Lời mở đầu 1
I. Các cam kết dịch vụ du lịch lữ hành, khách sạn của Việt Nam khi gia nhập WTO 2
1. Giới thiệu các cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO
Giới thiệu biểu cam kết ngành dịch vụ du lịch, lữ hành, khách
sạn khi Việt Nam gia nhập WTO 2
1.1. Các cam kết về dịch vụ 2
1.2. Các cam kết về dịch vụ du lịch, lữ hành, khách sạn 4
2. Tác động chung của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế và DL 7
2.1. Tác động chung của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế 7
2.2. Những tác động của việc gia nhập WTO đến ngành Du lịch 12
II. Cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO đối với các DNLHVN 14
1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp lữ hành 18
2. Thách thức đối với các doanh nghiệp lữ hành 24
3. Một vài kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước trong khu vực khi họ gia nhập WTO 29
III. Chiến lược của các DNLH Việt Nam 30
1. Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Inbound 31
2. Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Outbound 32
3. Chiến lược của cac doanh nghiệp lữ hành nước ngoài tại Việt Nam 34
Kết luận 36
Danh mục tài liệu than khảo 37
Mục lục 38
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thời kì hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong và ngoài WTO.
Thứ hai, sẽ tạo niềm tin và sức hút mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, các công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới có tiềm lực tài chính lớn, tăng vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và ODA. Hai cơ hội này sẽ tạo ra sự đột biến về cung cầu du lịch.
Thứ ba, việc thực hiện đầy đủ các cam kết của một thành viên của WTO theo quy định sẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ ở trong nước, khơi dậy tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của toàn xã hội cho sự nghiệp phát triển du lịch nhanh và bền vững.
Thứ tư, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, buôn bán thương mại sẽ tăng lên kéo theo dòng khách di lịch, dòng vốn, vật tư, kinh nghiệm, thông tin, công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành du lịch.
Thứ năm, việc gia nhập WTO tạo cho các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm và cách làm du lịch để mở rộng mô và nâng cao hiệu quả kinh doanh, người dân có thêm điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Hình ảnh đất nước con người Việt Nam được quảng bá rộng rãi hơn, tăng sức thu hút khách du lịch.
Tuy vậy, Du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn, nổi bật:
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh du lịch sẽ trở nên gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia.
Thứ hai, do sự phát triển không đồng đều giữa các lĩnh vực hoạt động của ngành, giữa các vùng, miền trong nước, cả trong quản lý nhà nước và kinh doanh nên khi mở cửa, hội nhập toàn diện sẽ phải chịu sự tác động từ bên ngoài vào, không khỏi bỡ ngỡ, lúng túng, phản ứng và chống đỡ không tốt có thể dẫn đến những yếu tố bất ổn và đổ vỡ.
Thứ ba, sự biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động mạnh, nhanh và toàn diện hơn đến thị trường trong nước, nếu không xử lý tốt cả tầm vĩ mô và vi mô có thể xảy ra những rối loạn thị trường, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển du lịch bền vững.
Thứ tư, nguồn nhân lực du lịch vốn còn bất cập và yếu kém sẽ không theo kịp yêu cầu hội nhập, sẽ chảy máu chất xám, doanh nghiệp du lịch Việt Nam sẽ mất nhiều người giỏi.
Thứ năm, những thách thức mới xuất hiện ở mức cao, đa chiều và tinh vi hơn như diễn biến hoà bình thông qua con đường du lịch, khó khăn trong bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển du lịch bền vững…
Cơ hội và thách thức nêu trên là rất lớn khi chúng ta gia nhập WTO. Nhưng cần nhìn nhận cơ hội và thách thức trong trạng thái động. Có cơ hội mà không biết tận dụng thì cơ hội sẽ qua đi hay chuyển thành thách thức, thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động trực đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vượt qua của toàn ngành. Nếu có sự chuẩn bị tích cực, biện pháp ứng đối phù hợp và hiệu quả để vượt lên thì không những sẽ vượt qua được thách thức mà còn biến thách thức thành động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.
II. Cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam.
Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ có tác động rất lớn đối với ngành du lịch nói chung và đối với các doanh nghiệp lữ hành nói riêng. Gia nhập WTO sẽ đem lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp lữ hành nhưng cũng mang theo những thách thức không nhỏ khi chúng ta tham gia một sân chơi chung WTO.
Được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, ngành du lịch Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng cả về lượng và chất, thu hẹp dần khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê năm 1990 và đặc biệt là từ năm 2001 cho thấy ngành du lịch Việt Nam có những bước phát triển liên tục, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng nhanh( bảng 1). Nếu như năm 1990 lượng khách quốc tế đến Việt Nam mới bằng 14.5% lượng khách đến Thái Lan, bằng 12.5% lượng khách đến Malaysia…và bằng 1.86% lượng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam á. Đến thời điểm năm 2000 và năm 2005 những con số tương ứng là: 22.5% và 27.7% so với Thái Lan, 19.8% và 20.9% so với Malaysia… và 5.4% và 6.9% so với khu vực Đông Nam á. Năm 2006 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 3.6 triệu tăng khoảng 3% so với năm 2005.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phát triển ngành giai đoạn 2001-2005.
Chỉ tiêu
đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
Tăng trưởng trung bình (% năm)
Khách quốc tế
Nghìn
2.3300
2.6280
2.4287
2.9280
3.4700
9.1
Khách nội địa
Nghìn
11.700
13.000
13.500
14.500
16.100
8.1
Thu nhập du lịch
Tỷ USD
1.63
1.97
1.90
2.17
2.52
11.9
Phòng khách sạn
Nghìn
74.5
78.8
82.0
85.4
112.0
11.2
Sự gia tăng của khách du lịch kéo theo sự gia tăng của số lượng lao động phục vụ trong ngành du lịch. Năm 1996 nếu chỉ tính riêng lao động trực tiếp phục vụ trong các doanh nghiệp du lịch đã có trên 65000, năm 2000 tăng lên 80000 và năm 2004 đạt khoảng 110000. Tỷ lệ lao động bình quân trên 1 phòng khách sạn là 1.5 người. Tuy nhiên số lượng lao động này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung của ngành. Ngoài số lao động trực tiếp, hoạt động du lịch còn tạo khoảng 500000 lao động cho xã hội( năm 2005). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mức sống của người dân nước ta còn thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Vì vậy phát triển du lịch sẽ tạo cơ hội cho cộng đồng có thêm công ăn việc làm và cải thiện mức sống. Thực tế phát triển du lịch ở nhiều điểm du lịch như Sa Pa( Lào Cai), Ba Bể( Bắc Cạn), Cửa Lò(Nghệ An), Hội An( Quảng Nam), Gò Tháp(Đồng Tháp)…cho thấy ý nghĩa của việc phát triển du lịch đứng ở góc độ này.
Thực trạng phát triển du lịch Việt Nam được phản ánh rõ nét qua chỉ số cạnh tranh phản ứng năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam có thể hiểu là khả năng duy trì và cải thiện vị trí thị trường và thị phần của nó so với các đối thủ trong qua trình phát triển.
Kết quả nghiên cứu và đánh giá về năng lực cạnh tranh du lịch của các nước trong khu vực năm 2004 do Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới(WTTC) thực hiện.
Bảng 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch 2004 của một số quốc gia khu vực Đông Nam á.
Quốc gia
Giá
Du lịch nhân văn
Cơ sở hạ tầng
Môi trường(mật độ người)
Công nghệ
Nguồn nhân lực
Mở cửa
Xã hội
Singapore
23.07
77.45
92.27
1.72
99.98
71.60
79.65
70.03
Malaysia
74.86
82.80
------
62.85
96.22
50.70
72.210
54.43
Thái lan
83.12
62.90
49.93
44.06
72.45
57.80
71.40
47.93
Indonesia
65.46
------
39.22
46.72
44.38
44.36
41.83
38.43
Philippines
67.13
13.81
49.08
61.11
82.86
65.76
35.03
43.89
Việt nam
84.75
------
36.92
45.56
17.38
48.51
46.90
35.76
Lào
57.51
------
48.46
20.57
4.51
------
------
------
Canpuchia
84.91
------
8.52
36.91
5.16
2.69
31.01
31.39
Kết quả đánh giá cho thấy năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam so với các nước trong khu vực còn thấp. Trong 8 quốc gia được xem xét, Việt Nam chỉ có lợi thế cạnh tranh về giá. Kết quả đánh giá cho thấy về tổng thể khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam so với các nước trong khu vực còn hạn chế bởi hiện tại còn tồn tại nhiều vấn đề đặt ra cho ngành du lịch Việt nam.
Hệ thống chính sách nhằm phát triển du lịch với tư cách là ngành kinh tế mũi nhọn chưa đồng bộ trên phạm vi toàn quốc. Chưa có sự phối hợp giữa du lịch với các ngành khác như: giao thông vận tải, văn hoá, tài nguyên…
Chưa xây dựng được những sản phẩm du lịch mang bản sắc riêng của Việt Nam có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế để thu hút khách từ những thị trường trọng điểm có khả năng chi trả cao do việc quy hoạch, đầu tư và quản lý phát triển hệ thống các khu du lịch còn nhiều bất cập. Tại những khu du lịch có nhiều lợi thế với việc được thế giới công nhận là di sản văn hoá thế giới như : Vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng, phố cổ Hội An, Lăng tẩm Huế…song đã và đang tồn tại nhiều bất cập trong hoạt động quy hoạch và quản lý hoạt động quy hoạch phát triển du lịch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch. Vì vậy những sản phẩm du lịch thực sự có khả năng thu hút, hấp dẫn và có sức cạnh tranh thực sự vẫn chưa có.
Hoạt động xúc tiến quảng bá, xây dựng hình ảnh Việt Nam như một điểm đến an toàn, hấp dẫn của khu vực còn nhiều hạn chế.
Năng lực của đội ngũ lao động tham gia hoạt đông du lịch còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và trình độ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm du lịch, đến qua trình hội nhập của du lịch Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng du lịch còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, môi trường du lịch trên phạm vi cả nước đặc biệt ở những địa bàn trọng điểm phát triển du lịch như Vịnh Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu… đang suy thoái nghiêm trọng do tác động của hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng quan trọng là do sự thiếu liên kết giữa ngành du lịch với địa phương.
Công tác bảo tồn, tôn tạo bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch chưa thực sự được chú trọng, chưa có sự tuyên truyền về công tác bảo tồn, bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch tới khách du lịch, các nhà kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư địa phương của điểm đến du lịch.
Với thực trạng trên thì đây là một vấn đề lớn đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam khi gia nhập WTO. Đến đây chúng ta cần có một cách nhìn khái quát hơn về du lịch, đặc biệt là các nhà quản lý phải có tầm nhìn xa trông rộng, phải có cách nhìn, cách đánh giá khoa học và thực tiễn, phải có nhận thức khoa học về xã hội để có thể đề ra những chiến lược xa hơn, những quyết sách mạnh mẽ hơn về tổ chức, quản lý, xúc tiến quảng bá…để du lịch Việt Nam có thể bứt phá và thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế của đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và vẫn giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam khi chúng ta gia nhập WTO:
Khi chúng ta gia nhập WTO, ngành du lịch sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn song cũng tạo ra nhiều cơ hội lớn và cơ hội thì lớn hơn thử thách rất nhiều.
a. Thị trường mở cửa rộng hơn:
Khi vào WTO và thực hiện các cam kết, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép đặt chi nhánh tại Việt Nam, liên doanh với các doanh nghiệp lữ hành của Việt Nam, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và trực tiếp khai thác và đưa khách vào nước ta. Nhưng họ chỉ được phép đưa khách Inbound vào nước ta và khai thác lữ hành nội địa như là một phần của việc đưa khách vào Việt Nam và không được phép đưa khách du lịch trong nước sang nước ngoài. Vì vậy thị trường khách du lịch nội địa vẫn thuộc về phía các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam, cơ hội kinh doanh khách Outbound tăng lên. Chúng ta được phép mở chi nhánh tại nước ngoài, liên doanh với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam có khả năng liên kết, mở rộng tầm hoạt động, mở rộng kênh phân phối, khai thác nhiều nguồn khách và các điểm đến du lịch từ các nước thành viên.
Cùng với việc cho phép các doanh nghiệp lữ hành(DNLH) nước ngoài kinh doanh khách Inbound trực tiếp vào Việt Nam không phải thông qua phía đối tác Việt Nam thì các DNLH nước ngoài không được phép đưa Hướng dẫn viên vào hành nghề tại nước ta thì khi họ đưa khách Inbound vào nước ta bắt buộc họ phải sử dụng hướng dẫn viên Việt Nam, tạo cơ hội làm việc cho các hướng dẫn viên Việt Nam. Các DNLH nước ngoài không được phép gửi khách trong nước nên phần thị trường này là của các DNLH Việt Nam. Đó sẽ là cơ hội tốt để kinh doanh khách du lịch nội địa.
Như vậy, khi là thành viên của WTO, DNLH Việt Nam được phép đặt chi nhánh và liên doanh với nước ngoài tại các nước thành viên và tại nước ta thì thị trường đã mở rộng hơn, các doanh nghiệp được tiếp cận một thị trường rộng lớn 150 nước với khoảng 90% dân số thế giới, 95% GDP và 90% thương mại toàn cầu, thị trường du lịch có 800 triệu lượt khách quốc tế chủ yếu từ các nước thanh viên WTO. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp du lịch khai thác và mở rộng thị trường, vốn, kinh nghiệm và công nghệ quản lý thông qua các cam kết với WTO trong kĩnh vực dịch vụ du lịch.
b. Học tập kinh nghiệm kinh doanh từ nước ngoài:
Khi chúng ta mở cửa thị trường dịch vụ nói chung và thị trường du lịch nói riêng thì các DN kinh doanh du lịch nước ngoài sẽ có cơ hội tốt hơn để vào kinh doanh tại Việt Nam. Xuất phát từ nền kinh tế phát triển, có kinh nghiệm kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nên kinh nghiệm kinh doanh của họ hơn hẳn các DNVN, với khả năng tài chính mạnh, kỹ năng quản lý chuyên nghiệp, hiểu biết sâu sắc về thị trường khách quốc tế nên khi họ vào Việt Nam sẽ gây khó khăn cho các DNLH nước ta. Hầu hết các DNLH Việt Nam kinh doanh nhỏ lẻ nên thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự liên kết với nhau và với các nhà cung cấp nên nguy cơ bị “thâu tóm” hay “sập tiệm” là quy luật tất yếu. Và đó là một thử thách cho các DNLHVN. Tuy nhiên, chính những thử thách này sẽ khiến các DNLHVN phải vươn lên để tồn tại. Để tồn tại được bắt buộc họ phải suy nghĩ, thay đổi cách làm việc sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Và một điều có thể làm để thích nghi là học hỏi kinh nghiệm kinh doanh từ phía các DN nước ngoài bởi chúng ta có cơ hội được liên doanh hợp tác với họ, cùng làm việc trong một môi trường kinh doanh, được tiếp cận với công nghệ kinh doanh hiện đại từ phía họ. Chúng ta có cơ hội học hỏi thì phải biết tận dụng một cách hợp lý để có thể phát triển, tham gia vào sân chơi chung mà không bị lạc hậu, yếu kém về công nghệ kinh doanh. Có như vậy DNLHVN mới có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh chuyên nghiệp và tính cạnh tranh cao khi chúng ta đã gia nhập WTO.
c. Khả năng phát triển mạnh khách Inbound:
Khi các hãng lữ hành được phép trực tiếp đưa khách du lịch vào và khai thác du lịch Việt Nam thì lượng khách Inbound có khả năng tăng nhanh. Bởi các DNLH nước ngoài không phải thông qua phía đối tác Việt Nam để đưa khách Inbound vào Việt Nam như trước đây nữa, họ có khả năng liên kết tốt với các ngành bổ trợ khác như: vận tải, lưu trú…, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế, có bề dày kinh nghiệm Marketing hơn hẳn so với các doanh nghiệp Việt Nam, không bị ràng buộc với đối tác VN nên thuận lợi hơn khi đưa khách vào VN. Điều đó mở ra cơ hội phát triển năng lực khai thác khách du lịch Inbound nói chung và làm cho hoạt động Inbound trong những năm tới phát triển mạnh mẽ hơn.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam thì lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tháng 12/2006 là 324.625 lượt, và lượng khách trong 12 tháng năm 2006 khoảng 3.583.486 lượt tăng 3% so với cùng kỳ năm 2005.
Bảng 3: Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tháng 12 và 12 tháng năm 2006.
ước tháng 12/2006
ước 12 tháng năm 2006
So với tháng trước(%)
So với năm trước(%)
Tổng số
324.625
3.583.486
106,2
103,0
Theo phương tiện
Đường không
267.679
270.2430
103,0
115,7
Đường biển
15.766
224.081
109,3
111,8
Đường bộ
41.180
656.975
131,9
69,8
Theo mục đích
Du lịch nghỉ ngơi
197.736
2.068.875
130,7
101,5
Đi công việc
54.820
575.812
106,1
116,2
Thăm người thân
45.453
560.903
158,6
110,4
Mục đích khác
26.616
377.896
77,0
86,9
Theo thị trường
Trung quốc
31.301
516.288
108,9
72,0
Hồng Kông
420
4.199
112,1
112,0
Nhật Bản
36.074
383.896
100,1
113,4
Hàn Quốc
43.428
421.741
110,1
129,4
Campuchia
8.429
154.956
70,1
78,0
Indonesia
1.921
21.315
87,4
92,3
Lào
1.765
33.980
116,2
79,5
Malaisia
15.350
105.558
120,5
131,0
Philippin
1.884
27.355
70,7
86,4
Singapo
13.673
104.947
140,2
127,6
Thái Lan
15.378
123.804
135,8
142,6
Mỹ
34.337
385.654
118,5
116,8
Canada
6.932
73.744
107,9
115,6
Pháp
11.362
132.304
79,0
99.-.2
Anh
7.626
84.264
86,6
101,6
Đức
7.179
76.745
73,8
110,6
Thuỵ Sỹ
1.555
16.686
81,2
108,6
Italya
1.338
15.746
71,2
96,6
Hà lan
2.375
26.546
80,5
115,7
Thuỵ điển
2.234
18.816
100,2
105,0
Đan mạch
1.313
18.050
79,0
120,0
Phần lan
512
5.342
123,1
108,6
Bỷ
1.384
14.770
68,8
105,3
Na uy
874
12.684
97,4
122,0
Nga
2.528
28.776
78,2
115,6
Tây Ban Nha
1.682
22.131
83,2
112,7
úc
20.170
172.519
143,8
115,9
Niudilân
1.171
14.162
87,9
103,0
Khách khác
26.185
291.847
105,3
107.7
Trên thực tế, với việc gia nhập WTO và tổ chức thành công hội nghị APEC 2006 vừa qua đã gây được sự chú ý lớn đối với cộng đồng quốc tế và làm sống lại thị trường du lịch quốc tế bằng hình ảnh là một điểm đến an toàn và cởi mở thân thiện. Là một cách quảng bá tự nhiên về Việt Nam. Ngày càng có nhiều người biết đến Việt Nam thông qua sự kiện này và muốn tìm hiểu và làm ăn với Việt Nam.
Theo số liệu thống kê thì lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm vừa qua đã có sự thay đổi đáng kể. Và với việc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường du lịch thì lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển cao hơn nữa và mở ra cơ hội kinh doanh khách Inbound cho các DNLH Việt Nam.
d. Khả năng kết nối tour với các nước trong khu vực và các nước thành viên.
Khi các hãng lữ hành được phép đặt chi nhánh, liên doanh_liên kết, thành lập doanh nghiệp tại các nước thành viên thì thị trường du lịch sẽ mở cửa rộng hơn, mạng lưới liên kết các doanh nghiệp được nới rộng và các điểm đến du lịch được liên kết với nhau tạo ra các tour, tuyến mới phong phú hơn. Và tất nhiên khi các điểm du lịch được liên kết giữa các nước tạo ra các tuyến mới, xây dựng các chương trình du lịch mới hấp dẫn hơn( sản phẩm du lịch đa dạng và phong phú) sẽ thu hút được cả khách du lịch Inbound và Outbound.
e. Sự phát triển của các ngành kinh tế khác kéo theo sự phát triển của ngành lữ hành.
Gia nhập WTO, tổ chức thành công các sự kiện quốc tế năm 2006, từ năm 2008-2010 là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, vị thế và hình ảnh của đất nước được nâng cao,Việt Nam sẽ được thế giới biết đến, có được môi trường pháp lý minh bạch, có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo một môi trường kinh doanh năng động, mở rộng cơ hội đầu tư, kinh doanh từ đó tăng việc tổ chức hội nghị hội thảo tại đây, phát triển loại hình du lịch công vụ.
Hiện nay, Việt Nam nổi lên là một điểm đến hấp dẫn cho loại hình du lịch hội nghị, hội thảo, triển lãm, khuyến thưởng (MICE_ Meeting, Incentive, Conference, Exhibition) tại khu vực Đông Nam á. Du khách sau khi tham dự hội nghị, hội thảo có thể tham dự các bữa tiệc được tổ chức tại các khách sạn
lớn và tham quan du ngoạn những cảnh đẹp nổi tiếng của nước ta.
Bốn yếu tố khiến Việt Nam trở thành điểm đến nổi bật tại thị trường khách MICE là bản sắc văn hoá đậm đà, món ăn ngon, sức sống dồi dào và an ninh tuyệt vời. Các sự kiện được tổ chức tại Việt Nam đều mang đậm bản sắc văn hoá nhưng vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ. Loại hình khách công vụ có xu hướng gia tăng nên nhu cầu về khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ vận chuyển cũng gia tăng, và nhu cầu tham quan cũng tăng tương ứng. Vì vậy ngành lữ hành cũng phát triển tương ứng. Báo Asia Time đã viết: “sự phát triển kinh tế bùng nổ tại Việt Nam đang tác động tích cực đến ngành du lịch và đem lại nhiều cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp không khói này”.
Khi nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao, nhu cầu tham quan giải trí, thư giãn tinh thần ngày càng tăng. Du lịch là một cách để thoả mãn các nhu cầu trên. Vì vậy khi nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo ngành lữ hành phát triển tương ứng.
2. Thách thức đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam.
a. Các thách thức trong thời gian trước mắt và sau thời gian ngắn hạn khi Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết hội nhập.
Trong những năm qua, trước khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam hoạt động kinh doanh dưới hàng rào bảo hộ chắc chắn của nhà nước, không cho phép các hãng lữ hành nước ngoài được phép đặt chi nhánh tại Việt Nam và không được phép tham gia vào thị trường này với 100% vốn mà chỉ có thể tham gia bằng cách liên doanh với các DN Việt Nam với một tỷ lệ góp hạn chế. Nhưng khi nước ta đã là thành viên của WTO thì hàng rào bảo hộ các DN trong nước bị thu hẹp lại, sự cạnh tranh trở nên gay gắt, các DN nước ngoài được tham gia một cách bình đẳng vào thị trường du lịch Việt Nam tạo ra những thách thức lớn cho các DNLH nước ta.
Hiện nay, trên cả nước có khoảng 480 DNLH quốc tế, 10.000 DNLH nội địa, 12.000 khách sạn với 70.000 phòng. Tuy số lượng các DNLH ở nước ta rất lớn nhưng số DN lớn hoạt động một cách chuyên nghiệp thì không nhiều. Hầu hết các DNLH của nước ta có quy mô nhỏ do nguồn vốn hạn chế, nguồn nhân lực yếu về chuyên môn. Người Việt Nam cần cù, chịu khó học tập, nhận thức nhanh nhưng trình độ ngoại ngữ, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, khả năng giao tiếp và ý thức đối với công việc rất hạn chế như: Hướng dẫn viên du lịch năm 2005có trên 5.193 người được cấp thẻ, nhưng những người sử dụng được Tiếng anh chiếm đa số 2.195 người,Tiếng Pháp 643 người,Tiếng Trung 1.599 người, Tiếng Nhật chỉ có 295 người, Tiếng Hàn chỉ mới cấp thẻ tạm thời. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ nguồn nhân lực phục vụ trong du lịch không qua đào tạo (khoảng 13.000 lao động) và khoảng 10.000 lao động có qua đào tạo nhưng cần phải được đào tạo lại do trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn kém không đáp ứng được yêu cầu. Các DNLH nước ta đã yếu về tiềm lực tài chính lại yếu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ do chất lượng nguồn nhân lực yếu nên hiệu quả làm việc chưa đạt yêu cầu.
Mặt khác, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch chưa đồng bộ. Hệ thống đường giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông… còn nhiều bất cập trong quy hoạch và phân phối. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng phục vụ du lịch. Hiện nay, hệ thống các cơ sở lưu trú, nhà hàng, khu vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn quốc tể chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh) với số lượng không nhiều và với lượng khách du lịch ngày càng tăng thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu. Như vậy, các doanh nghiệp lữ hành của Việt Nam đã bị hạn chế về nguồn lực tài chính lại thiếu những nhân lực có chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn thiếu đồng bộ và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu cần thiết thì tính chuyên nghiệp sẽ không cao. Các DNLH của Việt Nam chưa có kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường cạnh tranh gay gắt như khi chúng ta vào WTO và đây là một điểm yếu của các DN nước ta.
Trong khi khả năng cạnh tranh của các DN nước ta yếu: thiếu kinh nghiệm, nhân lực thiếu về số lượng và chất lượng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn nhiều hạn chế, khả năng tài chính yếu… thì các DNLH của nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các DN nước ta. Với lợi thế của mình, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có chiến lược cạnh tranh nhằm phân chia thị phần khách sử dụng sản phẩm du lịch Việt Nam như dùng hệ thống phân phối hùng mạnh để giành giật thị phần khách đến Việt Nam. Họ tận dụng khả năng tài chính hùng mạnh để tung ra các chương trình khuyến mãi trong thời gian nhất định nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh không mạnh về tài chính và sử dụng các biện pháp tài chính để hạ giá thành sản phẩm, như giữ lại toàn bộ giá trị gia tăng của sản phẩm ngoài lãnh thổ Việt Nam để tránh nộp thuế trên phần giá trị gia tăng và tránh thu nhập doanh nghiệp, chi trả các dịch vụ tại Việt Nam thông qua các tập đoàn dịch vụ bên ngoài lãnh thổ nước ta để giảm bớt thuể giá trị gia tăng.
Trong tình hình thị trường du lịch nước ta phát triển với tỷ lệ tăng trưởng như những năm gần đây, hệ thống cơ sở lưu trú và khách sạn nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu và điều này đem đến thách thức lớn cho các doanh nghiệp lữ hành bởi các công ty nước ngoài có tiềm lực lớn sẽ liên kết lại nhằm giành ưu đãi như đặt chỗ, đặt phòng cho họ và đẩy các công ty yếu tiềm lực đã khó khăn về nguồn khách lại rơi vào hoàn cảnh thiếu và khó khăn hơn. Còn nếu các cơ sở lưu trú này đáp ứng đủ, các liên kết này lại tiếp tục giành cho nhau những ưu đãi về giá, chất lượng phục vụ. Các doanh nghiệp của nước ngoài không ngần ngại có những chính sách thu hút nhân lực giỏi chuyên môn từ các doanh nghiệp trong nước khi họ đầu tư vào Việt Nam.
Hiện nay, chưa có sự liên kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành với các nhà cung cấp: các hãng vận tải, các khu lưu trú... do hầu hết các DNLH của nước ta có quy mô nhỏ, chỉ khai thác lượng khách thấp nên không thể thương lượng được mức giá ưu đãi từ phía hàng không, khách sạn, vận chuyển…như các DN lớn và các DN nước ngoài nên giá thành các gói dịch vụ cao sẽ gây khó khăn trong chiến lược cạnh tranh về giá với các doanh nghiệp lữ hành của nước ngoài với kỹ năng quản lý chuyên nghiệp, phục vụ dịch vụ hoàn hảo với giá thành thấp. Nguy cơ các DNVN bị thua ngay trong thời gian đầu khi hội nhập là rất lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là các khó khăn ban đầu khi chúng ta mới hội nhập. Khi chúng ta đã hội nhập sâu và toàn diện sau một thời gian dài thì những khó khăn thách thức ban đầu khi hội nhập sẽ là một sự sàng lọc tự nhiên,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0117.doc