Chuyên đề Áp dụng phương pháp chi phí du lịch (TCM) để đánh giá giá trị giải trí của Vườn quốc gia Cúc Phương

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH ( TCM ) 4

1.1.CẢNH QUAN MÔI TRƯỜNG 4

1.1.1. Khái niệm. 4

1.1.2.Giá trị kinh tế của chất lượng môi trường. 4

1.1.3. Ý nghĩa của việc định giá chất lượng môi trường. 8

1.1.4 Các phương pháp định giá môi trường. 8

1.1.4.1. Các phương pháp không sử dụng đường cầu. 9

1.1.4.2. Các phương pháp sử dụng đường cầu 9

1.2.Phương pháp chi phí du lịch ( Travel cost method – TCM ) 10

1.2.1. Khái niệm 10

1.2.2. Giới thiệu về phương pháp chi phí du lịch 11

1.2.2.1.Giới thiệu về phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM) 11

1.2.2.2. Giới thiệu về phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân( ITCM) 12

1.3.Các bước thực hiện phương pháp chi phí du lịch ( TCM ) 13

1.4.Những ưu nhược điểm của phương pháp chi phí du lịch ( TCM) 16

CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG 18

2.1 Giới thiệu chung về vườn quốc gia Cúc Phương 18

2.1.1. Lịch sử hình thành 19

2.1.2.Đặc điểm về địa lý và tự nhiên. 20

2.1.3.Hệ sinh thái. 22

2.1.3.1.Thực vật 22

2.1.3.2 Động vật 23

2.1.4 Đặc điểm về kinh tế xã hội 24

2.1.4.1.Dân cư: 24

2.1.4.2. Cơ sở hạ tầng 26

2.1.5. Thực trạng về hoạt động bảo tồn, khai thác, tham quan du lịch. 26

2.1.5.1. Thực trạng hoạt động bảo tồn, khai thác 26

2.1.5.2.Hoạt động của du lịch diễn ra tại khu vực trong giai đoạn 10 năm trở lại (1994-2004). 28

CHƯƠNG III: ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH ĐỂ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CẢNH QUAN TẠI VQG CÚC PHƯƠNG 32

3.1.Thông tin và việc sử lý thông tin. 32

3.1.1.Thiết kế bảng hỏi 33

3.1.2. Điều tra lấy mẫu 34

3.1.3.Xử lý số liệu 34

3.2.Đặc điểm mẫu nghiên cứu. 34

3.2.1.Đặc điểm kinh tế xã hội của du khách tham gia phỏng vấn. 34

3.2.2.Đặc điểm tham quan du lịch của du khách 36

3.3.Xây dựng hàm cầu du lịch 39

3.3.1.Vùng xuất phát và tỷ lệ tham quan. 39

3.3.2.Ước tính chi phí du lịch 41

3.3.3 Tổng chi phí du lịch 46

3.3.4.Hàm cầu 48

KẾT LUẬN 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO 53

 

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6451 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Áp dụng phương pháp chi phí du lịch (TCM) để đánh giá giá trị giải trí của Vườn quốc gia Cúc Phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyến đi là thăm bạn bè hoặc có liên quan đến công việc và tranh thủ nghỉ ngơi giải trí.Nhà nghiên cứu sẽ phải tách chi phí cho địa điểm giải trí trong tổng chi phí của chuyến đi.Đây là công việc rất khó khăn. - Thiên lệch trong mẫu khảo sát: Vấn đề lớn nhất của phương pháp này là nó chỉ lấy mẫu người sử dụng địa điểm đó.Điều này làm thiên lệch ước lượng giá sẵn lòng trả bởi vì người không sử dụng có thể không sẵn lòng gánh chịu chi phí du hành. - Lợi ích của người không sử dụng: Không có cách nào tính được lợi ích môi trường của địa điểm mà người sử dụng không được hưởng thụ.Đo lường sự thay đổi chất lượng môi trường là công việc khó khăn.Cái mà người ta muốn đo lường là giá trị thay đổi chất lượng môi trường tại địa điểm.Phương pháp chi phí du hành đại diện cho giá sẵn lòng trả cho một mức chất lượng môi trường. CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG 2.1 Giới thiệu chung về vườn quốc gia Cúc Phương Cách thủ đô Hà Nội 120 km về phía Nam, nằm lọt sâu trong lòng dãy núi Tam Điệp, có một mảnh đất nhỏ đã trở lên vô cùng thân thương, quen thuộc, gợi lên bao tính hiếu kỳ cho du khách trong và ngoài nước, đó là rừng quốc gia Cúc Phương, VQG đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn đầu thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Được thành lập ngày 07 tháng 07 năm 1962 theo Quyết định số 72 – TTg của Thủ tướng Chính Phủ, vườn quốc gia Cúc Phương thuộc địa phận của 3 tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình và Thanh Hóa với tổng diện tích là 22.000 ha.Với nhiều giá trị về cảnh quan thiên nhiên và sự đa dạng về hệ sinh thái về các giá trị về văn hóa lịch sử nên từ lâu Cúc Phương đã trở thành điểm du lịch thu hút rất nhìều du khách. Sơ đồ2.1 Vườn Quốc Gia Cúc Phương Nguồn: Trang web của VQG Cúc Phương 2.1.1. Lịch sử hình thành Vườn quốc gia Cúc Phương là một nơi mang giá trị lịch sử và là địa điểm khảo cổ. Các di vật của người tiền sử có niên đại cách đây khoảng 12.000 năm đã được phát hiện tại đây, chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực Cúc Phương từ 7.000 đến 12.000 năm trước. Người ta đã phát hiện một loạt các hiện vật như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền v.v. trong một số hang động thuộc vườn quốc gia này. Gần đây, một phần bộ xương của một loài lưỡng cư biển, rất có thể là thằn lằn cá đã được phát hiện trong địa bàn vườn. Năm 1960 , Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và theo Quyết định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 Cúc Phương được quyết định thành lập như là một khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam . Quyết định số 18 QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương thành Vườn quốc gia Cúc Phương và thành lập một Ban quản lý vườn quốc gia này. Quyết định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của Ban quản lý . 2.1.2.Đặc điểm về địa lý và tự nhiên. Vị trí địa lý : Vườn quốc gia Cúc Phương trải dài từ 20°14’ đến 20°24’ vĩ bắc, 105°29’ tới 105°44’ kinh đông , nằm trong một thung lũng lớn dài 25km , giữa hai dãy núi đá vôi trong đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn , ở ranh giới ba tỉnh Hoà Bình , Thanh Hoá và Ninh Bình (nhưng phân nửa nằm trên diện tích Ninh Bình). Diện tích : Theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật của vườn quốc gia đã được Viện điều tra quy hoạch rừng xây dựng vào tháng 10 năm 1985 và được chủ tịch hội đồng Bộ trưởng phê duyệt theo quyết định số 139/CT xác định tổng diện tích đưa ra là 22.200 ha bao gồm 11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình , 5.850 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Thanh Hóa. VQG Cúc Phương được phân làm 3 khu chức năng :Thứ nhất là khu bảo vệ nguyên vẹn có diện tích là 20.745 ha có chức năng duy trì, bảo vệ những điều kiện tự nhiên nguyên thủy nhất, bảo vệ nguyên vẹn tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan di tích lịch sử. Thứ hai là khu chuyên dùng với diện tích 743 ha có chức năng hoạt động dịch vụ, quản lý hành chính, nghiên cứu khoa học, dịch vụ du lịch và dân cư xen kẽ. Thứ ba là vùng đệm nhằm tạo vành đai bảo vệ tránh những tác động xấu của con người cho hai khu trên. Độ cao :150-637m. Địa hình, thuỷ văn: Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía nam dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc.Dải núi đá vôi này với ưu thế là địa hình kiểu karst tự nhiên , hình thành trong lòng đại dương cách đây khoảng 200 Ma. Dãy núi đá vôi nhô lên đến độ cao 637m tạo thành một nét địa hình nổi bật giữa một vùng đồng bằng. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài khoảng 25 km và rộng đến 10 km, ở giữa thung lũng chạy dọc hết gần chiều dài của dãy núi.Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kì thú và ẩn chứa những chứng tích văn hóa lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong… Phần lớn nước ở trong vuờn quốc gia bị hệ thống các mạch nước ngầm chằng chịt hút rất nhanh chóng, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ hai bên sườn của vườn quốc gia. Do vậy không có ao hồ tự nhiên hay các thuỷ vực tĩnh nằm trong vườn quốc gia mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi. Con sông này nằm ở phía tây vườn, chảy theo hướng bắc-nam đổ vào sông Mã. Khí hậu : Khí hậu Cúc Phương thuộc loại nhiệt đới gió mùa , nhiệt độ trung bình năm khoảng 24,7°C. Mùa khô ở Cúc Phương từ tháng 12 đến tháng 4 , mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Mưa khá to, dâng rất nhanh và rút cũng rất nhanh. Lượng mưa trung bình hàng năm lên tới 2.157mm với lượng mưa cao nhất là 3300mm vào năm1963.Số ngày mưa trung bình năm là 224 ngày. Đến Cúc Phương đẹp nhất là vào mùa khô từ tháng 12-tháng 4,khi những cơn mưa dữ dội đi qua. VQG Cúc Phương là một khu rừng nguyên sinh với hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú được bảo vệ nghiêm ngặt lại nằm trên tuyến đường du lịch với những điểm du lịch hấp dẫn như Bích Động, cố đô Hoa Lư, bãi biển Sầm Sơn…Vì vậy Cúc Phương chính là một điểm đến lí tưởng cho những ai yêu thích du lịch sinh thái. 2.1.3.Hệ sinh thái. 2.1.3.1.Thực vật Nơi đây rất giầu có về đa dạng sinh học, với rất nhiều loại đặc hữu, rất nhiều trong số đó được ghi trong sách đỏ của Việt Nam, cũng như trên thế giới.Rừng ở đây là những khu rừng nhiệt đới.Có 5 lớp được phân chia ra: ba lớp gỗ, 1 lớp bụi và 1 lớp cỏ.Thực vật ở đây được chia làm 5 loại: A1, A2, A3, B, C.Nằm ở đỉnh cao nhất( A1) bao gồm các cây có chiều cao từ 40m – 50m.Loại cây tìm thấy ở đây như chò chỉ( Parasorea assamica) chò xanh( Terminalia myriocarpa) A2 là những lớp cây với tính đa dạng hơn, gồm những cây có chiều cao từ 20m – 35m.A3 là những loại khác với chiều cao từ 10m – 20m.Lớp bụi thì gồm những cây có chiều cao không quá 8h và lớp cỏ( C) là lớp nằm sát mặt đất.Lớp này khó có điều kiện phát triển vì bị một số giới hạn, tuy nhiên khi mà tán cây rừng mở ra thì nó phát triển rất mạnh.Ở trên núi đá vôi, lớp đất ở đây thì mỏng hơn so với lớp đá.Rừng ở đây chỉ có 3 lớp.Lớp trên cùng với chiều cao từ 15-30m bao gồm những cây gỗ lim lớn Lớp tiếp theo là những lớp có sự phát triển đều hơn với tán cây cao từ 10-15m.Lớp thứ ba là những lớp cây bụi và cỏ. Cúc Phương có sự phát triển hệ thực vật rất phong phú và đa dạng, là nơi tập trung của 4 luồng thực vật khác nhau. Một là luồng á nhiệt đới (long não, mộc lan, máu chó...). Hai là luồng nhiệt đới nóng ẩm (các cây họ thầu dầu, chò chỉ ). Ba là luồng ôn đới (dẻ, ngát...). Bốn là luồng Tây Nam (họ bàng, họ gạo, họ bồ hòn). Theo số liệu gần đây , Cúc Phương có 1983 loài thực vật bậc cao thuộc 912 chi trong 219 họ, 86 bộ của 7 ngành, trong đó có 433 loài cây làm thuốc, 229 loài cây ăn được, nhiều loài đươc ghi trong sách đỏ Việt Nam. Thảm thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương có ưu thế là rừng trên núi đá vôi,92% đất có thực vật che phủ,rất phong phú về loài. Ở một đôi chỗ, rừng hình thành nên nhiều tầng tán có thể đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán đạt đến độ cao trên 40m. Do địa hình dốc, tầng tán thường không liên tục và đôi khi sự phân tầng không rõ ràng. Nhiều cây rất phát triển hệ rễ bạnh để đáp ứng vơi tầng đất mặt thường mỏng. Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loại cây gỗ lớn như: chò xanh, chò chỉ, đăng...Với diện tích bằng 1/700 diện tích miền Bắc, 1/1500 diện tích lãnh thổ cả nước nhưng hệ thực vật VQG Cúc Phương chiếm tỷ lệ 76% số họ, 48,6% số chi, 30% số loài của miền Bắc và chiếm 68,9% số họ, 43,6% số chi, 24,6% số loài hiện có ở Việt Nam. Những con số đó cho thấy tầm quan trọng của rừng Cúc Phương và bảo tồn Đa dạng sinh học. Song Vườn Quốc gia Cúc Phương còn nổi tiếng ở chỗ tồn tại những cổ thụ khổng lồ, như cây chò chỉ ( Parashorea chinensis ) sống trên 1000 năm tuổi, có phần thân dưới cành tới 70m, đường kính ngang ngực 2,4m ; cây chò xanh ( Terminalia myriocarpa Heurcket Muell ) thân cao 45m, chu vi gốc 25m ; cây Vù hương (Cinnamomum balansae) cao 48m, đường kính 2,5m v.v…Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài cho hoa và hương thơm quanh năm. 2.1.3.2 Động vật Hệ thực vật phong phú đa dạng của Cúc Phương tạo điều kiện phát triển của nhiều loài động vật.Cúc Phương có tới 88 loài thú; 308 loài chim trong đó có nhiều loài thuộc nhóm gõ kiến, sáo, quạ, đớp ruồi; 43 loài lưỡng thê; 67 loài bò sát, 65 loài cá ; gần 2.000 loài côn trùng và 12 loài giáp xác . Một số loài động vật được ghi vào sách đỏ mà thế giới không còn , chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng đỏ,culi lùn , tê tê …Khu chăn nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao, nai vàng, khỉ vàng, voọc quần đùi, sóc bay… là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các nhà khoa học. Cúc Phương còn là quê hương của hàng trăm loài chim, bướm đẹp, lạ, và đến nay đã xác định được 280 loài bướm , 7 loài trong số đó là các loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam tại Cúc Phương vào năm 1998. Riêng một số loài không xương sống cũng rất đặc sắc như bướm kê ly ma (hình chiếc lá khô), bọ ngựa (hình lá xanh) hay bọ que (hình chiếc que củi khô…Cúc phương là nơi sinh sống của một số quần thể thú quan trọng về mặt bảo tồn, trong đó có loài linh trưởng đang bị đe doạ tuyệt chủng trên toàn cầu ở mức đe doạ cực kì nguy cấp là voọc quần đùi trắng và loài sẽ bị nguy cấp trên toàn cầu là cầy vằn bắc Thêm vào đó, loài báo hoa mai là loài bị đe doạ ở mức quốc gia cũng mới được ghi nhận gần đây . Cúc Phương có trung tâm bảo tồn loài linh trưởng lớn nhất Đông Nam Á về quy mô, kỹ thuật và tổ chức. Ở đây nuôi 15 loài linh trưởng nằm trong sách Đỏ thế giới, trong đó có 4 loài đặc hữu là voọc mông trắng, voọc đầu trắng, voọc Hà Tĩnh và voọc ngũ sắc.Ngoài ra nơi đây còn có 17 loại rùa, trong đó có hai loài rùa nằm trong danh sách các loài động vật sắp nguy cấp của thế giới là Rùa Núi Vàng và Rùa Núi Viền. Tổ chức Bảo tồn Chim quốc tế tại Việt Nam (BirdLife) vừa hoàn thiện danh sách các khu xem chim tại Việt Nam, trong đó xác định Vườn quốc gia (VQG) Cúc Phương (Ninh Bình) là 1 trong 15 khu xem chim thuận tiện nhất nước ta. 2.1.4 Đặc điểm về kinh tế xã hội 2.1.4.1.Dân cư: Cúc Phương là nơi cư trú và sinh sống của cộng đồng người Mường với những nét văn hoá độc đáo và đặc trưng. Đó là những nếp nhà sàn, ruộng bậc thang, những cối giã gạo nương, những khung dệt thổ cẩm. Độc đáo hơn là những lễ hội, phong tục tập quán và nếp sống của cộng đồng mà du khách có thể cảm nhận được trong thời gian thăm bản. Khách có thể tới làng Khanh, một làng du lịch sinh thái với những ngôi nhà truyền thống của người Mường. Bà con trong làng đã được chuyển giao công nghệ nuôi ong, hươu, cải tạo vườn tạp, khôi phục nghề dệt thổ cẩm. Ban Quản lý Vườn Cúc Phương cũng đang mở rộng mô hình làng Khanh ra các bản làng khác để hình thành tuyến du lịch sinh thái bản làng.Du khách cũng có thể nghỉ đêm trong những ngôi nhà nhỏ hai phòng nằm nép dưới bóng cây ở vùng đệm của rừng. Khi vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống trong các xóm thuộc vùng lõi của vườn quốc gia này. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết thúc vào cuối năm 1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn địa ngoài cửa vườn. Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông Bưởi bên trong vườn. Số dân này cũng đang được lên kế hoạch để di dời. Khoảng trên 62000 dân sống ở vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong số họ có cuộc sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn .Cúc Phương là một trong 2 xã miền núi của huyện Nho Quan.Trung tâm vườn có 9 bản trong đó địa phận tỉnh Thanh Hoá 2 bản, Hoà Bình 1 bản , Ninh Bình 6 bản. Số bản trên đất Ninh Bình đều nằm gần đường ô tô từ cửa rừng đến trung tâm. Đó là bản Mạc, bản Đang, bản Mền, bản Đồng Cơn, bản Đăng và sâu nhất là bản Bống. Tập quán sinh hoạt cụ thể : Người Mường Cúc Phương ở nhà sàn làm bằng gỗ, vách thường làm bằng nứa, giữa thờ thần rừng và gia tiên, gian giữa có một cửa sổ nhìn ra hướng cổng. Ngày lễ Tết hoặc cúng giỗ tổ tiên, cổng được quét vôi treo vào đó cái rổ, thúng hoặc nồi hỏng.Về tôn giáo, người Mường Cúc Phương có hai tôn giáo chính, đó là đạo Phật và đạo Thiên chúa.Trong bản có già bản là người cao tuổi có uy tín, có hiểu biết. Trong bản còn có một nhân vật quan trọng là thầy mo, việc chính là cúng ma . Thầy mo có chút hiểu biết về các loại lá cây rừng để chữa các bệnh thông thường. Người Mường không có chữ viết riêng, tiếng nói không riêng nhưng có một số từ vực có dùng cả tiếng Kinh, những từ vực ấy khi phát âm có lái đi một chút. Người Mường có tập tục “Quyền ún “ (ún là em ) nghĩa là quyền của người nhỏ nhất trong nhà không kể trai hay gái thể hiện lĩnh vực bán đổi các tài sản trong nhà. Người Mường Cúc Phương trước ngày di dời khỏi trung tâm rừng, phương thức canh tác là làm nương rẫy, trồng ngô, lúa, sắn, chặt cây làm nương rẫy, tháng 9 thu hoạch lúa ngô. Văn hoá ẩm thực Cúc Phương được biết đến với rượu cần và cơm lam. Trong tập tục cưới hỏi,thách cưới to nhỏ phụ thuộc vào vị trí xã hội, quan hệ của nhà gái 2.1.4.2. Cơ sở hạ tầng Sau 7 năm ( từ 1999-2005 ) thực hiện Chương trình 135, huyện Nho Quan đã xây dựng và đưa vào sử dụng 11km đường liên xã nối liền vườn quốc gia Cúc Phương với quốc lộ 45 ; cứng hóa một số đường giao thông liên thôn bản và đường đi nội bộ trong các thôn bản ; xây dựng được 2 trạm xá kiên cố, xây dựng hoàn chỉnh 2 hệ thống cấp nước phục vụ nước sinh hoạt cho ở bản Bãi Cả ( xã Cúc Phương ).Huyện Nho Quan đã xây dựng đường điện lưới quốc gia, xây dựng trạm tiếp sóng truyền hình, cung cấp kịp thời thông tin thời sự trong nước và quốc tế phục vụ bà con dân bản. Cũng trong Chương trình 135, huyện Nho Quan còn được hỗ trợ giống, phân bón và chuyển 65 ha đất lâm nghiệp sang trồng mía, dứa... Khoảng 320 hộ dân với 643 nhân khẩu, 332 lao động trong vùng đệm vườn quốc gia Cúc Phương đã đươc di dời đến nơi ở mới ổn định và thuận lợi hơn cho làm ăn, sinh hoạt. Theo dự kiến đường xuyên Việt sẽ được mở trên cơ sở của tỉnh lộ 437 qua Vườn quốc gia Cúc Phương với đoạn dài 8km, chia Vườn thành 2 phần: phần phía Tây khoảng 1.500ha - phía Đông 20.700 ha. 2.1.5. Thực trạng về hoạt động bảo tồn, khai thác, tham quan du lịch. 2.1.5.1. Thực trạng hoạt động bảo tồn, khai thác Đa dạng sinh học là một đặc trưng nổi bật của VQG Cúc Phương. Các giá trị kinh tế của HST tự nhiên Cúc Phương có thể phân chia thành: giá trị khai thác trực tiếp(chẳng hạn làm thức ăn, lấy sợi, dược liệu…); giá trị không khai thác trực tiếp ( giải trí); giá trị gián tiếp (điều hoà khí hậu, bảo vệ lưu vực, chất lượng đất); các giá trị phi sử dụng( thẩm mỹ, tinh thần, văn hoá). Từ xưa, con người đã biết khai thác các tài nguyên sẵn có của rừng Cúc Phương để thoả mãn các hoạt động sinh hoạt hàng ngày như ăn, mặc, ở…. Thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào việc trao đổi mua bán các sản phẩm thiên nhiên thông qua các hoạt động săn bắt, hái lượm. Giá trị kinh tế của hoạt động này không cao lại làm mất đi tính đa dạng sinh học của rừng Cúc Phương. Ngày nay, các giá trị kinh tế của VQG Cúc Phương mang lại không chỉ là thông qua việc khai thác trực tiếp mà dần chuyển sang các hoạt động khác có hiệu quả kinh tế hơn. Nổi bật là hoạt động du lịch sinh thái ( DLST). DLST được định nghĩa khác nhau giữa các quốc gia nhưng tóm lại nó là hoạt động mang tính giáo dục cao, góp phần bảo tồn và cải thiện đời sống của người dân địa phương khu vực đến tham quan. Hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST 9-1999 tại Hà Nội đã đưa ra định nghĩa về DLST : “ DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp của nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Các nhà kinh doanh hướng tới DLST phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu mang tính đạo đức và trách nhiệm cao với mục tiêu chính là: gìn giữ và bảo tồn các đặc tính tự nhiên của HST bao gồm các loài động thực vật trong đó, các giá trị văn hoá, phong tục tập quán truyền thống của những người dân địa phương sinh ra và cùng tồn tại với HST đó. Giá trị kinh tế từ hoạt động này mang lại không nhỏ. Một trong những công thức tính đến hiệu quả kinh tế mà du lịch nói chung và DLST nói riêng mang lại là hiệu quả số nhân trong kinh tế( multiplier effect). Ví dụ khách du lịch mua một tấm thổ cẩm do người dân địa phương dệt nên, hoạt động này mang lại thu nhập cho người dệt thổ cẩm nhưng kéo theo đó người trồng dâu nuôi tằm, người nhuộm thổ cẩm cũng có thu nhập từ việc bán được tấm thổ cẩm đó.Cũng từ phân tích mô hình số nhân, DLST đã mang lại những hiệu quả kinh tế như:Làm tăng nguồn ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch; làm tăng giá trị xuất khẩu tại chỗ; góp phần phát triển các ngành kinh tế khác phát triển theo; mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng địa phương. Tại VQG Cúc Phương dự án GEF/SGP đang được triển khai thành công. Đây là chương trình tài trợ các dự án nhỏ về quản lý bền vững rừng nhiệt đới( SGP PTF) của môi trường toàn cầu (GEF) với nội dung hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số nghèo ở miền núi quản lý rừng đồng thời đấu tranh chống nghèo đói ở địa phương, ngoài ra dự án còn đảm bảo kết hợp với bảo vệ môi trường. Hiện tại VQG Cúc Phương đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh một làng du lịch ở bản Mường( chính là bản Khanh Vôi có đồng bào Mường sinh sống ở đó lâu đời) phía Tây theo mô hình mẫu: Nông nghiệp, làng nghề truyền thống và du lịch. Trong làng có đường ôtô, có thuỷ điện nhỏ, có vườn cây ăn quả và có nghề dệt thổ cẩm truyền thống được khôi phục với những đêm lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, múa hát cùng với các đoàn du khách. Cũng từ mô hình sống này, người dân trong làng đã có thu nhập cao hơn hẳn, đời sống tinh thần được nâng lên và họ đã tự giác bỏ các hoạt động xâm hại đến rừng như trước đây. Với thành công này, VQG Cúc Phương đang tiến hành nhân rộng ra một số làng thuộc vùng đệm. 2.1.5.2.Hoạt động của du lịch diễn ra tại khu vực trong giai đoạn 10 năm trở lại (1994-2004). Điều kiện để VQG Cúc Phương trở thành một điểm du lịch phát triển: VQG Cúc Phương nằm sát đồng bằng Bắc Bộ nhất là nằm trên tuyến đường du lịch với những điểm du lịch hấp dẫn như: Tam Cốc- Bích Động, Cố đô Hoa Lư, bãi biển Sầm Sơn …rất tiện cho khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.Sự đa dạng về hệ động thực vật của rừng trên núi đá vôi kiểu Karst với đặc trưng là cây chò ngàn năm, loài voọc mông trắng…trong đó có nhiều loài mà trên thế giới không còn và đặc biệt là vườn rất nhiều loài hoa lan cho hoa rất đẹp. Một đặc điểm của Cúc Phương thu hút khách du lịch đặc biệt là DLST đó là nó còn ít chịu sụ tác động của con người. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình khoảng 27,4C phù hợp cho du lịch và nghỉ ngơi. Ngoài ra còn nhiều di tích lịch sử có từ hàng nghìn năm như Động người xưa, động trăng khuyết, ….nơi đây lưu giữ nhiều giá trị khảo cổ mà các nơi khác ít có được. ngày nay VQG Cúc Phương lại là nơi cư trú của người Mường với những nét văn hóa đặc trưng, lễ hội và phong tục đặc trưng. Chính những nét văn hóa bản địa còn thô sơ đã hấp dẫn khách du lịch. Du khách đến đây có thể được tham quan nhà sàn hay thú vị hơn là có thể thuê trang phục của người bản địa. Khách du lịch đến đây không chỉ được nghe giới thiệu chi tiết về cảnh quan, hệ sinh thái động, thực vật đặc sắc của khu rừng, mà còn được thưởng thức nhiều hình thức giải trí phong phú khác. Khách đến nghỉ được nếm các món ăn đặc sản, được sống trong không khí lửa trại vui nhộn. Đặc biệt, vườn quốc gia còn kết hợp phát triển du lịch cộng đồng, đưa khách đến xem những điệu múa, hát, tìm hiểu những nét văn hóa đặc trưng của người dân bản Mường. Thiên nhiên đã ban tặng cho Cúc Phương những giá trị cả về vật chất và tinh thần hiếm có, là điều kiện thuận lợi cho Cúc Phương trở thành một điểm du lịch lý tưởng. Hoạt động du lịch: Hiện nay, nhu cầu du lịch đặc biệt là DLST tăng cao. Đây là loại hình du lịch không chỉ mang lại cho du khách sự sảng khoái, thoải mái khi được hít thở không khí trong lành và khám phá những điều bí ẩn bên trong mà đặc biệt hơn nó giúp du khách có thêm kiến thức về bảo vệ môi trường và ĐDSH. DLST khác với các loại hình du lịch khác cũng bởi nó mang tính giáo dục cao. Vì vậy mà chi phí của một chuyến DLST cũng cao hơn so với các loại du lịch đại trà khác.Có nhiều giá tour khác nhau để đến Cúc Phương, sau đây là giá tour riêng tham quan Cúc Phương trong một ngày: Bảng 2.1.Giá tour tham quan Cúc Phương trong một ngày Số lượng 1 2 3 4 6-8trở lên GiáUSD/ khách 97 62 47 39 32 Nguồn:Vườn quốc gia Cúc Phương Mức giá bao gồm: - Xe ô tô điều hoà, đời mới đưa đón trong chương trình. - Ăn trưa. - Phí tham quan suốt hành trình. - Lái xe, hướng dẫn viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm. Mức giá không bao gồm: Bảo hiểm du lịch, nước uống, điện thoại, tips cho HDV và các dịch vụ cá nhân khác. Cúc Phương là một trong những địa điểm DLST hấp dẫn bởi những điều kiện sẵn có ở trên. Nó đã thu hút nhiều công ty du lịch kí hợp đồng các tour du lịch.Theo thống kê năm 2004, lượng khách du lịch đến VQG Cúc Phương vào khoảng 51000 lượt người.Tuy nhiên con số này vẫn tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo.Khách du lịch đến đây với nhiều mục đích khác nhau , như đi du lịch, nghiên cứu khoa học, hội thảo.... *Tuyến, điểm tham quan khu cổng vườn gồm: Vườn thực vật: 1 điểm tốt cho việc dạo bộ, đặc biệt vào sáng sớm, hoặc chiều tối( 3km, 1,5 -2 giờ: Yêu cầu có hướng dẫn viên của VQG đi cùng). Chòi quan sát: Một tuyến leo núi ngắn, cảnh quan đẹp(300m, 0,5-1 giờ, mức độ vừa phải, không bắt buộc có hướng dẫn viên đi cùng). Cắm trại và ngủ đêm trong rừng: là tuyến du lịch mạo hiểm bắt buộc phải có hướng dẫn viên của VQG và người dân bản địa đi cùng. Tuyến bao gồm các chương trình xem động vật hoang dã ban đêm( Thời gian 2-3 ngày, tuyến khó đi , tối đa 5 người). Động người xưa: Một trong những điểm cư trú của người tiền sử, địa điểm đa dạng về hệ dơi ( 300m,0,5-1 giờ, yêu cầu có ánh sáng khi tham quan). Tuyến cây đăng cổ thụ: tuyến đi bộ trong rừng già, vượt qua nhiều dốc đá. Xem bộ xương hoá thạch và có thể nhìn động vật hoang dã ( 8km,3-4 giờ, yêu cầu có hướng dẫn viên của VQG đi cùng). Các trung tâm: Mở cửa đón khách thường xuyên bao gồm: Trung tâm du khách, trung tâm cứu hộ linh trưởng, trung tâm bảo tồn rùa. Các tuyến du lịch chuyên đề: được tổ chức tại văn phòng du lịch và tổ chức theo yêu cầu. *Tuyến điểm tham quan khu trung tâm: Động Sơn Cung, Cây chò ngàn năm: tuyến dễ thực hiện, mang đèn pin.(7 km, 2-3 giờ, du khách có thể tự đi hoặc đi cùng hướng dẫn viên của VQG). Cây sấu cổ thụ: tuyến bằng phẳng, một địa điểm tốt để xem chim( 6 km cả đi và về, 1,5-2 giờ , du khách có thể tự đi hoặc đi cùng hướng dẫn viên của VQG). *Bản Mường: 15 km đi bộ xuyên qua rừng già và 1 đêm nghỉ lại tại nhà sàn truyền thống ( thời gian 2-3 ngày, yêu cầu có hướng dẫn viên đi cùng). Đây là tuyến tìm hiểu văn hoá và sinh hoạt của đồng bào Mường, đặc biệt nếu bạn đến đây vào dịp lễ hội bạn sẽ được thưởng thức những bản âm hưởng cồng chiêng du dương.Ngoài ra còn một số tuyến du lịch khác nữa. Ông Đào Văn Khương, Giám đốc VQG Cúc Phương, cho biết khoảng năm năm trở lại đây lượng khách đến Cúc Phương ngày một tăng, bình quân một năm đón khoảng 40.000-50.000 lượt khách, trong đó khoảng 5 % là khách nước ngoài, 70% người Việt Nam là sinh viên, học sinh đến nghiên cứu học tập. Riêng 6 tháng đầu năm 2001, lượng khách đến Cúc Phương là 32.000 lượt người. Doanh thu từ du lịch của vườn hàng năm lên tới 1,7 tỷ đồng. So với các rừng quốc gia khác thì Cúc Phương lại tỏ ra khá thành công trong việc khai thác lợi thế của mình. Từng đoàn du khách vẫn nối đuôi nhau đến thăm rừng nhất là vào những dịp cuối tuần. Năm 2003 VQG đã đón 52000 lượt khách , trong đó khách quốc tế chiếm gần 10% , và chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2004 có 51000 lượt người đến đây thăm quan. CHƯƠNG III: ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU LỊCH ĐỂ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CẢNH QUAN TẠI VQG CÚC PHƯƠNG Như đã phân tích trong chương I, cả hai phương pháp ITCM và ZTCM đều có những ưu nhược điểm của nó.Phương pháp chi phí du hành cá nhân ITCM sẽ tính số lần đến của một cá nhân trong khoảng thời gian nhất định, còn phương pháp chi phí du hành theo vùng ZTCM sẽ dựa vào số người đến từ một vùng trong khoảng thời gian nhất định.Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể đối với VQG Cúc Phương thì việc áp dụng phương pháp ZTCM thì phù hợp hơn, vì: - VQG Cúc Phương nằm khá xa so vớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21937.doc
Tài liệu liên quan