Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2010

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 2

1. Tầm quan trọng của phát triển du lịch có chiến lược: 2

2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về Chiến lược Phát triển du lịch: 3

II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010: 5

1. Các mục tiêu phát triển du lịch giai đoạn 2000 - 2010: 5

2. Các Chiến lược Phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010: 6

III. MỘT SỐ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA BẢN THÂN: 26

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g.Vì trong xu thế hội nhập quốc tế, đây là những công cụ không thể thiếu cho ngành du lịch phát triển. + Đội ngũ lao động phải được đào tạo theo đúng nghề, bố trí đúng công việc. Đặc biệt đội ngũ thực hành nghề trực tiếp phục vụ khách cần được đào tạo cơ bản về thái độ cũng như phong cách phục vụ trong quá trình phục vụ khách, kĩ thuật phục vụ nhằm tạo ra chất lượng phục vụ tốt, tạo sự hài lòng cho khách.Về nội dung đào tạo, cần học hỏi các nước có ngành du lịch phát triển. + Trong xu thế tình hình thế giới có nhiều biến động, đội ngũ lao động trong ngành cần được giáo dục về đường lối chính sách của Đảng, nắm vững Chiến lược Phát triển du lịch của ngành, từ đó có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của ngành. + Trong xu thế hội nhập quốc tế, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch Việt Nam phải nhằm vào việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý cấp cao, quản lí doanh nghiêp quyết đoán trong suy nghĩ và hành động trong khuôn khổ pháp luật cho phép, nhìn nhận đúng các cơ hội, vạch ra chiến lược phù hợp cho du lịch phát triển trong từng thời gian cụ thể. Bên cạnh đó, đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao thành thạo trong sử dụng ít nhất là một ngoại ngữ (khuyến khích có từ hai ngoại ngữ trở lên), thành thạo trong sử dụng vi tính, nắm rõ các kiến thức có liên quan trong du lịch. Mục tiêu cuối cùng của chiến lược phát triển nguồn nhân lực là tạo ra đội ngũ lao động có trình độ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tạo sự hài lòng tối đa cho khách. Tạo ra đội ngũ nhân viên tươi cười, lịch sự, mau lẹ và chân thành là mục tiêu cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho du lịch Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. Trong thế kỷ 21, đội ngũ này kết hợp với sự hiếu khách của cả cộng đồng sẽ là lợi thế xoá đi khoảng cách về công nghệ với các nước khác, tạo thuận lợi cho du lịch Việt Nam cạnh tranh và đứng vững trên thị trường thế giới . * Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch : Mặc dù con số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam và khách du lịch nội địa có tăng, nhưng có thể thấy trên thực tế là tỷ lệ tăng trưởng về doanh thu du lịch tăng chưa tương xứng. Một điều mà rất nhiều khách quốc tế cũng như các chuyên gia về du lịch nhận xét là du lịch Việt Nam còn thiếu các dịch vụ vui chơi giải trí có khả năng lôi cuốn khách tiêu dùng. Do đó bình quân tiêu dùng một khách du lịch ở Việt Nam mới là 50 SD/ngày.Trong khi ở các quốc gia phát triển về du lịch con số này có thể lên tới 100 USD/ngày. Vậy ngành du lịch cần phải làm gì và làm như thế nào để kéo dài ngày lưu trú của khách du lịch và khuyến khích khách tiêu dùng. Câu trả lời nằm ở chiến lược phát triển sản phẩm của du lịch Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. Vấn đề đầu tiên đặt ra là ngành du lịch Việt Nam cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch cho phù hợp với thị trường mục tiêu. Có nghĩa là kinh doanh lữ hành cần tạo ra các tour, chuyến du lịch thực sự phong phú, hấp dẫn khách, điều này đi đôi với việc cung cấp dịch vụ hướng dẫn đạt chất lượng cao. Các tour du lịch phải được xây dựng trên cơ sở xem xét, phân tích kĩ tâm lí của khách ở mỗi quốc gia khác nhau và khả năng thanh toán của khách. Việc đa dạng hoá sản phẩm thể hiện ở sự đa dạng hoá các loại hình du lịch. Bên cạnh các loại hình du lịch truyền thống như du lịch bồi dưỡng sức khoẻ, nghỉ biển, cần có các loại hình du lịch khác như du lịch hang động, du lịch chơi golf, thể thao, câu cá sông nước hay du lịch cho những người say mê một lĩnh vực nào đó như tham quan các làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, du lịch lễ hội, các sinh hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc, hoặc loại hình du lịch hội nghị, festival, trong đó cần chú trọng phát triển du lịch văn hoá và sinh thái. Điều cơ bản là các sản phẩm du lịch được tạo ra phải độc đáo, đặc trưng, giàu bản sắc dân tộc, nhấn mạnh vào các sản phẩm du lịch mảng truyền thống văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, phong tục tập quán truyền thống của Việt Nam …để tạo ưu thế cạnh tranh, thu hút khách nhằm chiếm lĩnh mở rộng thị trường. Song song với xu hướng trên, cần tạo ra các khu vui chơi giải trí có qui mô để thu hút khách tiêu dùng các dịch vụ nhằm tăng doanh thu song cũng tạo ra sự thoải mái hơn cho khách trong những ngày lưu lại Việt Nam. Để phát huy sức cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm du lịch, ngoài tính năng đặc thù, các sản phẩm du lịch còn phải phù hợp với việc kết nối tour với các quốc gia lân cận có đường biên giới chung.Trong tương lai không xa, khi việc nối tour du lịch đường bộ Malaysia, Singgapore và Myanma với tuyến du lịch Đông Dương thành hiện thực, sẽ là cơ hội cho chúng ta khai thác và phát triển du lịch với các hình thức hấp dẫn theo phong cách truyền thống Việt Nam. Ngoài ra, các dự án hợp tác du lịch tiểu vùng Sông Mêkông mở rộng, chương trình hợp tác du lịch hành lang Đông Tây, hợp tác du lịch sông Mêkông - sông Hằng, cùng Lào và Thái Lan khai thác tuyến du lịch đường bộ liên hoàn ba nước cũng là cơ hội cho việc đa dạng hoá sản phẩm du lịch ở Việt Nam. Trong năm 2000, bên cạnh việc khai thác các tour du lịch truyền thống như Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, Huế – Nha Trang - Đà Nẵng, Nha Trang – Ninh Chữ - Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng bằng sông Cửu Long …đã có nhịều loại hình du lịch mới xuất hiện, như du lịch mạo hiểm , du lịch sinh thái …các điểm du lịch mới được đưa vào khai thác đã bước đầu hấp dẫn du khách. Như du lịch mạo hiểm, thám hiểm Fansipang (Hà Nội toserco ), chương trình du lịch mạo hiểm ở các tỉnh Tây bắc, chương trình du lịch mạo hiểm các tỉnh Đông Bắc (Hà Nội - Cao Bằng – Ba bể – Hà Nội ); du lịch văn hoá có tuyến du lịch các làng nghề và các chùa ở lân cận Hà Nội như thăm làng gốm Bát tràng, thăm làng lụa Vạn phúc, tuyến du khảo đồng quê (Hải phòng), tuyến du lịch mới Đồ Sơn – Cát Bà -Hạ Long – Móng Cái ; du lịch sinh thái được phát triển ở Quảng Ninh, việc khánh thành bảo tàng sinh thái học Hạ Long với phương pháp luận “đưa con người hoà nhập với môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá ” nhằm tạo ra một lối sống mới thân thiện hơn, có trách nhiệm hơn với môi trường. Chúng ta có thể tin tưởng rằng đây sẽ là bước cơ sở để giáo dục toàn dân về bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên, tạo cơ hội cho hình thức du lịch sinh thái phát triển . Năm 2000, các hình thức du lịch gắn với các sự kiện, lễ hội văn hoá cũng được triển khai, với 21 lễ hội được chọn làm địa điểm tổ chức trong khắp cả nước. Như vậy, có thể nhận thấy rõ những nét chuyển biến tích cực của sản phẩm du lịch của Việt Nam trong năm qua. Trong tương lai, hoạt động này cần được đẩy mạnh hơn nưã, nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn thực sự với khách du lịch trong và ngoài nước. Các hướng chính nên khai thác là: + Đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng cho hai đầu mối du lịch quan trọng cuả cả nước là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Hà Nội, cùng với việc hoàn thành việc xây dựng tôn tạo nhà Thái Học, cần chú trọng công tác tu bổ và tôn tạo các điểm di tích Bắc Môn, Đoan Môn và Hậu Lâu trong khu thành cổ Hà Nội. Các khu quanh Hồ Hoàn Kiếm và các tuyến phố quan trọng nên được lắp thêm đèn, trồng thêm hoa, cây cảnh. Có thể phát triển các loại hình du lịch ban đêm lành mạnh như thăm quan thành phố, dạo chợ đêm …đây là một mảng tiềm năng quan trọng chưa được khai thác. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xúc tiến việc thực hiện du lịch đi bộ trong khu phố cổ, nâng cấp các phố Tống Duy Tân thành phố ẩm thực, chú trọng việc kết nối tour du lịch với các tỉnh lân cận để tạo ra các tour du lịch có chất lượng cao bởi lợi thế cạnh tranh của các điểm du lịch độc đáo của mỗi vùng để tạo ra sức hấp dẫn mới đối với khách. Trong qui hoạch của mình, Hà Nội cũng đầu tư nâng cấp xây dựng một số khu vui chơi giải trí lớn dựa trên các khu công viên sẵn có. Bên cạnh đó, Hà nội dự kiến sẽ xây dựng khu công viên với vườn thú hoang Mễ Trì.Tin chắc rằng, sau khi hoàn thành các dự án trên, Hà nội sẽ là một điểm du lịch lớn của cả nước, xứng đáng với bề dày 990 năm Thăng Long - Hà Nội và có sức hấp dẫn với khách du lịch. Đối với du lịch thành phố Hồ Chí Minh cần chú trọng về khai thác du lịch sinh thái, thực hiện tuần lễ du lịch sinh thái Cần Giờ, phát triển du lịch sinh thái vườn, nâng cấp khu Củ Chi, công viên văn hóa, lịch sử dân tộc tháp truyền hình. Bên cạnh việc đầu tư cho các khu du lịch, du lịch Việt Nam nên có kế hoạch phát triển du lịch biển vì các bãi biển Việt Nam còn khá hoang sơ và đây chính là yếu tố tạo ra sức hấp dẫn với du khách nước ngoài. Cần tạo ra các khu bảo tồn biển được hình thành cùng với sự đa dạng sinh học biển. Phấn đấu đạt mục tiêu phát triển phong phú về sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch. Song sản phẩm du lịch vẫn phải đảm bảo định hướng chính là du lịch cảnh quan, văn hóa và sinh thái trên cơ sở khai thác hợp lí các nguồn tài nguyên về du lịch và phải đảm bảo mục tiêu an ninh, trật tự xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đây chính là nét đặc sắc của du lịch Việt Nam trong thế kỉ 21. * Chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch : Trong chiến lược phát triển của ngành, du lịch Việt Nam đề rõ mục tiêu là: Phát triển nhanh và bền vững du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, việc nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch là một điều kiện tiên quyết cho giữ vững định hướng chiến lược của ngành. Bởi vì, dù chúng ta có tốn bao nhiêu nguồn lực để quảng bá thu hút khách đến thăm nhưng khi du khách đến Việt Nam lại được phục vụ bởi chất lượng phục vụ kém thì hậu quả sẽ là sự tổn thất gấp bội. Nâng cao chất lượng phục vụ sẽ là một yếu tố trợ giúp tích cực cho sự phát triển bền vững của ngành bởi khách du lịch sẽ chỉ quay trở lại một quốc gia khi chất lượng phục vụ ở đó là hoàn hảo đối với cảm nhận của họ. Chất lượng dịch vụ du lịch được đề cập trên cả ba góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi của hàng hóa dịch vụ và khả năng sẵn sàng phục vụ đón tiếp khách. Xét ở khía cạnh thái độ phục vụ, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà hàng và dịch vụ hướng dẫn, vận chuyển khách du lịch. Trong kinh doanh dịch vụ nhà hàng cần tạo uy tín và nét đặc trưng trong phong cách phục vụ của khách sạn Việt Nam. Nên tăng cường yếu tố bản sắc văn hóa, văn minh dân tộc trong quá trình phục vụ khách. Muốn đạt yêu cầu đó, ngành du lịch cần đào tạo một đội ngũ phục vụ tận tình, chu đáo, ân cần, văn minh, lịch sự nhằm gây ấn tượng tốt cho khách về ngành và đất nước, con người Việt Nam. Trong việc cung cấp dịch vụ vận chuyển và hướng dẫn cũng cần có yêu cầu tương tự đối với nhân viên. Thêm vào đó, hướng dẫn viên cần có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, thông thoại về ngoại ngữ. Về tính tiện nghi và đa dạng của hàng hóa dịch vụ, cần chú trọng phát triển thêm nhiều loại hình lưu trú mới bao gồm: khu du lịch, làng du lịch, căn hộ cho khách thuê… Ngoài việc mở rộng loại hình lưu trú, cần tăng cường tính tiện nghi trong khách sạn. Trong tương lai, các cơ sở lưu trú này không chỉ cung cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí của khách mà phải vươn tới các dịch vụ cao cấp như cung cấp dịch vụ về mạng internet phục vụ cho đối tượng khách thương gia, dịch vụ gửi fax , tìm tin… Đa dạng hóa các chương trình du lịch cũng là một trọng tâm trong quá trình nâng cao chât lượng phục vụ bởi tour du lịch chính là sản phẩm dịch vụ cơ bản của ngành. Trong các năm vừa qua, tình trạng các hãng lữ hành cắt xén bớt chương trình tour tùy tiện, đã tạo ấn tượng không tốt với khách. Nhược điểm này nhất định cần được khắc phục trong tương lai gần. Cần thường xuyên đưa vào khai thác các tuyến điểm mới, hoàn thiện các tuyến điểm truyền thống, có thể tổ chức các chương trình giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm cung cấp cho khách du lịch, để giới thiệu những nét đặc sắc trong cuộc sống của con người Việt Nam. Cuối cùng là việc nâng cao khả năng sẵn sàng phục vụ đón tiếp khách. Công tác chuẩn bị đón tiếp có liên quan đến nhiều cấp , nhiều ngành , nhiều địa phương. Nó chịu tác động của các chính sách của Nhà nước ở cấp vĩ mô, đồng thời phụ thuộc vào sự nỗ lực của bản thân các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch. ở tầm vĩ mô, cần đơn giản hóa các thủ tục cho khách du lịch nhập cảnh vào Việt Nam. Đối với các thị trường khách du lịch trọng điểm nên được miễn visa. Mặt khác, các ngành có liên quan như hàng không, văn hóa, giao thông vận tải …cần hợp tác cùng du lịch phát triển. ở tầm vi mô, các đơn vị cung ứng các sản phẩm dịch vụ du lịch phải luôn luôn ở trong tình thế chủ động khi đón tiếp khách. Với khách sạn là sự vệ sinh phòng khách đã đăng kí, trong kinh doanh nhà hàng là sự bảo đảm chỗ cho khách đã đặt trước cũng như khách mới tới. Khả năng sẵn sàng đón tiếp khách còn thể hiện thông qua sự phục vụ tận tình, chu đáo của đội ngũ phục vụ, không chỉ đáp ứng yêu cầu của khách, mà còn có khả năng phục vụ ngay khi nhận biết nhu cầu của khách, nếu điều này được thực hiện, chắc chắn chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam sẽ tạo được uy tín với khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 2000, nhằm thực thi chính sách về nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, Tổng cục du lịch đã tổ chức bình chọn top ten trong kinh doanh khách sạn, lữ hành nhằm khuyến khích phong trào nâng cao chất lượng dịch vụ ở các lĩnh vực này.Thêm vào đó, việc ban hành qui định tiêu chuẩn xếp hạng các khách sạn của Tổng cục Du lịch đã tạo điều kiện cho sự chuẩn hóa chất lượng các dịch cung cấp tại các cơ sở. Tổng cục cũng tổ chức hai hội thi tay nghề trên phạm vi toàn ngành cho huớng dẫn viên và lễ tân khách sạn. Đây chính là một biện pháp khuyến khích có hiệu quả sự trau dồi về trình độ chuyên môn, kĩ năng thực sự hành nghề cho lao động trong ngành. Đặc biệt, Nghị định 39/2000/NĐ - CP do Thủ tướng Chính phủ ký về cơ sở lưu trú dịch vụ là điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh dịch vụ lưu trú, đồng thời là cơ sở pháp lý nhằm chuẩn hóa chất lượng dịch vụ du lịch được cung cấp. Mặc dù, trên thực tiễn chất lượng các dịch vụ du lịch đã có nhiều hướng chuyển biến tích cực trong những năm vừa qua nhưng để thực sự nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ của ngành tương xứng với vai trò, vị trí của ngành đã được xác định trong giai đoạn 2000 - 2010. Phát triển chất lượng dịch vụ du lịch cần chú trọng các công tác sau: Hoàn thiện công tác xếp hạng các khách sạn ở Việt Nam. Tiến hành thẩm định lại các khách sạn đã được xếp hạng nhằm bảo đảm giữ vững uy tín của hệ thống khách sạn Việt Nam. Thực thi thí điểm các tiêu chuẩn ISO-9000 về hệ thống chất lượng dịch vụ cho các khách sạn, nhà hàng phục vụ khách du lịch. Tổng cục du lịch nên tiếp tục việc tổ chức các hội thi tay nghề, bầu chọn top ten trong kinh doanh khách sạn, lữ hành để khuyến khích phong trào nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp ở từng người lao động cũng như các doanh nghiệp du lịch. Mặt khác, cần xúc tiến công tác thanh tra, kiểm tra giám sát và phạt, xử lý với các đơn vị kinh doanh vi phạm các tiêu chuẩn chất lượng được đề ra. Cuối cùng, song lại hết sức cần thiết, Tổng cục Du lịch phải mở các lớp bồi dưỡng kiến thức một cách thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch tổ chức các khóa đào tạo thường xuyên cho đội ngũ lao động của mình, cuối khóa học có thể thi tổ chức kiểm tra chất lượng nếu thấy cần thiết. Công việc này giúp bảo đảm một đội ngũ lao động có đủ trình độ về năng lực chuyên môn, kỹ thuật phục vụ khách, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của ngành. Trong giai đoạn hiện nay, các nước đang cạnh tranh gay gắt với nhau về các sản phẩm du lịch được chào bán trên thị trường. Cùng với xu hướng của quốc tế hóa trong kinh doanh du lịch, việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch là cơ sở tạo lòng tin với khách du lịch về uy tín, chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam, đây cũng là nền tảng cho phát triển du lịch một cách bền vững. * Chiến lược về giữ gìn, tôn tạo phát triển tài nguyên du lịch: Môi trường: Việt Nam hội đủ những điều kiện cần thiết để trở thành một trung tâm du lịch tầm cỡ của khu vực. Nằm ở trung tâm vùng Đông Nam á rộng lớn, giàu có Việt Nam có nhiều tiềm năng du lịch cả về tài nguyên thiên nhiên và giá trị nhân văn của nên văn hoá. Việt Nam cũng là đất nước có truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời rất đặc sắc. Trên phạm vi cả nước, số các di tích được xếp hạng di tích lịch sử, di tích văn hoá khá lớn. Đặc biệt Việt Nam là quốc gia có số lượng các di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hoá, tự nhiên thế giới nhiều trong khu vực (một di sản thiên nhiên: Vịnh Hạ long; ba di sản văn hoá: Cố đô Huế, Phố cổ Hội an, Thánh địa Mỹ sơn). Với đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước các di tích văn hoá, lịch sử trong cả nước đã được lựa chọn đưa vào khai thác có hiệu quả. Song, việc phát triển du lịch nhanh, bền vững không có nghĩa là phát triển du lịch bằng mọi giá. Mà song song với viẹc khai thác cần giữ gìn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường. Có như vậy, du lịch mới phát triển được một cách bền vững và có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của nước nhà. Trong thời gian vừa qua, tại một số các địa bàn có di tích việc phát triển du lịch thiếu sự chú trọng đến việc bảo tàng, bảo tồn đã dẫn đến nhiều công trình kiến trúc có giá trị lịch sử bị xuống cấp nghiêm trọng. Thêm vào đó, nhiều công trình đang đứng trước mối đe doạ bị thời gian và thiên tai làm ảnh hưởng. Thực hiện đường lối phát triển du lịch mới của Đảng và Nhà nước, phát triển du lịch nhanh và bền vững thành ngành kinh tế mũi nhọn, việc phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ, tôn tạo tài nguyên, môi trường du lịch đã được chú trọng. Các dự án đầu tư du lịch đều phải tính tới việc nâng cấp di sản văn hóa, lịch sử, bảo vệ cảnh quan môi trường. Tổng cục Du lịch đã tiến hành thống kê, đánh giá hoạt động tại các điểm du lịch, đồng thời phối hợp với Bộ Văn hoá nhằm lựa chọn, đề xuất tu bổ một số di tích lịch sử, văn hoá tại các điểm du lịch được lựa chọn. Các phương án tôn tạo, tu bổ các di tích và các biện pháp huy động tài chính để thực hiện công việc này đã được triển khai. Đặc biệt là việc tôn tạo di sản văn hoá Huế đã được thực thi. Bảo tồn, tôn tạo các tài nguyên du lịch là cần thiết nhằm duy trì giá trị của tài nguyên, cũng như duy trì sự hấp dẫn của điểm du lịch với khách. Đi đôi với việc bảo vệ các tài nguyên, phát triển du lịch cũng cần chú trọng việc bảo vệ môi trường, cảnh quan các điểm du lịch. Môi trường tại các điểm du lịch bao gồm: Môi trường xã hội, an ninh, an toàn tại các khu du lịch. Trong giai đoạn 2000 – 2010, để giữ gìn môi trường du lịch lành mạnh tại các điểm du lịch, phương hướng được Tổng cục Du lịch đề ra là: + Thu thập các quy chế quản lý khu du lịch do địa phương ban hành, nghiên cứu đánh giá tình hình quản lý các khu du lịch của các địa phương. Trên cơ sở đó lựa chọn những vấn đề cấp bách, cần giải quyết như ăn mày, ăn xin chèo kéo khách...để môi trường văn hoá được đảm bảo tại các điểm du lịch. + Tiến hành nghiên cứu dự án về an ninh, an toàn du lịch do WTO soạn thảo, xác lập các tiêu chí về an ninh, an toàn du lịch trong điều kiện Việt Nam. + Xây dựng và thực hiện các chương trình giáo dục cộng đồng bảo tồn các phong tục, tập quán, lối sống của một số địa phương. + Tiến tới việc ban hành các văn bản pháp lý về quản lý, khai thác các điểm du lịch nhằm tiến tới thống nhất trong cả nước về quản lý các điểm du lịch. Trong tương lai, để công tác giữ gìn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch cũng như môi trường có hiệu quả, ngành du lịch cần thực hiện những việc sau: + Chú trọng giáo dục toàn dân về tầm quan trọng của các di tích lịch sử, văn hoá đối với cả dân tộc nói chung và phát triển du lịch nói riêng, để cư dân địa phương tham gia tích cực trong công tác bảo tồn, bảo tàng và giữ gìn môi trường. Bản thân những người làm trong ngành phải nắm rõ và luôn cân nhắc giữa phát triển du lích với bảo vệ môi trường, trùng tu các di tích. Nên tránh tình trạng chỉ biết khai thác tài nguyên, làm phá hỏng môi trường. + Tại các điểm du lịch cần có nội quy rõ ràng để khách du lịch biết và thực hiện. + Đây là công việc liên quan đến nhiều ngành như: Công an, Bộ Văn hoá - thông tin, Cục môi trường, Bộ Khoa học - Công nghệ – Môi trường..., do đó ngành du lịch cần phối hợp tích cực với các ngành này để triển khai chiến lược một cách có hiệu quả. Nên trích lập quỹ dùng cho việc tu bổ, tôn tạo một cách thường xuyên các di tích, thu hút nguồn vốn nước ngoài trong công tác tu bổ. Phát triển nhanh du lịch đi đôi với công tác giữ gìn bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường là hướng đúng đắn cho du lịch Việt Nam. Sản phẩm du lịch Việt Nam chủ yếu là du lịch văn hoá, sinh thái do đó tài nguyên du lịch, môi trường đóng một vai trò rất quan trọng. Hơn nữa, khai thác đi đôi với bảo vệ là tiền đề để phát triển du lịch bền vững lâu dài, nhằm giữ vững định hướng phát triển du lịch đi đôi với giữ gìn bản sắc văn hoá đặc sắc truyền thống dân tộc, phẩm chất con người Việt Nam. * Chiến lược đầu tư: Định hướng phát triển nhanh và bền vững du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trong có cấu nền kinh tế quốc dân đã tạo ra bước ngoặt cho ngành trong việc thu hút đầu tư cho sự phát triển của ngành. Có thể nói, trong kinh doanh du lịch, nếu không có đầu tư cho thì cũng sẽ không có khách du lịch ,bởi không có sản phẩm mới, không có sự cải tiến, nhất là trong xu thế cạnh tranh đa dạng hóa sản phẩm diễn ra mạnh mẽ giữa các quốc gia phát triển du lịch. Qua thực tế phát triển du lịch Việt Nam trong hai năm qua (1999-2000) cho thấy ngành du lịch được Chính phủ cấp Ngân sách 27 tỷ đồng cho Chương trình Hành động quốc gia về du lịch, kết quả là đã làm tăng thêm 600.000 lượt khách quốc tế tạo tăng thu gần 300.000 tr USD . Rõ ràng đầu tư cho du lịch là một hình thức đầu tư có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh, cần được phát huy trong tương lai. Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam, nguồn kinh phí cho hoạt động phát triển du lịch ỏ Việt Nam phần lớn dựa vào kinh phí Nhà nước cấp, bản thân nguồn vốn tự có của Tổng cục Du lịch không có khả năng đáp ứng cho hoạt động đầu tư phát triển du lịch. Trong bối cảnh nguồn kinh phí còn hạn hẹp, Chiến lược đầu tư cho Việt Nam là đẩy mạnh việc thu hút và đa dạng hóa các nguồn vốn cho sự phát triển.Cần huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn như các hình thức vay, cổ phần hóa, hoặc cho phép tư nhân xây dựng mới và tôn tạo nâng cấp các khu du lịch, danh lam thắng cảnh, cơ sở vui chơi giải trí, khách sạn. Song song với việc thu hút vốn, cần có hình thức sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả. Nên có sự lựa chọn với đối tác nước ngoài sao cho hợp tác bình đẳng cùng có lợi, tránh tình trạng bị xử ép. Đặc biệt, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các chương trình du lịch có quy mô lớn như các làng du lịch, làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Nên khuyến khích các hình thức đồng sở hữu, huy động vốn bằng cách hình thành các công ty cổ phần ở các lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà hàng, vận chuyển với hình thức sở hữu đan xen và các mô hình quản lý mới năng động và có hiệu quả . Đặc biệt cần chú trọng đầu tư theo chiều sâu cho các lĩnh vực lữ hành, vận chuyển bởi lữ hành chính là cầu nối cho cung, cầu gặp nhau trong du lịch Đầu tư cho lữ hành thực chất bao gồm 2 khía cạnh: đầu tư cho các văn phòng đại diện, chi nhánh ở các thị trường trọng điểm như: Trung quốc, Nhật, Anh, Pháp, Mỹ và đầu tư cho đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp lữ hành. Trong khi nguồn kinh phí đầu tư còn hạn hẹp, đầu tư cho du lịch chỉ nên thực hiện trên cơ sở xem xét kĩ lượng các định hướng, quy hoạch tổng thể về phát triển du lịch và đầu tư một cách có trọng điểm tại các địa bàn quan trọng nhằm tạo các dự án có khả năng thu hút vốn nước ngoài. Quán triệt tư tưởng này, Tổng cục du lịch đã tiến hành phân nước ta thành 3 vùng du lịch trọng điểm để tiện việc xem xét đâù tư phát triển của từng vùng. Vùng I, Vùng du lịch Bắc bộ gồm 23 tỉnh từ Hà giang đến Hà tĩnh, thủ đô Hà nội là trọng tâm với tam giác động lực tăng trưởng du lịch là Hà nội – Hải phòng – Hạ long. Vùng II, Vùng du lịch Bắc trung bộ gồm 5 tỉnh từ Quảng bình đến Quảng ngãi, với Huế và Đà nẵng là trung tâm đồng vị của vùng và trục phát triển du lịch: Huế - Đà nẵng – Lao bảo. Vùng III, Vùng du lịch Nam trung bộ và Nam bộ gồm 25 tỉnh từ Kontum đến Cà Mau với 2 á vùng du lịch là Nam trung bộ (9 tỉnh) và Nam bộ (16 tỉnh) trung tâm của vùng là thành phố Hồ Chí Minh, ở vùng có các tam giác tăng trưởng du lịch: Thành phố Hồ Chí Minh – Nha trang - Đà lạt; Thành phố Hồ Chí Minh – Cần thơ - Kiên giang và tam giác tăng trưởng kinh tế – du lịch TP. Hồ Chí Minh – Biên hoà - Vũng tàu.Trên cơ sở phân vùng du lịch, việc xác định các trọng điểm đầu tư đã được xác định rõ. Xét trên các lĩnh vực cần đầu tư cho phát triển du lịch cần tập trung các vấn đề sau: Thứ nhất đầu tư khách sạn, chuyển tiếp phục vụ du lịch theo tuyến năm 2010 cần thiết 51.200 buồng; vùng II cần thêm 10.700 buồng; vùng III cần thêm 20.300 buồng, với tổng số vốn cần đầu tư là 3.039 triệu USD. Thứ hai, tập trung xây dựng các trung tâm du lịch ở các địa bàn lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc đầu tư tôn tạo, giữ gìn danh lam thắng cảnh và giữ gìn di tích, môi trường di tích là cần thiết. Nên ưu tiên những dự án đầu tư cho các khu du lịch tổng hợp như dự án Non nước (Đà nẵng), Thuận an (H

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docH0109.doc
Tài liệu liên quan