kiếm đối tác, thị trường, đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận các nguồn ngoại hối, tín dụng, hỗ trợ đào tạo quản lý, phát triển các chương trình nghiên cứu và triển khai (R&D). Phát triển mạnh kinh tế dân doanh, nhất là các công ty tư nhân vừa và nhỏ; thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài:aáti hối, tín dụng, hỗ trợ đào tạo quản lý, phát triển các chương trình nghiên cứu và triển khai (R&D),...hủ tục xuất nhập cảnh, tạo điê giới bằng các hoạt động cung cấp thông tin, cùng tìm kiếm đối tác, thị trường, đ Đây là một định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu theo hướng tạo việc làm và tăng năng lực cạnh tranh. Sự tiến triển của hai quá trình này sẽ tạo thành một cơ sở vững chắc đảm bảo sự phát triển năng động, hiệu quả của thị trường. Cần nhấn mạnh rằng chỉnh sửa khung khổ pháp lý, cải cách hành chính, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng thương mại quốc doanh, và cải cách thương mại sẽ là điều kiện cơ bản nhất cho sự phát triển lâu bền và hiệu quả của khu vực kinh tế dân doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Điều chỉnh cơ cấu đòi hỏi phải đổi mới chức năng và vai trò của Nhà nước nhằm tạo dung một môi trường kinh doanh cạnh tranh, năng động và thực hiện tốt mục tiêu phát triển con người.quan trọng trong việc điêu i: Trước hết, Nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và giải quyết các vấn đề bảo đảm xã hội (như về giáo dục, y tế, công bằng xã hội, phòng chống các tệ nạn...). Việc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, và thiết lập cơ chế cần thiết để phổ cập và thu nhận thông tin chính sách và thông tin kinh tế là bước tiến quan trọng thể hiện rõ tính minh bạch của chính sách và là sự hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Những nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo, R&D, hình thành các khu công nghệ cao của Nhà nước cũng đóng vai trò thiết thực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển lâu bền của doanh nghiệp. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không tránh khỏi những chi phí xã hội phát sinh, nhất là về ngắn hạn. Chính vì vậy, việc thiết lập mạng lưới an sinh xã hội là hết sức cần thiết. Những yếu tố chính của mạng lưới này bao gồm hệ thống bảo hiểm, quỹ hỗ trợ và sự giúp đỡ, cung cấp nhu cầu thiết yếu cho những người nghèo; sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp và của người dân cũng dần được chú trọng. Tuy nhiên, việc hạn chế những chi phí xã hội chỉ có thể được giải quyết một cách vững chắc thông qua việc thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân, tạo ra các kỹ năng lao động mới. 3.2.3 Phát triển bền vững khu vực nông thôn Trong hơn 10 năm qua, việc mở rộng cơ hội lựa chọn và khuyến khích lao động và sự sáng tạo của người nông dân trên cơ sở các trao đổi thị trường và mở của đã tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển nông nghiệp; đời sống nông dân ở nhiều vùng đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong thập niên tới, nông thôn vẫn là địa bàn và lĩnh vực sinh sống của đa số dân cư và người nghèo, trong khi khoảng cách về mứcn là địa bàn và lĩnh vực sinh sống của đa số dân cư và người nghèo, trong khi khoảng cac sống giữa thành thị và nông thôn có nguy cơ gia tăng mạnh do chênh lệch cao về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa hai khu vực. Hơn nữa, người nông dân vẫn phải tiếp tục đối mặt với những rủi ro phát sinh do thiên tai, biến động bất thường của thị trường nông sản quốc tế. Triển vọng phát triển bền vững khu vực nông thôn, và do đó cả đất nước trong thập kỷ tới đang đặt ra không ít vấn đề. Việc tiếp tục đổi mới thể chế và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chuyển dịch có hiệu quả các nguồn lực, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp và nông thôn phát triển, hạn chế nguy cơ gia tăng cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời cũng cần kết hợp với các chính sách đặc thù đối với khu vực nông thôn và nông nghiệp theo hướng: Nâng cao hiệu lực các quyền đối với ruộng đất của người nông dân. Điểm mấu chốt ở đây là việc đảm bảo các điều kiện pháp lý và hành chính trên thực tế để người nông dân thực hiện đầy đủ các quyền đối với ruộng đất, nhất là quyền chuyển đổi mục đích sử dụng, quyền chuyển nhượng và thế chấp ruộng đất. Điều này sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân sử dụng ruộng đất một cách hiệu quả, hướng vào những sản phẩm có giá trị. Đây cũng là một cơ sở kích thích quá trình đa dạng hoá sản xuất trong khu vực nông thôn và phát triển thị trường nông sản. Mở rộng cơ hội cho người nông dân đa dạng hoá sản xuất, theo hướng phá thế độc canh lương thực, nhất là độc canh lúa, chuyển sang phát triển mạnh những ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng và thu nhập cao hơn. Cùng với việc đảm bảo đầy đủ trên thực tế các quyền đối với ruộng đất của người nông dân, việc trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ tài chính thông qua các chương trình phát triển và/hoặc cung cấp tín dụng với các điều kiện phù hợp (không nhất thiết phải là ưu đãi) và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, nhất là trong giai đoạn đầu, sẽ phát huy tính năng động của người nông dân và do đó, thúc đẩy mạnh mẽ cả quá trình đa dạng hoá sản xuất. Đây cũng là một yếu tố cần thiết để phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản và gia công ở nông thôn, qua đó làm sôi động thị trường, cải thiện và ổn định việc làm và thu nhập cho người nông dân. Một điều kiện tiên quyết đảm bảo tính khả thi của chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp là việc tạo cơ chế khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ nông nghiệp (khuyến nông, dịch vụ tài chính, dịch vụ kỹ thuật và thương mại). Đối với những vùng tương đối bị cô lập và nghèo thì tác dụng của cơ chế này càng có ý nghĩa tích cực. Người nông dân, nhất là các hộ nghèo giảm được chi phí cho việc hấp thụ kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận nguồn vốn, thị trường, Họ có thêm điều kiện để tự vươn lên thay vì phải kéo dài thời gian dựa vào sự cứu trợ xã hội. Cải thiện điều kiện mua bán sản phầm của người nông dân nhằm hạn chế các rủi ro thị trường và thiệt hại kinh tế cho họ. Xoá bỏ tình trạng độc quyền, giảm thiểu các điều kiện gia nhập thị trường cho các doanh nghiệp là một yếu tố căn bản giúp người nông dân nâng cao vị thế “lựa chọn” và “mặc cả” trong các giao dịch thị trường, qua đó bảo vệ và duy trì được lợi ích của họ. Cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông và thông tin, thông tin thị trường kịp thời, cũng là những yếu tố quan trọng tạo thuận lợi cho người nông dân trong giao dịch thị trường. Việc lập quỹ bảo hiểm rủi ro về giá nông sản có thể là một giải pháp cân thực hiện để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, “trung hoà hoá” sự bất ổn còn cao đối với thị trường nông sản. Tuy nhiên, quỹ này nên được sử dụng để hỗ trợ trực tiếp cho thu nhập của người nông dân hơn là để hỗ trợ qua giá. Phát triển mạnh kinh tế trang trại. Kết quả nhiều mặt và đáng kể mà kinh tế trang trại đem lại trong những năm gần đây là rất rõ ràng. Kinh tế trang trại cho phép tận dụng tốt các nguồn lực ít/chưa được khai thác, đặc biệt là ở các vùng sâu và vùng duyên hải, biến chúng thành lợi thế phát triển hiện thực. Kinh tế trang trại còn tạo ra nhiều việc làm với mức thu nhập tương đối cao. Nhà nước đã có chủ trương khuyến khích sự phát triển của loại hình kinh tế này trở nên thực sự bền vững và phát huy hết thế mạnh của nó, cần ban hành các quy định và giải pháp chính sách đồng bộ. Trong số này, những quy định về đất đai, về thuế, về lao động cần được điều chỉnh cho phù hợp với tinh thần khuyến khích; các giải pháp hỗ trợ về cung cấp tín dụng, tổ chức thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển kinh tế trang trại. Giữ vững an ninh lương thực. Mặc dù mỗi năm Việt Nam xuất khẩu hàng triệu tấn gạo, song vấn đề về an ninh lương thực vẫn phải đặc biệt quan tâm theo hai nghĩa. Thứ nhất, những rủi ro về thiên tai là rất lớn và thường tập trung vào những vùng nghèo. Thứ hai, số hộ nông dân nghèo cũng như số hộ nông dân có nguy cơ rơi trở lại tình trạng đói nghèo vì các rủi ro bất thường còn nhiều. Vì vậy, bảo đảm an ninh lương thực là biện pháp trước hết hướng tới người nghèo, củng cố và làm vững chắc các cơ sở xã hội của sự phát triển bền vững. Việc giữ vững an ninh lương thực đòi hỏi không chỉ một quỹ dự trữ lương thực dồi dào của Nhà nước với một mạng lưới phân phối/cứu trợ hoạt động có hiệu quả. Điều quan trọng không kém, thậm chí còn quan trọng hơn về phương diện phát triển là việc chuyển đổi thể chế chính sách (như đã trình bày ở trên) để tạo cơ hội việc làm và thu nhập cho các hộ nghèo. Hiện nay, ở một số vùng, việc bảo đảm cho các hộ nông dân nghèo có ruộng đất là cần thiết để họ không bị rơi vào tình trạng bần cùng. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có kết quả nếu các hộ nông dân nghèo có được các điều kiện sả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH1808.doc
Tài liệu liên quan