Trong giai đoạn 7 tháng đầu năm 2007 BMC là cổ phiếu có mức tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong tất cả các cổ phiếu niêm yết trong thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó ấn tượng nhất có 50 phiên tăng điểm liên tục và kịch trần. Tất cả các nhà phân tích và các nhà đầu tư rất hồ hởi với sự tăng trưởng này, bên cạnh đó các nhà phân tích đang cố gắng đi tìm nguyên nhân của sự việc trên. Có một sự thật là số lượng cổ phiếu của BMC sẵn sang cho giao dịch rất nhỏ chỉ khoảng 600.000 cổ phiếu và chủ yếu là các cổ đông lớn tham gia giao dịch nên khả năng thao túng có thể xẩy ra. Trong ngày 21/5, giá cổ phiếu này đã lên tới 847.000 đồng/cổ phiếu, tạo một mức giá kỷ lục khó đánh đổ trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian này cho dù VN-index nóng lạnh thất thường thì BMC vẫn tiếp tục tăng. Nhìn chung trong giai đoạn này BMC là một hiện tượng rực sáng trên thị trường chứng khoán ( kể cả thị trường OTC).
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3674 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó độ cân bằng cao hơn.
Tính thanh khoản lên cao chưa từng thấy, đưa thị trường vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng như giá trị giao dịch tăng từng phiên. Nếu như đầu năm 2006, giá trị giao dịch mỗi phiên chỉ vài chục tỉ đồng thì năm 2007 con số này đạt khoảng 1.000 tỉ đồng. Thị trường chứng khoán chính thức trở thành kênh thu hút vốn cho doanh nghiệp, kênh đầu tư sinh lời của người dân – nơi đâu đó giấc mơ đổi đời đã trở thành sự thật.
Khởi đầu năm 2007 với con số 751,77 điểm, chỉ sau hơn 3 tháng VN-Index đã vọt lên đỉnh 1170,67 điểm ngày 12/3. Đây chính là giai đoạn thăng hoa nhất trong lịch sử 8 năm vận hành của Thị trường chứng khoán. Trái “bong bong chứng khoán” trở thành chiếc túi không đáy hút liên tục các nguồn tiền khác nhau.
Chặng đường tới đỉnh bắt đầu với đợt tăng giá của các công ty lớn (bluechip) có kết quả kinh doanh tốt. Thị trường được đẩy lên khỏi mức 1.000 điểm. Lợi nhuận đem lại từ đầu tư chứng khoán đi vào câu chuyện thường ngày của mọi nhà, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán, kéo một lượng nhà đầu tư mới gia nhập thị trường. Các cổ phiếu tiếp tục tăng giá sau Tết. Nổi bật ở giai đoạn này là các cổ phiếu mang tính đầu cơ cao như các cổ phiếu các công ty nhỏ sàn HOSE (TP.HCM) và cổ phiếu các công ty thuộc tổng công ty Sông Đà, các công ty in sách giao khoa trên sàn HASTC (Hà Nội). Giá nhiều cổ phiếu tăng không ngừng khiến các chỉ số phân tích cơ bản bị bỏ lại đằng sau đủ để nhiều nhà đầu tư cảm thấy chúng quá đắt. Khi mọi người đều nghĩ “quá cao” thì giảm giá là điều tất yếu. Thị trường giảm liên tục từ giữa tháng 3. Cổ phiếu mất giá khiến không ít nhà đầu tư mà đa phần là những người mới gia nhập thị trường thua lỗ nặng. Đây là bài học đầu tiên trong năm nhưng cũng rất cần thiết với nhà đầu tư. Chỉ có mất mát từ thị trường mới có thể tác động được vào những quan niệm như: Thị trường chứng khoán là cỗ máy in tiền, cứ mua là lãi, đầu tư là công việc nhàn hạ, dễ dàng, thậm chí nhiều người còn coi Thị trường chứng khoán như sòng bạc. Từ mức đỉnh 1170,67 điểm thị trường rơi xuống mức đáy 905,53 ngày 24/4.
Khi mà nhiều người, thậm chí là các chuyên gia đã nghĩ đến sự sụp đổ, bong bong vỡ hay hiệu ứng domino thì thị trường chứng minh điều ngược lại. Thị trường và những người tham gia vào nó đã trưởng thành. Đợt giảm giá chỉ là điều chỉnh mà không có đổ vỡ. Khi giá nhiều mã cổ phiếu giảm khoảng 30% cũng là cơ hội đầu tư quay trở lại. Được tiếp thêm sức mạnh sau kì nghỉ lễ 30/4 và 1/5, thị trường bắt đầu tăng giá trong tháng năm. Thị trường giai đoạn này tăng trở lại khá nhanh nhưng không lập lại được mức đỉnh cũ, chỉ đạt 1113,19 điểm ngày 23/5.
Bị ảnh hưởng bởi đợt đấu giá Bảo Việt, thị trường lại một lần nữa đi xuống. Tuy nhiên, trong xu thế giảm giá kéo dài của toàn thị trường lại xuất hiện những con cá hồi bơi ngược dòng. Tiêu điểm thời gian này là giao dịch của cá cổ phiếu “hiếm” như BMC, TCT, SGH,LBM. Các cổ phiếu này có đặc điểm chung là số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường ít, phần nào được kiểm soát. Khi có các thông tin tốt về kết quả sản xuất hay những lợi thế về tài nguyên, đất đai, giá lập tức được đẩy lên. Số lượng đặt mua có thể đạt đến triệu đơn vị, trong khi đó số lượng bán ra chỉ nhỏ giọt từng chút một như một động tác để đẩy giá lên kịch trần. Sau gần 3 tháng đến ngày 23/8 VN Index lại rơi xuống 887,62 điểm.
Thị trường tiếp tục cho thấy sức đẩy ở mức 900 điểm. Như được hồi sức sau ngày nghỉ lễ 2/9, VN-Index quay lại con đường chinh phục đỉnh cao. Tuy nhiên, dẫn đạo xu hướng không còn là bluechip mà là các cổ phiếu nhỏ, các cổ phiếu sàn hà Nội và các cổ phiếu mới niêm yết. VN Index quay trở lại 1106,6 điểm ngày 3/10.
Việc giá cổ phiếu các công ty mới niêm yết tăng mạnh như động lực đưa các công ty đã có dự định niêm yết nhanh chóng lên sàn. Nhưng khi thời gian niêm yết đã được ấn định thì cũng là lúc thị trường bắt đầu trở nên khó khăn. Cùng với SSI chuyển từ sàn HN sang, khi DPM, HPG niêm yết, thị trường đuối sức dần và bắt đầu tuột dốc. VN-Index lại quay trở về 900 điểm với nỗi lo về nguồn vốn dành cho những đợt phát hành thêm và IPO các công ty quốc doanh cực lớn sắp cổ phần hóa.
Chỉ số chứng khoán năm 2008
Trái với dự đoán của nhiều nhà đầu tư về tương lai của Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008, tình hình lạm phát đã kéo Thị trường chứng khoán Việt Nam trở lại với những con số thực của nó.
Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những tháng đầu năm 2008. Hy vọng tái lập mốc 1000 lung lay, và VN index nhanh chóng xuống khỏi những mức mà nhiều nhà đầu tư cho rằng đã chạm đáy.
Ngay sau khi có tin tức về chỉ thị 03, nhiều nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu khiến cho thị trường liên tiếp đi vào những phiên mất điểm. hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán khiến cho nhiều nhà đầu tư e ngại về tính thanh khoản của thị trường. Ngay sau đó là những chính sách vĩ mô của nhà nước liên tục đẩy thị trường vào tình thế “hiểm nghèo”. Những dự báo về khả năng đột biến của lạm phát thời gian tới là một áp lực chính trong những phiên giao dịch vào tháng 5/2008.
Xu hướng giao dịch trên sàn không có nhiều khác biệt so với phiên liền trước. Đà giảm đã có trong dự tính của nhiều nhà đầu tư. Điểm mà họ quan tâm là những dự báo về lạm phát vừa xuất hiện trên thị trường. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố những dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2008, trong đó đề cập đến khả năng xấu nhất lạm phát có thể lên tới 22,3%, và lạc quan nhất cũng ở mức 16,7%.
Tỷ lệ trên thực sự gây “sốc” đối với những hy vọng về đà giảm của lạm phát trong thời gian tới, nhất là khi đã có dấu hiệu giảm tốc trong hai tháng vừa qua. Với nhà đầu tư chứng khoán, có thể hiểu dự báo trên đi cùng với môi trường đầu tư có khả năng sẽ xấu thêm, mà lạm phát vốn được xem là một nguyên nhân chính gây sụt giảm của thị trường từ đầu năm đến nay.
Còn trên thực tế, thị trường này vừa khép lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch. Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những phiên gần đây và có giá trị 148 tỷ đồng.
Chỉ số VN-Index qua phiên này chính thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn 154,23 điểm, giảm 3,19 điểm. Đúng như dự đoán. Thị trường chứng khoán đã xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6. nếu xét diễn biến thị trường thời gian qua theo các con số thống kê thì VN - Index đang có xu hướng tăng, tuy có xen kẽ với những phiên giảm.
Tính từ 20/6 đến ngày 3/9, có 51 phiên, bình quân một đoạn có trên 7 phiên. Có 4 đoạn tăng với 40 phiên, bình quân mỗi đoạn tăng có 10 phiên; điểm tăng của 4 đoạn này là 293 điểm, bình quân một phiên tăng trên 7,3 điểm. Có 3 đoạn giảm với 11 phiên, bình quân mỗi đoạn giảm có gần 4 phiên; điểm giảm của 3 đoạn này là 104 điểm, bình quân một phiên giảm gần 9,5 điểm.
Đáy của đoạn giảm sau đều cao hơn đáy của đoạn giảm trước; đỉnh của đoạn tăng sau nhìn chung cao hơn đỉnh của đoạn tăng trước. Như vậy, tăng điểm đã nhiều hơn giảm điểm cả về số đoạn (4/3), số phiên (40/11), tổng số điểm (293/104); nhờ vậy mà tính chung 51 phiên qua, VN - Index vẫn tăng 189 điểm; nhưng số điểm bình quân một phiên, thì phiên tăng ít hơn phiên giảm (7,3/9,5).
Biểu đồ 2.1.1 – Chỉ số VnIndex từ tháng 3 đến tháng 9/2008
Tình hình khó khăn cộng với khủng hoảng tài chính thế giới khiến cho CK việt nam chưa tăng đã giảm trở lại. Hy vọng chung của nhiều nhà đầu tư là tình hình ổn định của kinh tế trong nước cùng với sự phát huy của những chính sách chống lạm phát sẽ giúp cho Thị trường chứng khoán tươi sáng hơn.
2.2 Phân tích sự thay đổi của 5 cổ phiếu tiêu biểu cho các ngành trên sàn GD Tp.HCM năm 2007-2008
2.2.1. Công ty cổ phần cơ điện lạnh Reetech (REE)
a) Giới thiệu công ty:
Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh được thành lập từ năm 1977, tên gọi ban đầu là Xí Nghiệp quốc doanh cơ điện lạnh thuộc sở hữu Nhà nước. Với sự năng động của ban lãnh đạo Công ty và tập thể cán bộ công nhân viên, Công ty luôn được đánh giá là người đi tiên phong trong việc thực hiện các chính sách đổi mới của Nhà nước. Là doanh nghiệp đầu tiên tiến hành cổ phần hóa vào năm 1993, Công ty cũng là một trong hai doanh nghiệp đầu tiên niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2000. Tại thời điểm niêm yết, vốn điều lệ của Công ty là 150 tỷ đồng. Vốn điều lệ hiện tại là 287.142.140.000 đồng.
Ngành nghề kinh doanh:
- Sản xuất, lắp ráp, thiết kế, lắp đặt, sửa chữa và các dịch vụ về ngành điện, điện tử, cơ khí và điện lạnh.
- Kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu các loại hàng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, các thiết bị lẻ, thiết bị hoàn chỉnh của ngành cơ điện lạnh.
- Mua bán và dịch vụ bảo trì máy móc cơ giới nông nghiệp gồm: xe máy thiết bị làm đường, thiết bị đào, san lấp, thiết bị xây dựng, thiết bị công nông lâm nghiệp, máy phát điện và động cơ điện.
- Đại lý ký gởi hàng hóa.
- Xây dựng dân dụng và công nghiệp
- Kinh doanh nhà ở (xây dựng, sửa chữa nhà để bán hoặc cho thuê).
- Phát triển và khai thác bất động sản.
- Hoạt động đầu tư tài chính vào các ngân hàng, công ty cổ phần.
- Dịch vụ cơ điện cho các công trình công nghiệp, thương mại và dân dụng. Sản xuất máy điều hoà không khí Reetech, sản phẩm gia dụng, tủ điện và các sản phẩm cơ khí công nghiệp.
REE là một trong hai cổ phiếu đầu tiên của Việt Nam được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tại số lượng cổ phiếu đang lưu hành là 80,415,924, trong đó số nhà đầu tư nước ngoài đang sở hữu là 26,771,313 (33.29%). Là một cổ phiếu đầu tiên được niêm yết trên thị trường nên cổ phiếu của REE có những lợi thế nhất định so với các loại cổ phiếu cùng ngành nghề hoạt động.
b) Tình hình giá cổ phiếu của REE năm 2007
Là công ty chuyên sản xuất và tiêu tụ các sản phẩm về thiết bị điện nên nhìn chung tình hình và khả năng tăng trưởng của công ty khá ổn định và vững chắc. Trong năm 2006 và đầu năm 2007 là khoảng thời gian mà giá cổ phiếu của REE lên tới mức đỉnh điểm và có mức ổn định nhất. Khoảng thời gian từ 30-01-2007 đến 30-03-2007 chứng kiến sự ổn định và một mức giá lý tưởng của công ty, qua đó cho thấy được sự ổn định và sự kỳ vọng của nhà đầu tư đối với công ty. Khoảng thời gian này giá cổ phiếu dao động quanh mức 250.000đồng/ cổ phiếu, và giá cao nhất là 285.000đồng vào ngày 05-03-2007. Trong thời gian này, khối lượng giao dịch cũng tỷ lệ với giá cổ phiếu. Ngày 31-01-2007 chứng kiến khối lượng giao dịch lớn nhất trong thời gian với gần 900.000 cổ phiếu, trung bình khối lượng giao dịch trong thời gian này là 450.000 cổ phiếu.
Có thể khi đạt tới giá trị cực đại thì việc đảo chiều là chuyện khó có thể tránh khỏi và điều đó là không ngoại lệ đối với REE. Khi đạt tới max là 285.000đồng/ cổ phiếu thì ngày 09-05-2007 đảo chiều nhanh chóng khi giá của ngày trước là 243.000đồng xuống 170.000đồng. Và bắt đầu từ ngày này giá của REE cứ tiếp tục giảm tuy không nhiều như lần đảo chiều đó và xoay quanh mức 140.000đồng. Trong thời gian này khối lượng giao dịch cũng giảm hẳn và đáng kể, vào ngày 09-05-2007 khối lượng giao dịch đạt gần 700.000 cổ phiếu.
c) Tình hình giá cổ phiếu của REE năm 2008:
Trong giai đầu tiên của lạm phát REE và cũng như các mã chứng khoán khác trong suất 4 tháng giá cổ phiếu của REE đều giảm theo từng biên độ nhỏ nhưng do kéo dài nên giá của cổ phiếu lúc này chỉ còn 1/8 so với giá đỉnh. Và giá thấp nhất trong giai đoạn này là 25.000đồng. Trong giai đoạn này giá của REE đã cũng có những phiên giao dịch màu xanh khi Chính phủ có những chính sách cáp bách nhằm cứu vãn thị trường chứng khoán, cụ thể: ngày 25/03/2008 Chính phủ đưa ra các chính sách để hạn chế sự tụt dốc của VN-index xuống xa ngưỡng 500 điểm thì REE có dấu hiệu tăng trong 10 phiên giao dịch liên tiếp. Tuy nhiên sau những sự cố chính sách không thật đầy đủ và đồng bộ của Chính phủ thì VN-index vẫn tụt xa mốc 500 kéo theo REE tiếp tục đà giảm.
Sau tháng 8 Chính phủ công bố chỉ số CPI của tháng so với tháng 8 chỉ dưới 1% thì VN-index bắt đầu tăng và màu xanh đã xuất hiện nhiều hơn trong các giao dịch trong đó có REE. Khi VN-index lên trên 500 điểm thì cũng là lúc giá của REE đạt giá cao nhất trong thời kỳ lạm phát và cũng đạt khối lượng giao dịch lớn nhất trong giai đoạn này. Cụ thể: ngày 06-09-2008 giá đạt 52.500đồng/ cổ phiếu và khối lượng giao dịch gần 190000 cổ phiếu.
Biểu đồ cụ thể được biểu diễn dưới đây:
Biểu đồ 2.2.3 – Cổ phiếu REE từ 31/1 đến 30/5/2008
Biểu đồ 2.2.4 – Cổ phiếu REE từ 6/5 đến 30/9/2008
Giá và khối lượng mua bán cổ phiếu REE trong 1 năm vừa qua trên HOSE:
Biểu đồ 2.2.5 – Cổ phiếu REE từ tháng cuối 10/2007 – 10/2008
Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC)
a) Giới thiệu công ty:
Ngành nghề mà Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định đăng ký hoạt động kinh doanh là ngành khai khoáng. Chuyên ngành khai khoáng chính là khai thác, chế biến và mua bán khoáng sản từ quặng sa khoáng Titan và các loại quặng khoáng sản khác. Các hoạt động hỗ trợ, khai thác khoáng sản( trừ điều tra, thăm dò dầu khí). Kiểm tra, phân tích các loại quặng khoáng sản. Mua bán các loại vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ khai thác và chế biến các loại khoáng sản. Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định tiền thân là Công ty khoáng sản Bình Định được thành lập năm 1985. Công ty chuyển đổi thành Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định vào ngày 28/ 01/ 2008 với vốn điều lệ lúc này là 14,114 tỷ đồng.
Sản phẩm chính của Công ty là Ilmentie( đóng góp hơn 80% tổng doanh thu của công ty qua các năm), nguyên liệu chính để sản xuất là bột màu Titan dioxit() và kim loại Titan. Hơn 95% sản phẩm của công ty xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, Malaysia, Trung Quốc. Các khách hàng lớn của công ty là các nhà nhập khẩu quặng của nước ngoài như Kayfour Development Corporation Sdoanh nghiệp.Bhd, Qinzhou Qinnan District Jia Hua Import Export Td.,Lmt, Mineral Venture Internation Ltd (Mvi).
Đến cuối năm 2006, Bộ Công nghiệp cấp 30 giấy phép khai thác quặng Titan và ra 28 quyết định bàn giao vùng mỏ trong cả nước. Công ty cổ phần Khoáng Sản Bình Định là một trong những doanh nghiêp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, chế biến và kinh doanh sa khoáng Titan từ rất sớm so với các doanh nghiệp khác trong hiệp hội Titan Việt Nam.
Do trữ lượng mỏ có hạn (khoảng 500,000 tấn), năng suất của công ty ngày càng tăng qua các năm nên công ty gặp rủi ro lớn khi khai thác hết mỏ quặng mà vẫn chưa khảo sát được hoặc xin giấy phép khai thác tại mỏ khoáng khác. Do hơn 95% sản lượng của công ty là xuất khẩu sang các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia. Nhà nước đang có chủ trương hạn chế xuất khẩu sản phẩm khô, khoáng sản, công ty có thể gặp rủi ro về chính sách nhà nước ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của công ty. Ngoài ra, do doanh thu xuất khẩu là chủ yếu nên công ty có thể gặp rủi ro về thanh toán, tỷ giá.
Ngành khai khoáng sử dụng nhiều lao động chân tay, do vậy rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với lao động của công ty là khá cao. Ngoài ra, công ty có thể gặp các rủi ro về kinh tế, luật pháp, thiên tai, hỏa hoạn, giá nguyên vật liệu đầu vào đặc biệt là xăng dầu,...Nhà máy sản xuất xỉ Titan công suất 19.000 tấn sản phẩm xỉ Titan và gang/năm tại cụm công nghiệp Cát Nhơn – Phù Cát.
Công ty niêm yết cổ phiếu ngày 28/12/2006 tại Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh theo Quyết định số 112/UBCK-GPNY ngày 12/12/2006 của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Mã chứng khoán là BMC. Vốn điều lệ của Công ty là 82.618.200.000 đồng. Giá khởi điểm của BMC tại ngày niêm yết là 50.000đồng.
b) Tình hình cổ phiếu BMC năm 2007
Trong giai đoạn 7 tháng đầu năm 2007 BMC là cổ phiếu có mức tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong tất cả các cổ phiếu niêm yết trong thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đó ấn tượng nhất có 50 phiên tăng điểm liên tục và kịch trần. Tất cả các nhà phân tích và các nhà đầu tư rất hồ hởi với sự tăng trưởng này, bên cạnh đó các nhà phân tích đang cố gắng đi tìm nguyên nhân của sự việc trên. Có một sự thật là số lượng cổ phiếu của BMC sẵn sang cho giao dịch rất nhỏ chỉ khoảng 600.000 cổ phiếu và chủ yếu là các cổ đông lớn tham gia giao dịch nên khả năng thao túng có thể xẩy ra. Trong ngày 21/5, giá cổ phiếu này đã lên tới 847.000 đồng/cổ phiếu, tạo một mức giá kỷ lục khó đánh đổ trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong thời gian này cho dù VN-index nóng lạnh thất thường thì BMC vẫn tiếp tục tăng. Nhìn chung trong giai đoạn này BMC là một hiện tượng rực sáng trên thị trường chứng khoán ( kể cả thị trường OTC).
c) Tình hình cổ phiếu BMC năm 2008
Chỉ khi kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng thì BMC mới thật sự chịu ảnh hưởng nặng nề khi giá cổ phiếu đỉnh xuống đáy là 48.000đồng/cổ phiếu quay lại với giá niêm yết chào bán là 50.000đồng/cổ phiếu. Từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5 giá của BMC giảm từ ngưỡng 200.000đồng/ cổ phiếu xuống 50.000đồng/cổ phiếu. Khi đạt những kỳ tích ở năm 2007 thì những dự đoán và phân tích của sự thao túng của BMC dần thành hiện thực. Khi lạm phát tăng cao trong quý I, II/2008 đã làm giảm chỉ số chung VN-index khi sát xuống mức 400 điểm là một báo động cho những cổ phiếu mà quy mô lẫn khối lượng nhỏ, trong khi đó đòi hỏi quy mô lẫn vốn để hạn chế những rủi ro thấp nhất do lạm phát gây ra và gia nhập. Bên cạnh đó, công ty Khoáng sản Bình Định bị nghi ngờ có liên quan đến vụ phá 57ha rừng có chứa Titan và bị Ủy ban Tỉnh rút giấy phép khai thác khu đất trên.
Biểu đồ 2.2.7 – Cổ phiếu BMC từ 11/3- 10/7/2008
Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu BMC trên HOSE trong thời gian 3 tháng và 1 năm qua:
Biểu đồ 2.2.8 – Cổ phiếu BMC từ cuối tháng 10/2007 – tháng 10/2008
2.2.3 Ngân hàng thương mại cổ phần Sài GònThương Tín Sacombank (STB)
a) Giới thiệu công ty:
Chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 21/12/1991, Sacombank xuất phát điểm là một ngân hàng nhỏ, ra đời trong giai đoạn khó khăn của đất nước với số vốn điều lệ ban đầu 03 tỷ đồng và hoạt động chủ yếu tại vùng ven TP.HCM. Sau gần 17 năm hoạt động, đến nay Sacombank đã trở thành Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam với:
- 5.116 tỷ đồng vốn điều lệ;
- Trên 239 chi nhánh và phòng giao dịch tại 45 tỉnh thành trong cả nước và 1 VPĐD tại Trung Quốc;
- 9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng tại 91 quốc gia và vùng lãnh thổ;
- Khoảng 6.000 cán bộ nhân viên trẻ, năng động và sáng tạo;
- Khoảng 60.000 cổ đông đại chúng;
Vào ngày 16/5/2008, Sacombank tạo nên một bước ngoặt mới trong lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng với việc thành lập Tập đoàn tài chính Sacombank.
b) Tình hình cố phiếu năm 2007:
Là ngân hàng đầu tiên IPO chứng khoán và niêm yết trên sàn ngày 12/7/2006, giá cổ phiếu STB là 78.000, ngay sau đó giá cổ phiếu tăng lên hơn 80.000 và tiếp tục ổn định xung quanh mức giá 80.000đ. cũng giống như với thị trường chứng khoán trong năm đó, giá cổ phiếu STB không biến động nhiều, mà chỉ giao động nhẹ, có lúc giảm xuống 62.315 đ, nhưng không đáng kể.
Bắt đầu năm 2007 ở mức 72.575,59 đ, những tháng kế tiếp, giá CP STB tiếp tục tăng và duy trì sự ổn định. Đến ngày 24/01/2007 giá của nó là 100.000. đây cũng là thời điểm hưng thịnh của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong suốt quý 2, giá của nó duy trì ở mức cao. Giá kịch sàn của STB tại thời điểm đó là 168.778đ. tại thời điểm đó, giá cổ phiếu của khối ngành ngân hàng cũng được nhà đầu tư khá quan tâm khi có những thông tin tốt từ chính phủ.
Thời điểm quan trọng đối với cổ phiếu này là 7/6/2007. Trước đó 1 ngày, vào ngày 6/6/2207 giá của nó vẫn là 144665,83đ. Tuy nhiên ngày hôm sau chỉ còn 78.500đ. và sau đó nó bắt đầu chuỗi giảm giá. Trong quý 3, có thời điểm chỉ còn 50.883.52đ (ngày 23/8). Sau đó, tới cuối tháng 9, giá cổ phiếu tăng nhẹ lên trên 70.000đ và kết thúc năm 2007 ở mức 65.493 đ.
c) Tình hình cổ phiếu năm 2008
Biểu đồ 2.3.2 – Cổ phiếu STB từ 10/2007 đến 9/2008
Hình trên là diễn biến giá của cổ phiếu STB trong 9 tháng đầu năm 2008. Bắt đầu ở mức 69.000đ/1cp vào tháng 10/2007, rồi tăng nhẹ lên 74.000đ, nhưng sau đó STB bắt đầu chu kỳ giảm giá.
Giai đoạn trước tháng 1 năm 2008, trước tình hình chung của thị trường, STB có giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức trên 60.000đ. Thậm chí có những phiên giao dịch, nhờ khối lượng giao dịch lớn, mà STB đã cứu cả thị trường khỏi những phiên mất điểm. Với những báo cáo tài chính tốt cùng tính thanh khoản cao, cổ phiều STB vẫn giữ được vị trí của mình trong hạng CP Blue chip.
Thế nhưng, Cho đến ngày 30/9/2008, giá niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Sài gòn là 23.800đ/cp. Mức giá cũng giao động từ 25 đến 30.000đ/cp kể từ tháng 5 năm 2008.
Cổ phiếu của Sacombank cũng như phần lớn cổ phiếu ngân hàng, chịu một áp lực từ chính sách tín dụng thắt chặt của chính phủ. Không chỉ như những cổ phiếu khác, chỉ chịu ảnh hưởng từ việc nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu, đối với riêng cổ phiếu ngành ngân hàng còn chịu thêm ảnh hưởng từ việc hạn chế tín dụng và tăng lãi suất cho vay để đáp ứng mức lãi suất bắt buộc của ngân hàng trung ương. Một mặt, cổ phiếu ngân hàng chịu áp lực từ nhà đầu tư, mặt khác chịu áp lực từ chỉ thị 03 của chính phủ về việc hạn chế cho vay tín dụng nên khó khăn chồng chất khó khăn cho cổ phiếu ngân hàng.
. Thực chất chu kỳ giảm của STB bắt đầu từ đầu tháng 3 năm 2008. Đó cũng là những tháng sau Tết, khi mà chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Tâm lý người tiêu dùng không tin tưởng vào độ an toàn của ngành ngân hàng do những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Giống như phần lớn các ngân hàng trong thời kỳ thắt chặt tín dụng, Sacombank phải tăng lãi suất để thu hút đủ vốn cho việc mua tín phiếu bắt buộc từ NHNN. Việc tăng lãi suất đầu vào đồng nghĩa với việc tăng lãi suất cho vay. Như vậy mức độ rủi ro đối với các ngân hàng tăng lên. Tâm lý nhà đầu tư sẽ e dè trong việc lựa chọn cổ phiếu hơn. Nếu như trước đó với bảng Quyết toán tài sản và bảng kết quả hoạt động kinh doanh hấp dẫn, STB thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư, thì sau đó những rủi chung của thị trường gây nên tâm lý chung cho những người đã sở hữu nó. Hệ lụy của vấn đề là cổ phiếu bị bán tháo, dẫn đến giá CK giảm mạnh.
Đầu tháng 9 cổ phiếu STB có tăng nhẹ. Nhưng trong thời điểm khủng hoảng tài chính hiện nay, giá cổ phiếu STB tiếp tục giảm.
Dưới đây là giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu STB trên HOSE trong 1 năm qua:
Biểu đồ 2.3.4 – Cổ phiếu STB từ cuối tháng 10/2007 – tháng 10/2008
2.2.4 Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT
a) Giới thiệu công ty
Thành lập từ ngày 13/09/1988, FPT đã liên tục phát triển, Năm 2006 doanh số toàn FPT đạt 11.693 tỷ đồng (tương đương 730 triệu USD), tăng trưởng 42.40% so với năm 2005. Lợi nhuận trước thuế FPT đạt 606 tỷ đồng, tăng 77% so với năm 2005 và đạt 110% kế hoạch. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ cũng tăng 60% và đạt 109% kế hoạch. Mức Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ / Vốn điều lệ bình quân đạt 80%, cao hơn so với kế hoạch 2006 là 9.38%.
FPT hoạt động trên nhiều lĩnh vực công nghệ thông tin, nhưng doanh số chủ yếu từ kinh doanh thương mại máy điện thoại và máy tính. Gần đây, FPT tham gia nhiều lĩnh vực khác nhau như bất động sản, bán lẻ, giáo dục và tài chính.
b) Tình hình cố phiếu năm 2007
Là công ty đi đầu và là công ty đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh về Công nghệ Viễn thông nên FPT có cả giá trị lẫn thương hiệu rất lớn tại thị trường trong nước. Trong giai đoạn này giá của FPT luôn ở mức giá cao so với giá trị thực tại của nó, với một thời gian dài từ tháng 1 đên tháng 3-2007 giá của FPT dao động quanh ngưỡng 600.000đồng/ cổ phiếu và cao nhất là 665.000đồng/ cổ phiếu. Và ngày 13- 07-2007 được coi là một ngày đáng nhớ của cổ phiếu FPT khi các cổ đông nước ngoài ào ạt đặt lệnh bán với tổng khối lượng gần 1 triệu cổ phiếu sau một thời gian không có dấu hiệu hồi phục, điều này đã kéo theo một hệ quả của sự giảm giá nghiêm trọng nhất trong lịch sử cổ phiếu FPT. Có thể nói đây là một dấu hiệu cho một giai đoạn đi xuống FPT và thực tế cho thấy giá cổ phiếu FPT chỉ còn 217.000đồng/ cổ phiếu vào ngày 04-08-2007, đây là giá thấp nhất của FPT trong suốt 8 tháng đầu năm 2007.
c) Tình hình cổ phiếu năm 2008
Sau ngày lịch sử của cổ phiếu FPT, giá của cổ phiếu vẫn trên đà giảm giá khi tình trạng lạm phát diễn ra đồng bộ và lan rộng ra tất cả các mặt hàng tiêu dùng. Qua biểu đồ dưới đây chúng ta có thể thấy được giá của FPT từ tháng 10/ 2007 tới tháng 06/ 2008 liên tiếp giảm và xuống đáy, đến cuối tháng 6 giá trị của FPT chỉ còn 1/10 so với 1 năm trước.
Biểu đồ 2.4.2 – Cổ phiếu FPT từ 30/8/2007 đến 27/6/2008
Sau khi chỉ số giá tiêu dùng tháng tháng 8 có dấu hiệu giảm mạnh so với các tháng trước đã tạo niềm tin mạnh mẽ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khả năng VN-index có thể quay lại mốc 550 điểm đã làm cho giá cổ phiếu FPT tăng mạnh trong những giao dịch này, cụ thể giá cổ phiếu FPT đã đạt giá trị cao nhất trong thời gian lạm phát mạnh là 133.000đồng/ cổ phiếu vào đầu tháng 9. Tuy nhiên trong cũng trong tháng 9, sau khi có sự hồi phục mạnh mẽ của VN-index có phần chững lại và dao động quanh mốc 500 điểm cũng làm giá cổ phiếu FPT dao động quanh giá 100.000đồng/ cổ phiếu.
Biểu đồ 2.4.3 – Cổ phiếu FPT từ 1/7 đến 29/9/2008
Dưới đây là giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu FPT trong suốt 1 năm qua
Biểu đồ 2.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục.doc