1 Các cụm từ viết tắt
Tóm tắt
Lời cảm ơn
Giới thiệu
1.1 Cơ sở
1.2 Các nguyên tắc phân tích
1.2.1 Quy mô chiến lược xuất khẩu ngành
1.2.2 Khuôn khổ thiết kế và quản trị chiến lược
1.2.3 Áp dụng chuỗi giá trị vào hoạt động đánh giá năng lực cạnh tranh
2 Tầm nhìn
3 Đánh giá thực trạng ngành
3.1 Sự phân khúc của ngành
3.1.1 Đóng gói mềm
3.1.2 Đóng gói cứng
3.1.3 Phân khúc theo nhóm thị trường-sản phẩm
3.2 Hoạt động xuất khẩu
3.2.1 Xuất khẩu nhựa
3.2.2 Xuất khẩu bao bì nhựa
3.2.3 Thị trường xuất khẩu theo nước
3.2.3.1 Các nền kinh tế phát triển
3.2.3.2 Các nền kinh tế đang nổi của ASEAN
3.2.3.3 Các nền kinh tế chuyển đổi
3.3 Cạnh tranh
3.3.1 Các đối thủ cạnh tranh
3.3.2 Vị thế cạnh tranh của các nhà xuất khẩu Việt Nam
3.3.2.1 Sản phẩm và quy trình sản xuất
3.3.2.2 Cạnh tranh trên cơ sở chi phí
3.3.2.3 Cạnh tranh về khác biệt sản phẩm
3.3.2.4 Những mối liên kết ngược – xuôi và các ngành phụ trợ
3.3.2.5 Sự hiển thị của các nhà xuất khẩu Việt Nam trên các trang web mua bán
3.3.3 Tiếp cận thị trường xuất khẩu
3.4 Chuỗi giá trị hiện tại của ngành
3.5 Chính sách và chiến lược hỗ trợ của nhà nước đối với ngành
3.5.1 Các chính sách phát triển chiến lược
3.5.2 Các chính sách khác của nhà nước - thuế
3.6 Mạng lưới hỗ trợ thương mại của ngành
3.6.1 Hỗ trợ xúc tiến thương mại
3.6.2 Dịch vụ thông tin thương mại
3.6.3 Tài chính thương mại
3.6.4 Dịch vụ quản lý chất lượng xuất khẩu
3.6.5 Các dịch vụ hỗ trợ thương mại khác
4 Phân tích SWOT
4.1 Phân tích SWOT tổng thể ngành
4.2 Phân tích SWOT theo phân ngành
4.2.1 Màng mỏng và túi PE
4.2.2 Túi và bao bì dệt
4.2.3 Nhựa cán mỏng
4.2.4 Màng “BOPP”
4.2.5 Ép đùn các tấm nhựa và thùng chứa theo định dạng
4.2.6 Các sản phẩm khuôn
4.2.7 Các sản phẩm khuôn thổi HDPE
4.2.8 Chai PET
4.2.9 Tuyp đóng gói mềm
5 Các giải pháp chiến lược
5.1 Chuỗi giá trị tương lai của ngành
5.2 Chiến lược ưu tiên cho phát triển trong tương lai
6 Phụ lục 1: Hồ sơ ngành nhựa Việt Nam
7 Phụ lục 2:
8 Phụ lục 3:
8.1 Thị trường EU
8.2 Thị trường Hoa Kỳ
9 Phụ lục 4: Các trang web tham khảo
9.1 Các trang web thương mại toàn cầu
9.2 Các trang web ngành nhựa
Hình 1 Mô hình chuỗi giá trị ngành
Hình 2 Ví dụ về chuỗi giá trị hiện tại của ngành bao bì nhựa
Hình 3 Chuỗi giá trị tương lai về phân khúc đối với ép đùn màng mỏng PE
Biểu đồ 1 xuất khẩu nhựa theo nước 1H-2006
Biểu đồ 2 Quy mô thị trường bao bì dẻo – đánh giá năm 2006
Biểu đồ 3 Quy mô thị trường bao bì cứng – đánh giá năm 2006
Biểu đồ 4 Xuất khẩu nhựa sang các nước Châu Âu -1H-2006
Biểu đồ 5 Số lượng sản phẩm bao bì loại vừa và mềm (FIBC) và túi PP dệt mà các nhà sản xuất đăng ký trên trang mua bán “alibaba”
Bảng 1 Phân khúc về thị trường-sản phẩm bao bì nhựa
Bảng 2 Sản phẩm nhựa xuất khẩu theo nước
Bảng 3 Hoạt động xúc tiến thương mại năm 2005 -2006
Bảng 4 Phân tích SWOT về ngành
Bảng 5 Những sáng kiến mang tính chiến lược
52 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4283 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược xuất khẩu ngành Ngành bao bì nhựa Việt Nam 2007-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa tạo dựng được vị trí thích hợp, ngay cả khi dùng vào mục đích truy cập để tìm nguồn thông tin về các loại hình sản phẩm được sản xuất.
Các website tiếng Anh của một số nhà sản xuất đã mang lại những ấn tượng tốt về năng lực sản xuất, đặc biệt là đối với những dòng sản phẩm của họ, chứng nhận chất lượng và trang thiết bị tại chỗ. Trong tương lai, các nguồn tham khảo thông tin về các nhà sản xuất nên được cải thiện tốt hơn.
Cổng Thương mại điện tử quốc gia Việt Nam - Bộ Thương mại là một công cụ có thể sử dụng.
Biểu đồ 5: Số lượng các nhà sản phẩm bao bì container (FIBC) và túi PP dệt đăng ký trên trang mua bán “alibaba”
0
10
20
30
40
50
Ấn Độ
Thổ Nhĩ Kỳ
In-đô-nê-xia
Pakistan
Xinh-ga-po
Đài Loan
I-ta-lia
Đức
Việtna
Tiếp cận thị trường xuất khẩu.
Đối với phần lớn các nhà sản xuất của Việt Nam, tiếp cận với thị trường xuất khẩu trước tiên được thực hiện thông qua các trang web và thư từ trao đổi với khách hàng nước ngoài trên cơ sở những yêu cầu của họ. Những nhà xuất khẩu nhỏ thường thiết lập quan hệ với một vài khách hàng nước ngoài khi đối tác cung cấp những tư vấn về công nghệ, những tham khảo về cung cấp nguyên liệu và trang thiết bị cùng với các đơn hàng của họ, điều này đặc biệt thường hay thực hiện với thị trường Nhật Bản. Trong nhiều trường hợp, các sản phẩm bao bì nhựa của Việt Nam được xuất khẩu thông qua các đại lý/nhà phân phối thuộc bên thứ ba. Các nhà sản xuất của Việt Nam thường tìm hiểu nhu cầu và xu hướng của khách hàng thông qua lăng kính của các đại lý/nhà phân phối và rất thụ động với những biến đổi của thị trường. Xuất khẩu qua trung gian rõ ràng sẽ giảm lợi nhuận cho sản phẩm bao bì nhựa của Việt Nam. Bên cạnh đó, hình ảnh của sản phẩm Việt Nam cũng sẽ không được thừa nhận và vẫn sẽ không có những chú dẫn về nguồn gốc sản xuất trên sản phẩm. Kết quả là, sản phẩm bao bì nhựa của Việt Nam thường mang thương hiệu riêng của khách hàng.
Trong vài trường hợp, việc mua hàng được thực hiện thông qua đấu giá trên internet nhờ những công cụ tìm kiếm chuyên môn. Để đáp ứng những hoạt động mua bán theo phương thức này, cần có sự giám sát thường xuyên trong thời gian tới. Hiện nay, các nhà sản xuất bao bì nhựa ở Việt Nam vẫn còn yếu trong bán đấu giá trên thị trường (thông qua Internet).
Các nhà sản xuất bao bì nhựa của Việt Nam thường không có mối liên hệ trực tiếp với những nhà sản xuất ở các nước phát triển. Trong khi đó, những doanh nghiệp này đang phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh về giá cả và họ chưa thể tổ chức sản xuất ở những nước mà chi phí lao động rẻ. Điều này dẫn đến kết cục là các nhà sản xuất Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội xây dựng quan hệ đối tác với họ..
Mặc dù hầu hết các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam đã xây dựng được trang web của mình nhưng chất lượng của những trang web này vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu về bán hàng hiệu quả qua internet do thiếu thông tin về giá cả và kỹ thuật, số lượng giao hàng tối thiểu, thiếu những điều kiện đối chiếu và số lượng hàng theo tải trọng container. Những thông tin đó thường lại chỉ có bằng tiếng Việt. Một số trang web lại không thường xuyên cập nhật thông tin.
Trong một số trường hợp, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam lại trực thuộc (như một chi nhánh) của một đơn vị điều hành toàn cầu có mạng lưới phân phối hoặc kênh bán hàng của riêng mình. Do đó, mức độ bao quát về thị trường xuất khẩu trong những trường hợp này được đảm bảo khá tốt.
Tóm lại, cách tiếp cận với những thị trường xuất khẩu để tạo ra lợi thế cạnh tranh ở Việt Nam vẫn còn ở mức độ rất khiêm tốn.
Chuỗi giá trị hiện tại của ngành
Giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị sản xuất nhựa chính là khâu ép đùn đơn nhất màng mỏng. Trong trường hợp này, 70-80% chi phí dành cho nguyên liệu thô. Máy móc, máy đùn chất dẻo với các khuôn dập và những thiết bị cắt và tạo rãnh và các thiết bị chuyên dụng khác được nhập khẩu từ các nước phát triển, đặc biệt là từ Đài Loan, Đức, Italia và Nhật Bản.
Những hoạt động sản xuất tiếp theo sau như dệt, phủ ngoài, in, pha chế và ráp nối thông qua đóng kín và khâu lại cũng có tác dụng bổ sung thêm khá nhiều giá trị cho sản phẩm. Việc pha chế và ráp nối thông qua hàn kín và khâu do lao động tay nghề cao đảm nhiệm. . Bên cạnh đó, thiết kế sản phẩm độc quyền sẽ làm tăng thêm giá trị, tuy nhiên chưa xảy ra nhiều lắm trừ một số ngoại lệ. Việc đáp ứng những yêu cầuquy chuẩn phức tạp cũng làm tăng thêm giá trị. Một khả năng khác nhằm tăng giá trị là cải thiện sản phẩm màng mỏng làm từ nguyên liệu nhựa thường sang màng mỏng làm từ những nguyên liệu nhựa chuyên biệt hơn như loại nhựa tự phân huỷ sinh học.
Hình 2 biểu thị những ví dụ về chuỗi giá trị của ngành bao bì nhựa đối với các loại túi đựng rác, túi mua sắm và bao bì container (FIBC).
Hình 2: Ví dụ về chuỗi giá trị hiện tại của ngành bao bì nhựa
Thị trường chính # 1 - Túi đựng rác XK
Cung cấp máy móc
Bí quyết kỹ thuật
Phủ ngoài màng
In ấn
Lắp ráp
Hàn kín
Vận tải quốc tế
Cung cấp công cụ
Cung cấp phụ gia, mực
Nhập khẩu/phân phối
Bán lẻ
Khách hàng
Chất thải/tái chế
Nhập khẩu/bán lẻ
Khách hàng
Chất thải/tái chế
Nhập khẩu/bán buôn
Đơn vị điều hành
Chất thải/tái chế
Thông qua các tiêu chí
Nhãn hiệu
Thị trường chính # 2 - Túi đựng hàng mua sắm
Thị trường chính # 3 - Thùng đựng mềm cỡ vừa
Cấu phần giá trị mang tính quốc gia
Cung cấp nguyên liệu thô
Ép đùng màng mỏng nhựa
Cung cấp nguyên liệu masterbatch
Chiến lược và chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với Ngành
Các chính sách phát triển chiến lược
Ngành nhựa hiện đang được Việt Nam quan tâm phát triển. Mục đích của nhà nước là có phương thức cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu thô cho sản xuất trong nước thông qua các cơ sở sản xuất chất dẻo. Song song với hoạt động này, chính phủ đã có kế hoạch phát triển các ngành phụ trợ như tạo khuôn, tái chế nhựa, cung cấp máy móc và hoá chất. Bộ Công nghiệp đã có một số chương trình trọng điểm cho ngành giai đoạn từ nay đến năm 2010 ngành nhằm thúc đẩy sản xuất sản phẩm nhựa công nghệ cao, sản phẩm nhựa xuất khẩu và phát triển ngành công nghiệp tái chế nhựa. Tuy nhiên, trước khi những nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa đầu tiên đi vào vận hành thì có thể dự đoán ràng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một nửa lượng nguyên liệu cần thiết đến năm 2010.
Đầu tư lớn thuộc về hoạt động xây dựng với số vốn đầu tư lên đến 16,337 nghìn tỉ dành cho các nhà máy sản xuất PS, PE và PP ở Khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất và Dự án Hoá dầu Nghi Sơn. Bên cạnh đó, Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam và Tổng Công ty hoá chất Việt Nam đã hợp tác với các doanh nghiệp ngành nhựa để đầu tư vào các nhà máy nhằm liên kết hoạt động sản xuất nguyên liệu nhựa và ngành hoá dầu. Liên doanh giữa các công ty trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động sản xuất nguyên liệu thô rất được nhà nước quan tâm và khuyến khích.
VINAPLAST, một công ty sản xuất nhựa từng là doanh nghiệp nhà nước, đang xây dựng năm nhà máy với tổng vốn đầu tư là 393 triệu đôla Mỹ để sản xuất PVC và PP (polypropylene foam). Những nhà máy này được kỳ vọng sẽ đi vào hoạt động trong năm 2010 và có khả năng đáp ứng 50-60% nhu cầu nguyên liệu thô của ngành. Các chương trình khuyến khích đầu tư dành cho các hoạt động thiết lập các nhà máy như mức thuê đất thấp hơn và thủ tục đầu tư đơn giản hơn được áp dụng tại các khu công nghiệp Đức Hoa Hà I và II ở tỉnh Long An, gần thành phố Hồ Chí Minh Bộ Công nghiệp
.
Các chính sách khác của nhà nước - Thuế
Thuế giá trị gia tăng 10% được áp dụng cho tất cả sản phẩm nhựa nhập khẩu thành phẩm, trong khi đó lại không hề có loại thuế nào áp cho polime ở dạng thô như polyethylene, polystyrene, polypropylene, vinyl và acrylics. Bên cạnh đó, mức thuế 35% áp cho việc nhập khẩu đồ phế thải nhựa gồm có phế liệu polymers của ethylene, styrene và vinyl chloride.
Sản phẩm nhựa sản xuất trong nước vẫn được hưởng 5-10% thuế bảo hộ nhằm hỗ trợ ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vẫn chưa cụ thể là thuế này được phép áp dụng trong thời gian bao lâu cho dù hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO.
Mạng lưới hỗ trợ thương mại của ngành
Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Cũng như một số ngành khác, ngành nhựa là một trong những ngành trọng tâm của Chương trình Xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia năm 2005. Đây là chương trình đã có những hỗ trợ tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của ngành nhựa lên 34%, từ 259 triệu USD năm 2004 đến 350 USD năm 2005 Tổng Cục thống kê
. Đối với thời kỳ 2006 – 2010, chính phủ đã quyết định tiếp tục hỗ trợ tài chính cho chương trình xúc tiến thương mại quốc qua nhằm khuyến khích các ngành xuất khẩu lớn nhằm:
Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường xuất khẩu;
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu;
Nâng cao kiến thức về xuất khẩu và kỹ năng tiếp thị của các doanh nghiệp;
Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu cũng như cơ cấu xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu; và
Xây dựng hình ảnh về sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới.
Nhờ có các hoạt động xúc tiến thương mại, đặc biệt là hoạt động tham gia vào các hội chợ thương mại và triển lãm ở nước ngoài theo chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2005 – 2006, ngành nhựa đã thiết lập được nhiều mối liên hệ với khách hàng quốc tế. Thông qua các hoạt động tiếp thị này, hoạt động ngoại thương đã được các nhà sản xuất của Việt Nam nhận thức tốt hơn và xây dựng năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ về các hoạt động xúc tiến thương mại của ngành nhựa được biểu thị trong bảng 3 dưới đây Cục Xúc tiến Thương mại, danh mục các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia ngắn hạn năm 2005
:
Bảng 3: Hoạt động xúc tiến thương mại năm 2005 -2006
STT
Sự kiến/hoạt động
Nhà tổ chức
Thời gian
Địa điểm
1
Hội chợ thương mại quốc tế Aseanplas và khảo sát thị trường Singapore
Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA)
25/4 - 5/5/2005
Singapore
2
Hội chợ thương mại quốc tế Interpack 2005 ở Đức
Khảo sát thị trường Tây Ban Nha và Pháp
VPA
19/4 - 8/5/2005
Đức
Tây Ban Nha
Pháp
3
Triển lãm thương mại ngành Nhựa Quốc tế tại Việt Nam
VPA
1/8 - 5/8/2005
Thành phố Hồ Chí Minh
4
Khảo sát thị trường Ba Lan
VPA
19/5 - 26/5/2005
Ba Lan
5
Khảo sát thị trường Trung Quốc
VPA
20/6 - 27/6/2005
Trung Quốc
6
"IPF 2005" Hội chợ thương mại quốc tế tại Chiba, Nhật Bản.
VPA
23/9 -30/9/2005
Nhật Bản
7
Xây dựng Bản tin về Xuất Nhập khẩu Nhựa của Việt Nam
VPA
2005
Thành phố Hồ Chí Minh
8
Sưu tập tạp chí ngành nhựa
VPA
2005
Thành phố Hồ Chí Minh
9
Đào tạo về nâng cao năng lực và kỹ năng xuất khẩu cho doanh nghiệp nhựa
VPA
6 & 10/2005
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Hỗ trợ phát triển thương mại của nhà nước dưới dạng hỗ trợ một phần tài chính đối với:
Mua thông tin về thị trường và sản phẩm cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam;
Tư vấn sản phẩm xuất khẩu/nâng cao chất lượng dịch vụ;
Tổ chức và tham gia các hội chợ và triển lãm thương mại;
Khảo sát thị trường xuất khẩu;
Các hoạt động xúc tiến thương mại khuyến khích xuất khẩu và thu hút các nhà đầu tư và khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam;
Xây dựng thương hiệu Việt Nam ở các thị trường nước ngoài; và
Thiết lập các trung tâm xúc tiến thương mại trong và ngoài nước.
Dịch vụ thông tin thương mại
Dịch vụ thông tin thương mại gồm các báo cáo sản phẩm, thị trường và nguyên liệu, dữ liệu hiện có tại các Tổ chức xúc tiến thương mại như Cục xúc tiến thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và các trung tâm xúc tiến thương mại lớn trong nước. Các đơn vị này thương cung cấp miễn phí hoặc với mức phí rất thấp. ECVN - Cổng thương mại điện tử Việt Nam (The Vietnam E-Commerce Portal – ) được xây dựng theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 266/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2003, cổng này hướng tới mục tiêu phục vụ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam va do Bộ Thương mại điều hành. ECVNhỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với phương thức kinh doanh tiềm năng là thương mại điện tử (e-commerce) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của họ trong quá trình hội nhập quốc tế.
ECVN giúp các doanh nghiệp mua và bán trực tuyến sản phẩm của họ theo phương thức hiệu quả và thuận lợi với quy mô lớn, đó là phương thức B2B- Business to Business (nghĩa là Doanh nghiệp – Doanh nghiệp), tạo ra sự đóng góp đáng kể vào hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Trong ba năm đầu tiên (2005-2007), ECVN cung cấp dịch vụ miễn phí cho tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này. ECVN có ba nhiệm vụ chính là hỗ trợ các doanh nghiệp mua bán sản phẩm trực tuyến, cung cấp dịch vụ hỗ trợ thương mại trực tuyến và cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với xuất nhập khẩu.
Nguồn thông tin thương mại khác là sản phẩm của nghiên cứu và dịch vụ tư vấn do các công ty tư vấn cung cấp trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp và nguồn này hoàn toàn miễn phí. Nhựa và các sản phẩm nhựa đã được lựa chọn là một trong 10 ngành lớn mà công ty Nghiên cứu & Phát triển Ngoại thương North Ltd (http://) hỗ trợ về cơ hội kinh doanh và thông tin thương mại.
Tài chính thương mại
Quỹ hỗ trợ Phát triển, hiện nay là Ngân hàng Phát triển của Việt Nam là một thể chế tài chính của nhà nước có nhiệm vụ hỗ trợ các điều kiện kinh doanh thuận lợi và các dịch vụ hỗ trợ (như đảm bảo tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm rủi ro xuất khẩu) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.
Dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp ở Việt Nam gồm có tài chính dành cho xuất khẩu và nhập khẩu; phát hành Thư tín dụng (LC), xác nhận và thông báo, bảo lãnh, đàm phán và thu thập chứng từ (collection bills); D/A (Nhờ thu trả chậm) và D/P (Nhờ thu trả ngay). Một phần ba thanh toán kinh doanh trên thị trường do ngân hàng của nhà nước – Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đảm nhiệm điều hành
. Trước kia, trọng tâm thường tập trung vào các công ty lớn là những công ty đi đầu trong lĩnh vực hoạt động, có hệ thống quản lý đảm bảo và cơ chế rõ ràng. Tâm điểm này dường như không được phù hợp lắm khi áp dụng trong ngành nhựa, là ngành mà phần lớn các doanh nghiệp là nhỏ và vừa. Những doanh nghiệp này thường gặp khó khăn khi sử dụng các dịch vụ về bảo đảm tín dụng và tài trợ thương mại.
Một số ngân hàng thương mại gần đây đã bắt đầu cung cấp những khoản vay cho các doanh nghiệp trên cơ sở xem xét hoạt động tài chính của họ thay vì yêu cầu ký quỹ với điều kiện doanh nghiệp đó đưa ra được tài liệu quyết toán rõ ràng và cụ thể. Một hình thức tài chính thương mại khác do các ngân hàng thương mại khuyến khích thực hiện là dịch vụ bao thanh toán, các ngân hàng sẽ giúp các nhà xuất khẩu được thanh toán sớm hơn trên cơ sở hối phiếu ngân hàng và giấy nợ họ nhận từ nhà nhập khẩu.
Dịch vụ quản lý chất lượng xuất khẩu
Nâng cao chất lượng và sự sẵn sàng của hoạt động quản lý chất lượng cùng những dịch vụ kinh doanh khác hiện đang được đặt ưu tiên ở Việt Nam. Kết quả từ cuộc khảo sát được thực hiễn giữa MPDF và GTZ năm 2003 GTZ-MPDF Vietnam 2003, Quality Management services Analysis
cho thấy không hề có sự giới hạn nào của nhà nước trong hoạt động phát triển thị trường Dịch vụ quản lý chất lượng (QMS) cũng như Dịch vụ quản lý chất lượng xuất khẩu. Dịch vụ quản lý chất lượng phổ biến nhất là thiết lập hệ thống quản lý chất lượng và đạt được chứng chỉ ISO 9000. Các sản phẩm về Quản lý chất lượng khác như các công cụ Quản lý chất lượng tổng thể (TQM), Quản lý chất lượng (QM) và hệ thống 6 Sigma hiện vẫn chưa thực sự phổ biến với người sử dụng hoặc nhà cung cấp. Nguyên nhân chính của hiện trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về lợi ích lâu dài do những nhân tố này mang lại cho doanh nghiệp. Các nhà cung cấp dịch vụ về quản lý chất lượng tư nhân có thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ cho người sử dụng và thể hiện sự nhiệt tình của mình trong công việc (làm cho người sử dụng có cảm giác là yếu tố này cũng quan trọng không kém những kỹ năng mang tính kỹ thuật).
Khảo sát DN cho thấy cần thiết lập một trung tâm chia sẻ kinh nghiệm để mọi người có thể tiếp cận và học hỏi về Quản lý chất lượng; thành lập một hội chuyên môn chuyên đánh giá về các lĩnh vực chuyên ngành; hỗ trợ các nhà cung cấp nâng cao kỹ năng về kỹ thuật/tư vấn; giảm thiểu những trợ cấp của nhà nước và tạo điều kiện cho các nhà cung cấp độc lập hoạt động; đa dạng hoá nhu cầu đối với các dịch vụ quản lý chất lượng khác; và nâng cao nhận thức về Quản lý chất lượng để người sử dụng có đủ thông tin cần thiết khi tiến hành lựa chọn những nhà cung cấp, dịch vụ và công cụ sẵn có.
Tổng Cục đo lường chất lượng là một cơ quan nhà nước duy nhất cung cấp thông tin về tiêu chuẩn chất lượng về các thị trường xuất khẩu và tư vấn cũng như cấp chứng nhận về quản lý chất lượng dịch vụ hoặc các tiêu chuẩn ISO liên quan cho các doanh nghiệp.
Các dịch vụ hỗ trợ thương mại khác
Việt Nam đang thực hiện Chương trình Xúc tiến Thương mại quốc gia. Theo đó các hiệp hội ngành hàng sẽ được hưởng hỗ trợ tài chính một phần để trang trải chi phí cho các hoạt động xúc tiến thương mại và marketing. Chương trình này do Bộ Thương mại và Bộ Tài chính quản lý và Cục Xúc tiến Thương mại thực hiện. Thêm vào đó, Cục Xúc tiến Thương mại cũng đang thực hiện một chương trình chiến lược về thương hiệu quốc gia với mục địch xúc tiến xuất khẩu. Theo chương trình này, các nhà xuất khẩu sẽ được hưởng các hoạt động hỗ trợ như đào tạo và các hoạt động hỗ trợ khác trong việc marketing và quảng bá thương hiệu sản phẩm của họ.
Hiệp hội nhựa Việt Nam (VPA) và Hiệp hội nhựa khu vực phía Nam (VSPA) là hai hiệp hội ngành hàng nhựa lớn nhất tại Việt Nam. Năm 2006, VPA có 263 thành viên và là thành viên của Liên đoàn ngành nhựa ASEAN (AFPI) và Diễn đàn nhựa Châu Á (AFP). VSPA có thành viên là các nhà sản xuất nhựa ở miền Nam Việt Nam, trong đó các công ty thuộc lĩnh vực tư nhân chiếm 80%. Các hiệp hội này cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thương mại cho ngành nhựa thông qua nhiều hoạt động trong nước và trên thị trường quốc tế. VPA có mối quan hệ tốt với các công ty trong ngành, tuy nhiên hiệp hội này là hiệp hội chung của cả ngành nhựa, không chỉ riêng ngành bao bì nhựa. Hiện nay, nhiều công ty sản xuất bao bì nhựa hoạt động với công nghệ khác nhau và phục vụ các thị trường bao bì và phi bao bì khác nhau. Dưới đây là một số hoạt động chính của VPA:
Kết nối các khách hàng quốc tế và nhà cung cấp với các công ty bao bì nhựa Việt Nam;
Cung cấp thông tin về giá cả nguyên vật liệu, sản xuất và công nghệ tái chế;
Dự báo các thị trường xuất khẩu thông qua phân tích thị trường và nghiên cứu của các chuyên gia trong ngành;
Gần đây, Hiệp hội còn tổ chức các khoá đào tạo từ nâng cao kỹ năng cơ bản và các kỹ năng quản lý đến các khóa đào tạo kỹ năng hoạt động cụ thể;
Tổ chức các cuộc khảo sát thị trường quốc tế và triển lãm thương mại;
Tổ chức các hội thảo chuyên đề về ngành, các khóa tập huấn do giảng viên quốc tế thực hiện; và
Đề xuất về các chính sách phát triển của chính phủ cho ngành Nguyễn Đăng Cường, VPA, 2006
Cục xúc tiến thương mại (Vietrade) cũng thực hiện một chương trình chiến lược quảng bá hình ảnh quốc gia nhằm mục tiêu nâng cao xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu có thể được lợi từ chương trình này thông qua các khóa đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật về marketing và thiết kế nhãn hiệu sản phẩm.
Nhiều công ty tư nhân có vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các công ty kinh doanh có thể kết nối các nhà cung cấp nhỏ với các thị trường lớn. Thậm chí bản thân các doanh nghiệp nhỏ có thể hoạt động dưới hình thức hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ khác hoặc hoạt động theo nhóm. Hệ thống tự phát này cũng được đánh giá cao ở Việt Nam.
Tóm lại, mặc dù đã có mạng lưới hỗ trợ thương mại và các chính sách của nhà nước, vẫn cần phải phát triển hơn nữa để hỗ trợ sâu hơn và ưu tiên hơn, một mặt nhằm tối ưu hóa các đầu tư của nhà nước và mặt khác giúp đỡ các ngành chủ lực trong bức tranh toàn cảnh xuất khẩu của nền kinh tế, trong đó ngành xuất khẩu bao bì nhựa là một ví dụ.
4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT)
Phân tích SWOT tổng thể ngành
Phân tích SWOT được thực hiện cho các phân ngành và tổng thể ngành. Bảng 4 dưới đây phân tích SWOT tổng thể ngành, sau đó là phân tích theo các phân ngành.
Ngành bao bì nhựa có một vài điểm mạnh có thể phát huy có hiệu quả hơn nữa trong phạm vi năng lực sản xuất cho một số thị trường sản phẩm, đặc biệt là các mặt hàng túi và bao bì dệt. Một vài điểm mạnh khác thuộc về kỹ năng lao động trong việc tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm, như đan lát và in ấn. Mặt khác, ngành này cũng có nhiều điểm yếu cần phải vượt qua, như quy mô sản xuất còn nhỏ, thiếu sức mua nguyên vật liệu, năng suất lao động thấp và thiếu chuyên môn xuất khẩu và quản lý.
Ngành cũng có nhiều cơ hội, đặc biệt là khả năng đáp ứng thị hiếu của khách hàng ở các nước phát triển về các sản phẩm thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường nội địa và tiềm năng xuất khẩu sang các nước láng giềng và trong thời gian trước mắt có thể tận dụng lợi thế từ việc Hoa Kỳ áp dụng thuế chống phá giá với các đối thủ cạnh tranh ASEAN và Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu không được quản lý phù hợp, một số cơ hội sẽ trở thành hiểm họa tiềm tàng cho ngành, như vấn đề về môi trường của rác thải túi nhựa và các đạo luật chống phá giá trên các thị trường chính ở các nước phát triển.
Những nhận định dưới đây được tập hợp thông qua phỏng vấn và tọa đàm với các đại diện của ngành. Những nhận định này mang tính phổ quát trung bình của ngành. Một số nhà sản xuất có thể mạnh hơn và đã khắc phục được một số điểm yếu liệt kê dưới đây.
Bảng 1: Phân tích SWOT cho Ngành
Điểm mạnh
Điểm yếu
Lực lượng lao động có tri thức, cần cù, có tiềm năng và khả năng nâng cao các kỹ năng;
Có năng lực trong in ấn các sản phẩm phục vụ thị trường ngách có chất lượng và có kỹ năng đan lát;
Có năng lực sản xuất ở một vài tiểu ngành mà các đối thủ cạnh tranh nước láng giềng không có, như các sản phẩm thổi HDPE và màng “BOPP”;
Có khả năng thực hiện nhanh các đơn hàng nhỏ;
Có kỹ thuật tinh xảo trong sản xuất túi và túi dệt.
Có chứng nhận ISO với các công ty lớn;
Nguồn nguyên liệu nhựa đáp ứng được nhu cầu.
Quy mô ngành nhỏ do hầu hết các công ty hoạt động trong ngành là công ty nhỏ, do đó, không đạt khối lượng tối ưu để có thể duy trì chi phí sản xuất thấp và bền vững;
Thiếu khả năng thực hiện các đơn hàng lớn;
Các hoạt động rời rạc và nhỏ lẻ;
Năng suất lao động thấp nếu so sánh với các nước phát triển và các nước trong khu vực ASEAN;
Thiếu năng lực kỹ thuật và quản lý hiệu quả; thiếu chuyên môn xuất khẩu và bán hàng ở mức độ công ty;
Hiệu quả hoạt động thấp do không thực hiện hiệu quả các quy trình quản lý chất lượng;
Không có các tổ chức chứng nhận chất lượng;
Thiếu các thiết bị sản xuất hiện đại để có các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao;
Tỷ lệ sản nguyên liệu thô trong sản phẩm tương đối cao;
Khả năng thương lượng giá nguyên liệu nhựa còn yếu do chỉ có các đơn hàng nhỏ lẻ.
Không có nguồn cung nguyên liệu nhựa trong nước;
Chưa có một ngành nguyên liệu nhựa tổng hợp trong nước;
Chưa có sự phát triển tương xứng các sản phẩm có khả năng phân huỷ sinh học để đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường;
Việc hợp lý hóa các điều kiện hậu cần hỗ trợ xuất khẩu còn kém, đặc biệt là chưa lường hết được các chi phí vận chuyển phát sinh trong giao dịch.
Cơ hội
Thách thức
Có tiềm năng trở thành nguồn cung ứng sản phẩm cho thị trường Hoa Kỳ do nước này áp dụng thuế chống bán phá giá đối với túi nhựa từ Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia;
Có khả năng phát triển các sản phẩm nhựa ứng dụng trong nông nghiệp (có yêu cầu thấp hơn về môi trường ở thị trường Hoa Kỳ hơn ở EU);
Thị hiếu đối với loại túi mua hàng dùng nhiều lần tăng lên so với loại túi dùng một lần;
Nhu cầu nội địa của các công ty xuất khẩu thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may và điện tử tăng lên;
Tiềm năng xuất khẩu sang các nước láng giềng là những nước chậm phát triển ngành bao bì nhựa.
Sự dao động về giá cả của nguyên liệu nhựa trên thế giới;
Sự quan tâm về môi trường đối với rác thải từ túi nhựa ở các nước phát triển tăng lên;
Đưa ra những yêu cầu về môi trường hoặc cấm sử dụng loại túi mua hàng dùng một lần;
Tăng các rào cản về môi trường phi thương mại;
Chuyển sang các loại nguyên liệu từ polyme sinh học;
Các đạo luật chống bán phá giá.
Phân tích SWOT theo nhóm ngành
Túi và màng mỏng PE
Điểm mạnh
Khả năng cạnh tranh của các công ty Việt Nam sản xuất túi và màng mỏng PE được đánh giá là còn khiêm tốn. Họ có lợi thế ngắn hạn về lao động, có năng lực trong in ấn, nhu cầu trong nước tăng và đã thiết lập được cái mối quan hệ ban đầu cũng như tạo được hình ảnh với khách hàng quốc tế.
Lợi thế lao động chủ yếu thuộc về ngành sản xuất túi do lao động chân tay thay thế máy móc tự động. Lợi thế này cũng được áp dụng cho các thay đổi trong sản xuất và khi máy móc tạm nghỉ hoặc quá công suất. Tuy nhiên, lợi thế này chỉ để cạnh tranh lại với các nước phát triển, không thể cạnh tranh với các nước ASEAN và Trung Quốc.
Năng lực in ấn: Một số nhà sản xuất Việt Nam đã thể hiện khả năng có thể sản xuất ra loại túi in đẹp đồng thời cũng có khả năng thực hiện được và thực hiện n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chiến lược xuất khẩu ngành Ngành bao bì nhựa Việt Nam 2007-2010.doc