Bệnh lợn con phân trắng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Do vậy, vấn đề phòng và trị bệnh lợn con phân trắng được rất nhiều tác giả ở nhiều nước nghiên cứu và cho rằng kháng sinh nhóm Neomycin có hiệu quả cao trong việc điều trị với liều 10 – 20UI/kg TT trong vòng 3 ngày.
Theo A.Kovacs và cs (1993) [14 ], đã chữa bệnh lợn con phân trắng bằng cách cho uống Histamin 3lần/ngày, liên tục 3 ngày với liều 5mg/con.
Theo Erwin M.Kohrler và cs (1996) [14], đã nghiên cứu các thành phần Protein huyết thanh ở lợn 2 – 3 tuần và với 7 tuần tuổi. Lợn con 7 tuần tuổi đã ăn được thức ăn thực vật thành phần Protein so với lợn 2 – 3 tuần tuổi, lợn con bị tiêu chảy do các loại vi khuẩn thường được gọi rối loạn đường ruột.
Theo P.X.Malsxter (1999) [15] cho rằng dùng vi khuẩn E.coli sống chủng M17 có tính đối kháng với nhiều loại vi khuẩn, cho lợn ăn 2 lần/ngày, nhiều là 230ml, sau 14 ngày có hiệu quả đặc biệt đối với lợn con trong thời kỳ cai sữa.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3285 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Áp dụng quy trình chăn nuôi và phòng trị bệnh phân trắng cho lợn từ sơ sinh đến cai sữa ở công ty cổ phần Lợn Giống Dân Quyền, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sau sơ sinh lợn con tăng trọng nhanh, sinh trưởng với tốc độ cao. Qua nghiên cứu thí nghiệm và thực tế sản xuất, người ta nhận thấy rằng, so với khối lượng sơ sinh thì sau 10 ngày tuổi, khối lượng lợn con tăng gấp 2 lần, sau 20 ngày tuổi tăng gấp 4 – 5 lần, sau 30 ngày tuổi tăng gấp 6 lần, 40 ngày tuổi tăng gấp 7 – 8 lần và sau 60 ngày tuổi tăng 12 – 14 lần. So với các gia súc khác, trong giai đoạn này, tốc độ sinh trưởng của lợn con nhanh hơn.
* Tốc độ phát triển nhanh nhất là 21 ngày đầu, sau 21 ngày tốc độ giảm xuống. Sự giảm này có nguyên nhân chủ yếu là do lượng sữa mẹ sau 3 tuần giảm xuống rõ rệt. Ngược lại, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần rất nhiều năng lượng, nghĩa là tiêu tốn thức ăn lợn trưởng thành.
1.4.1.2. Đặc điểm của bệnh lợn con phân trắng.
* Nguyên nhân gây bệnh phân trắng ở lợn con:
Do đặc điểm về quá trình phát triển của lợn con trong giai đoạn bú sữa mẹ, các hệ cơ quan, hệ miễn dịch phát triển chưa hoàn thiện nên lợn con có thể mắc nhiều thứ bệnh, đặc biệt là bệnh phân trắng lợn con.
Trong các loại vi khuẩn đường ruột, loài E.coli là loài phổ biến nhất. E.coli xuất hiện và sống trong ruột của động vật chỉ vài giờ sau khi sinh. Khi điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc kém, sức đề kháng của con vật bị giảm thì E.coli mới trở nên cường độc và có khả năng gây bệnh. Chúng sản sinh ra độc tố (Enterotoxin) phá huỷ tổ chức thành ruột làm thay đổi cân bằng trao đổi nước, điện giải. Nước không được hấp thu từ ruột vào mà bị rút từ cơ thể tập trung vào ruột dẫn đến gây bệnh tiêu chảy.
Những nguyên nhân khác làm tăng mức độ nhiễm E.coli và vệ sinh chuồng trại kém, bầu vú lợn mẹ bị nhiễm khuẩn, thức ăn nước uống không hợp vệ sinh, E.coli xâm nhập theo đường miệng vào cơ thể. Ngoài ra, lợn con dưới 01 tháng tuổi dịch vị thiếu HCl tù do cũng là nguyên nhân làm tăng khả năng nhiễm khuẩn và nhiễm bệnh đường tiêu hoá. Lợn con không được bú sữa đầu dẫn đến sức đề kháng yếu làm tăng khả năng cảm nhiễm bệnh; thời tiết nóng, lạnh đột ngột, độ Èm môi trường cao cũng làm lợn con dễ mắc bệnh phân trắng.
Theo Sử An Ninh (1993) [8], nguồn gốc sinh ra bệnh phân trắng có liên quan đến phản ứng thích nghi của cơ thể lợn với yếu tố stress, biểu hiện thông qua sự biến động về hàm lượng một số thành phần trong máu nh đường huyết Choleteron, sắt, kali, natri,...
Chăm sóc lợn mẹ (đặc biệt là thời gian mang thai) không đúng kỹ thuật nh: thức ăn, nước uống không hợp vệ sinh, khẩu phần không đủ dinh dưỡng, thiếu các yếu tố đa lượng, vi lượng làm cho lợn con sinh ra còi cọc, thiếu sắt, coban, Vitamin B12,... khiến cơ thể lợn suy yếu do thiếu máu, khả năng chống đỡ với các yếu tố môi trường kém nên dễ mắc bệnh.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1995) [12], sắt là yếu tố vi lượng rất cần thiết cho sinh trưởng và khả năng chống đỡ bệnh tật. Ở động vật, 1/2 lượng sắt trong cơ thể nằm ở Hemoglobin, một lượng Ýt hơn nằm ở Myoglobin và một số Enzyme. Trong quá trình mang thai hoặc sữa đầu của lợn mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng về sắt dễ sinh bần huyết ở lợn con, cơ thể suy nhược, không hấp thụ được dinh dưỡng, giảm sức đề kháng và dễ mắc bệnh.
Sữa lợn mẹ giảm dần sau khi sinh làm lợn con đói phải gặm, liếm nền, thành chuồng (có nhiễm E.coli). Trong trường hợp lợn mẹ viêm vú, đặc biệt là do E.coli gây ra, khi cho bú sữa của lợn mẹ này thì dễ bị tiêu chảy ngay sau đó.
Theo Cù Xuân Dần (1996) [2], lượng sữa mẹ giảm dần sau đẻ và đến ngày thứ 20 giảm đột ngột, trong khi đó nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng cao. Đến ngày thứ 20 nếu dinh dưỡng của lợn mẹ không đảm bảo, lợn con càng thiếu sữa, gặm, liếm nền và thành chuồng nên dễ sinh bệnh đường tiêu hoá.
* Dịch tễ học bệnh phân trắng lợn con:
Đây là bệnh rất phổ biến ở lợn con đang theo mẹ, đặc biệt là lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi. Có con mắc sau khi sinh 2 – 3 giờ, còn một số con mắc muộn hơn khi đã 4 tuần tuổi.
Vi khuẩn E.coli tập trung chủ yếu ở ruột già nên phân gia súc là nguồn bệnh lớn, đặc biệt là gia súc mắc bệnh. Chúng cũng tồn tại trong đất, nước, chất thải và chất độn chuồng. Bệnh phân trắng lợn con là một loại bệnh có thể phát triển quanh năm, nhiều nhất là cuối vụ đông xuân và cuối xuân sang hè, sau nhiều trận mưa, khí hậu thay đổi đột ngột, tỷ lệ mắc bệnh có thể lên tới 100%, tỷ lệ chết có thể tới 30-40%.
Thời gian nào độ Èm càng cao, bệnh phát triển càng nhiều. Tỷ lệ mắc bệnh ở vùng trung du và vùng núi Ýt hơn, thời gian mắc bệnh cũng ngắn hơn đồng bằng. Nền chuồng bằng đất là sân chơi rộng, hạn chế sự phát triển của bệnh. Đất đồi núi (mà lợn con gặm ăn được) là điều kiện ngăn ngừa bệnh vì đất có nhiều yếu tố khoáng vi lượng.
Về đường truyền bệnh và quá trình sinh bệnh, nhiều tác giả nhất trí cho rằng: Đường truyền bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là qua đường ăn uống. Khi lợn nhiễm bệnh, E.coli phát triển nhanh trong đường ruột, chúng huỷ hoại thành ruột và giải phóng ra độc tố, độc tố này xâm nhập vào dòng Lympho làm cho máu bị nhiễm độc và con vật chết. Ngoài ra, lợn con có thể nhiễm E.coli qua bào thai.
Trong các cơ sở chăn nuôi, E.coli lan truyền bằng đường cơ học do chuột, chó, mèo, côn trùng hoặc do người chăm sóc, dụng cụ chăn nuôi bị nhiễm E.coli từ nơi này sang nơi khác.
Quá trình sinh bệnh có liên quan đến đặc điểm sinh lý của cơ thể lợn con. Ở lợn con các hệ cơ quan, hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, đó là các yếu tố tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây bệnh.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá hoặc bào thai, vi khuẩn chui vào niêm mạc ruột, sản sinh và phát triển trong các tế bào biểu mô ruột, gây viêm thủng các tế bào, ngăn cản sự hấp thụ sữa khi lợn con bú vào. Nếu cơ thể yếu, vi khuẩn xâm nhập vào các hạch, sau đó vào máu và tiết ra độc tố làm cơ thể nhiễm độc dẫn đến trạng thái hôn mê rồi chết.
Tuy nhiên, đối với lợn con khoẻ, vi khuẩn E.coli chỉ cư trú ở ruột già và phần cuối ruột non với số lượng Ýt. Phần đầu và giữa ruột non gần nh không có. Khi cơ thể lợn con suy yếu, vi khuẩn E.coli phát triển mạnh lên về số lượng và hình thành nên chủng E.coli cường độc gây bệnh cho lợn con.
Theo Nguyễn Quang Tuyên (1993) [11], súc vật mới đẻ không có E.coli trong ruột nhưng chỉ sau khi sinh vài giờ đã có. Bình thường E.coli sống trong ruột già, chỉ khi nào sức đề kháng của con vật kém E.coli mới vào máu và phủ tạng để gây bệnh.
* Triệu chứng lâm sàng:
Lợn con mắc bệnh có biểu hiện: chậm chạp, bú Ýt hoặc bỏ bú (khi bị nặng và kéo dài) thân nhiệt thường hạ sau vài giờ hoặc 1 ngày. Lợn đi ỉa nhiều lần trong ngày, phân lỏng màu trắng như vôi, trắng xám hoặc hơi vàng, cá biệt có lẫn máu, mùi tanh khắm, lợn con do nhăn nheo, lông xù, phân dính bê bết xung quanh hậu môn và khoeo chân.
Lợn bệnh gầy sút nhanh, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu không điều trị kịp thời, lợn con có thể chết do suy nhược.
* Bệnh tích:
Bệnh tích được phát hiện thấy chủ yếu ở xoang bụng. Ruột non bị viêm cata kèm xuất; dạ dày sưng phủ một lớp nhầy, gan bị thoái hoá màu đất sét, sưng, túi mật căng và bị dài ra do chứa đầy mật, lách không sưng, mềm, bóc lớp vỏ thấy xuất huyết. Chất chứa trong ruột lỏng, màu vàng. Xác lợn chết gầy, bụng hóp, những lợn chết qua đêm phần bụng thường có màu đen do quá trình hoại tử gây nên.
* Chẩn đoán:
Dựa vào phân. Ngoài ra, dựa vào triệu chứng và bệnh tích điển hình để chẩn đoán bệnh.
* Ứng dụng một số phác đồ để phòng và trị bệnh:
- Phòng bệnh: Để phòng bệnh phân trắng lợn có hiệu quả thì biện pháp rất cần thiết và hiệu quả là bổ sung sắt cho lợn con. Trong cơ thể lợn con có 40mg Fe, lợn con cần mỗi ngày một lượng sắt là 7mg cho sù sinh trưởng mà sữa mẹ chỉ cung cấp được bình quân 1mg Fe trong 1 ngày. Như vậy, nếu không kịp thời bổ sung thì chỉ sau một tuần lợn con sẽ bị thiếu sắt, lượng hồng cầu trong máu sẽ giảm dẫn đến ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý của lợn con.
Lượng sắt phù hợp phụ thuộc vào tuổi cai sữa của lợn. Nếu lợn cai sữa lúc 3 tuần tuổi thì 100mg sắt là đủ cho 1 mũi tiêm, nếu lợn cai sữa sau 3 tuần tuổi thì cần tới 150 – 200mg Fe. Để hạn chế bội nhiễm đường ruột do ăn uống cần tập cho lợn ăn từ 5 – 7 ngày tuổi, cho ăn Ýt một và chia làm nhiều lần.
- Điều trị:
Lợn con bị bệnh có thể chết do: Loạn khuẩn đường ruột; nhiễm độc tố và mất nước, chất điện giải.
Để điều trị có hiệu quả, ta phải khắc phục được các nguyên nhân trên bằng cách sử dụng thuốc nhằm: diệt vi khuẩn gây bệnh, hạn chế sự mất nước và chất điện giải.
Thực tế có rất nhiều thuốc điều trị bệnh phân trắng lợn con, trong đó có thuốc Genta-Costrim và Colistin 1200. Ngoài ra, có thể dùng thêm chất điện giải, đường glucose (cho uống). Đối với những đàn bị nặng phải cách ly với mẹ vào những khoảng thời gian nhất định để cho lợn con thải hết lượng vi khuẩn trong ruột ra.
Thành phần của Genta-Costrim 10g/gói:
Gentamycin sulfate 500mg
Sulfadimidin sudium 1000mg
Trimethỏpim 200mg
Axit nicotinic 200mg
Gentamicin là 1 kháng sinh có tác dụng rộng và mạnh với hầu hết vi khuẩn Gram (+) và (-).
Khi uống Gentamicin hầu nh không được hấp thụ qua niêm mạc đường tiêu hoá, tác dụng mạnh tại chỗ trong đường ruột với các vi khuẩn gây bệnh viêm ruột, ỉa chảy, phân trắng,...
Hỗn hợp Genta-Costrim làm tác dụng mạnh và tác dụng hiệp đồng giữa các thành phần và hướng tác dụng mạnh nhất là các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hoá.
Liều: 1g/10kg khối lượng
Dùng liên tục 3 – 5 ngày
Trong 100g Colistin 1200 chứa:
Colistin sulfate 120.000.000 IU
Tá dược VĐ 100g
Colistin sulfate là một kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn cao, đặc biệt với các vi khuẩn Gram (-).
Colistin sulfate không bị hấp thụ qua ống tiêu hoá, vì vậy sau khi uống thuốc giữ nồng độ cao ở ruột và có tác dụng diệt khuẩn tại chỗ, chủ yếu các vi khuẩn gây viêm ruột – ỉa chảy.
Liều: 1g/10kg khối lượng/ngày
Dùng liên tục 4 – 5 ngày
(Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2003) [6])
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.4.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở nước ta, khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn đường ruột phát triển. Vi khuẩn đường ruột E.coli có hại thuộc họ vi khuẩn đường ruột Enterobacteriaceae là nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh phân trắng lợn con. Bệnh xảy ra ở hầu hết các cơ sở chăn nuôi lợn, đặc biệt phổ biến ở các trại chăn nuôi lợn tập trung. Do ảnh hưởng của bệnh làm giảm chất lượng con giống và hiệu quả chăn nuôi, trước tình hình đó rất nhiều nhà khoa học thuộc lĩnh vực chăn nuôi thú y đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục phòng chống bệnh lợn con phân trắng.
Theo nhóm tác giả: Hội chăn nuôi Việt Nam (2000) [5], nhu cầu Fe và Cu trong máu rất cần thiết do duy trì Hemoglobin và dự trữ cho cơ thể phát triển, ở lợn sơ sinh trong 100ml máu có 10g Hemoglobin. Sau 10 ngày tuổi chỉ còn 4 – 5g Hemoglobin/ 100ml máu. Nếu lợn con chỉ nhận Fe qua sữa, cơ thể sẽ thiếu Fe dẫn đến thiếu máu gây suy dinh dưỡng, ỉa phân trắng.
Theo Cù Xuân Dần (1996) [2], cần tập trung cho lợn con ăn sớm, vừa bổ sung thêm chất dinh dưỡng, vừa có tác dụng tăng tiết dịch vị, tăng hàm lượng HCl tù do và Enzyme vừa kích thích sự phát triển của dạ dày và ruột để thích ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
Theo Đào Trọng Đạt và Phan Thanh Phượng (1995) [3] đã sử dụng các chế phẩm sinh học bổ sung cho lợn, thấy lợn vừa có khả năng phòng bệnh đường tiêu hoá, vừa có khả năng chống rối loạn sinh trưởng ở gia sóc non.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Định Lân (1995) [7], bệnh phân trắng lợn con chủ yếu do E.coli và một số vi khuẩn khác thường xuyên xuất hiện vào những ngày đầu sau khi sinh và suốt thời gian bú sữa mẹ.
Theo Nguyễn Như Nho (1999) [9], thì trên heo con sơ sinh khả năng tiết axit HCl là rất Ýt, chỉ đủ để hoạt hoá men pepsinogen thành pepsin (men tiêu hoá chất đạm, lượng axit HCl tù do quá Ýt không đủ sức làm tăng độ toan của dạ dày, do độ toan thấp, vi khuẩn bất lợi qua đường miệng có điều kiện sống sót ở dạ dày vào ruột non phát triển mạnh gây tiêu chảy.
Vũ Văn Ngữ (1977) [10], trong bài: “Tìm hiểu thêm về nguyên nhân ỉa phân trắng ở lợn con và đánh giá tác dụng của 2 loại thuốc vi sinh vật sống Sucolac trong điều trị bệnh” cho rằng: Bệnh lợn con ỉa phân trắng là do vi khuẩn E.coli và chữa bằng cách cho uống vi sinh vật sống Sucolac có hiệu quả tốt vừa điều chỉnh hệ vi sinh vật đường ruột vừa cung cấp một số men tiêu hoá.
Theo Từ Quang Hiển và Phan Đình Thắm (1995) [4], đối với lợn con dưới 01 tháng tuổi trong dịch vị có phân tiết HCl tù do rất Ýt nên vi sinh vật có điều kiện phát triển, dễ gây bệnh ở đường tiêu hoá.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1995) [12] khẳng định: Bệnh phân trắng ở lợn con là một hội chứng hoặc một trạng thái lâm sàng đa dạng, đặc biệt làm viêm dạ dày, viêm ruột và gây sút nhanh. Tác nhân gây bệnh chủ yếu là E.coli, nhiều loại Salmonella (S.cholerae, S.typhi suis...) và đóng vai trò phụ là: Proteus, Streptococus. Bệnh xuất hiện nhiều vào những ngày đầu sau khi mới sinh và suốt trong thời gian bú sữa. Ở nước ta bệnh có thể phát triển quanh năm, nhưng nhiều nhất là cuối đông sang xuân, cuối xuân sang hè. Sau những trận mưa to gió lớn, khí hậu thay đổi đột ngột, tỷ lệ mắc bệnh đến 100%, tỷ lệ chết 30 – 45%.
1.4.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bệnh lợn con phân trắng xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Do vậy, vấn đề phòng và trị bệnh lợn con phân trắng được rất nhiều tác giả ở nhiều nước nghiên cứu và cho rằng kháng sinh nhóm Neomycin có hiệu quả cao trong việc điều trị với liều 10 – 20UI/kg TT trong vòng 3 ngày.
Theo A.Kovacs và cs (1993) [14 ], đã chữa bệnh lợn con phân trắng bằng cách cho uống Histamin 3lần/ngày, liên tục 3 ngày với liều 5mg/con.
Theo Erwin M.Kohrler và cs (1996) [14], đã nghiên cứu các thành phần Protein huyết thanh ở lợn 2 – 3 tuần và với 7 tuần tuổi. Lợn con 7 tuần tuổi đã ăn được thức ăn thực vật thành phần Protein so với lợn 2 – 3 tuần tuổi, lợn con bị tiêu chảy do các loại vi khuẩn thường được gọi rối loạn đường ruột.
Theo P.X.Malsxter (1999) [15] cho rằng dùng vi khuẩn E.coli sống chủng M17 có tính đối kháng với nhiều loại vi khuẩn, cho lợn ăn 2 lần/ngày, nhiều là 230ml, sau 14 ngày có hiệu quả đặc biệt đối với lợn con trong thời kỳ cai sữa.
Phần 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Lợn con ở giai đoạn theo mẹ từ sơ sinh đến cai sữa
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Cty cổ phần lợn giống Dân Quyền huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá
2.1.3. Thời gian tiến hành
Từ ngày 01/06/2009 - 30/10/2009.
2.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
* Công tác thú y:
- Tiêm phòng vaccine cho đàn lợn theo quy trình tiêm phòng của trại.
- Chẩn đoán và điều trị một số bệnh mà đàn lợn mắc phải.
* Công tác chăn nuôi:
- Quy trình nuôi dưỡng lợn nái.
- Quy trình nuôi dưỡng lợn con theo mẹ.
* Điều tra tình hình nhiễm bệnh lợn con phân trắng tại công ty CP Lợn giống Dân Quyền huyện Triệu Sơn - tỉnh Thanh Hoá.
* Sử dụng thuốc Gentacostrim và Colistin 1200 trong điều trị bệnh.
2.2.2. Chỉ tiêu theo dõi
- Tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng theo đàn và theo cá thể.
- Tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh phân trắng theo các tháng trong năm
(Thống kê số lợn con theo mẹ mắc bệnh trong từng tháng)
- Tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc bệnh phân trắng theo lứa tuổi
- Tỷ lệ lợn chết do mắc bệnh phân trắng (Ghi lại tất cả số lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi bị chết do mắc bệnh lợn con phân trắng).
- Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh phân trắng ở lợn của 2 loại thuốc Genta Costrim và Colistin 1200.
Nguyên tắc bố trí thí nghiệm: Đảm bảo đồng đều về giống, loại lợn, lứa tuổi.
2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU.
+ Tû lÖ m¾c bÖnh (%) = x 100
Tæng sè con m¾c bÖnh
Tæng sè con theo dâi
+ Tû lÖ chÕt (%) = x 100
Tæng sè con chÕt
Tæng sè con theo dâi
+ Tû lÖ khái (%) = x 100
Sè con ®iÒu trÞ khái
Sè con ®iÒu trÞ
+ Tû lÖ t¸i ph¸t (%) = x 100
Sè con t¸i ph¸t
Sè con ®iÒu trÞ
Số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp xử lý số liệu của Nguyễn văn Thiện (1997) [13].
Phần 3
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
3.1. KẾT QUẢ PHỤC VỤ SẢN XUẤT
3.1.1. Công tác chăn nuôi
Nguồn nguyên liệu: lúa, ngô,... công ty mua từ vùng lân cận và một số do công nhân trong công ty cung cấp để chế biến cho lợn hậu bị, chờ phối, lợn đực làm việc, lợn đực hậu bị, lợn có chửa, lợn nuôi con. Tất cả được nuôi dưỡng trong cùng điều kiện của Cty, thức ăn dùng là Proconco loại đậm đặc C12, C14, Toffest: T2320, T2330. Bổ sung thêm thức ăn khoáng Hogtannal với tỷ lệ (200g Hogtannal/40kg thức ăn hỗn hợp).
* Phương pháp cho ăn đối với nái sinh sản.
- Đối với nái chửa kỳ 1 thì dinh dưỡng ở giai đoạn này chưa cần thiết lắm vì giai đoạn này thai phát triển chưa mạnh, cho ăn với mức nh sau:
Nái chửa lần đầu ăn: 2,1 – 2,3kg/nái/ngày đêm
Nái chửa lần 2 trở đi: 2,0 – 2,2kg/nái/ngày đêm
Protein thô: 13 – 14%
Năng lượng trao đổi: 2800 – 3000Kcal
- Đối với nái chửa kỳ 2 là giai đoạn bào thai phát triển mạnh cho nên lượng thức ăn phải cao hơn so với nái chửa kỳ 1.
Nái chửa lần đầu ăn: 2,2 – 2,5kg/nái/ngày đêm
Nái chửa lần 2 trở đi: 2,8 – 3,2kg/nái/ngày đêm
Protein thô: 16 – 17%
Năng lượng trao đổi: 2800 – 3000Kcal
Nguồn thức ăn sử dụng mua từ hãng Proconco là ngoài thức ăn đậm đặc C12, Cty còn sử dụng thức ăn hỗn hợp C14 cho lợn con tập ăn đến khi lợn 15kg.
Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn nh sau:
Bảng 3.1. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn
Thành phần dinh dưỡng
C12
C14
Đậm đặc 2000
Đạm tối thiểu %
37
19
43
Sơ tối đa %
8
5
6
Độ Èm tối đa %
13
13
13
Năng lượng trao đổi (Kcal/kg)
2400
3300
2800
Colistin tối đa (mg/kg)
13
1200
2800
Ca (tối thiếu – tối đa) %
3,3 – 7,3
0,7 – 1,4
1,6 -3,6
P tối thiểu
1,3
0,5
1,1
NaCl tối thiếu – tối đa %
1,8 – 3,4
0,3 – 0,8
1 - 2
3.1.2. Công tác thú y
* Về công tác phòng bệnh
Dịch bệnh là một trong những nguyên nhân quan trọng trong chăn nuôi, làm giảm hiệu quả kinh tế, lợn bị mắc bệnh sẽ ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, phát triển, hiệu quả sử dụng thức ăn, khả năng sinh sản, ... Do vậy, trong chăn nuôi cần đặc biệt chó ý đến công tác quản lý phòng bệnh tốt là tiền đề cho một đàn lợn khoẻ mạnh.
Công ty Lợn giống Dân Quyền thực hiện công tác thú y thường xuyên thể hiện:
+ Cổng chuồng và các đầu mỗi dãy chuồng đều có các hố vôi, khách lạ đến phải đi ủng của công ty mới được vào, công nhân phải thay quần áo lao động và đi ủng mới được vào nơi làm việc.
Trong suốt thời gian làm việc tại công ty, tôi đã tham gia trực tiếp cùng cán bộ, đội ngũ công nhân của công ty thực hiện đúng công tác phòng bệnh.
- Hàng ngày làm vệ sinh chuồng trại, tắm rửa cho đàn lợn.
- Tham gia vệ sinh khu vực chuồng trại, tiêm phòng cho đàn lợn theo quy trình sản xuất.
- Định kỳ phun độc khử trùng trong và ngoài chuồng 2 lần/tuần bằng Iotde 10%.
+ Đối với đàn lợn con:
3 – 5 ngày tiêm phòng Fe – dextran 10% và uống Byecoc mục đích phòng thiếu máu cho lợn con, phòng bệnh phân trắng lợn con, kích thích tăng trọng giúp gia sóc non phát triển.
18 – 21 ngày tuổi tiêm phòng vaccin phó thương hàn, tiêm nhắc lại lần 2 sau 1 tuần.
30 – 35 ngày tuổi tiêm phòng vaccin dịch tả.
45 ngày tuổi tiêm phòng vaccin tụ dấu.
+ Đối với đàn lợn sinh sản: Hàng năm công ty chỉ đạo tiêm phòng đúng định kỳ:
Tháng 5 và 11 tiêm phòng vaccin dịch tả.
Tháng 1 và 6 tiêm vaccin đóng dấu
Tháng 2 và 6 tiêm phòng tụ huyết trùng
Tẩy giun sán 1 năm 2 lần bằng thuốc Vinamextin và Detomax.
Phòng bệnh suyễn lợn, Cty thực hiện phối hợp Tylosine, Tiamulin, Tylansunfua vào thức ăn định kỳ 3 ngày/tháng.
Trường hợp bị dịch, tiêm phòng cho tất cả các loại lợn kể cả lợn chửa và lợn con 1 ngày tuổi. Riêng dịch đóng dấu không tiêm phòng cho lợn con.
Lợn xuất bán hoặc chuyển chuồng được tiêm phòng đầy đủ 4 loại vaccin: dịch tả, đóng dấu, tụ huyết trùng, phó thương hàn.
Nếu xuất bán hoặc chuyển chuồng theo quy định chu chuyển đàn lợn của công ty thì các ô trong đó phải được rửa sạch bằng máy tẩy sút. Sau đó rửa lại sạch sẽ và phun thuốc sát trùng để khử trùng tiêu độc.
+ Chế độ quản lý thó y:
Có nội quy ra vào khu vực chăn nuôi.
Có nơi thay quần áo, giày dép khi xuống chuồng
Có nơi xử lý gia súc chết
Có nơi giết mổ riêng
Trong thời gian thực tập tại công ty tôi đã tiến hành tiêm phòng cho đàn lợn với kết quả như sau: 230 liều vacxin LMLM, 250 liều vacxin dịch tả lợn, 180 liều vacxin phó thương hàn và 170 liều vacxin tụ huyết trùng.
* Công tác điều trị bệnh
Công tác điều trị bệnh cho đàn lợn trong công ty luôn được cán bộ thú y, công nhân đặc biệt quan tâm phòng và điều trị bệnh một cách tích cực và nghiêm ngặt mỗi khi có bệnh xảy ra. Thường xuyên theo dõi tình hình của đàn gia sóc gia cầm để phát hiện những con bị bệnh và kịp thời đưa ra phác đồ điều trị tránh lây lan sang cả đàn. Trong thời gian thực tập tại công ty tôi tham gia công tác điều trị các bệnh như:
+ Bệnh suyễn lợn:
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Mycoplasma là tác nhân chính và kết hợp với vi khuẩn Pasterella mulltocida, Streptococcus và Staphylococcus.- Điều trị: Enroseptyl 1ml/10kg khối lượng cơ thể (tiêm bắp)
Triệu chứng: Triệu chứng điển hình là ho vào buổi sáng sớm và lúc chiều tối, lúc đầu ho khan, tần số ho Ýt, sau tăng lên từng cơn và ho kéo dài, viêm kết mạc mắt có rử, thân nhiệt tăng, thở khó, thở thể bụng.
Điều trị: Dùng thuốc Tyloxin liều 10ml/lợn lớn (lợn nội), liều 15ml/lợn lớn (lợn ngoại), lợn choai liều 5ml/con, tất cả tiêm bắp.
Thời gian điều trị: 3 – 5 ngày
+ Bệnh tụ huyết trùng:
Triệu chứng: Lợn giảm ăn, thân nhiệt sốt cao, gương mũi khô hay uống nước, con vật khó thở, trên vùng da mỏng xuất hiện xuất huyết hoặc tím bầm, lúc đầu táo sau đi tháo.
Điều trị: Thuốc Penicylin + Genta + Anagin + B1 với cách pha chế gồm 2 triệu Peni + 10ml Genta + 5ml Anagin + 5ml B1, tiêm bắp, 2 lần/con/ngày.
+ Bệnh viêm nội mạc tử cung:
Triệu chứng: Âm hộ cương to, dịch chảy ra nhiều (nhầy) mùi hôi thối, sốt cao hơn bình thường 1 – 1,5oC, lợn mẹ không cho con bú, bụng hóp.
Điều trị: Tiến hành rửa tử cung bằng nước muối 0,5% + nước trầu không hoà đặc khoảng 1 – 15lit nước/lần. Sau đó tiến hành tiêm Oxytocin hay tiến hành thụt bột kháng sinh vào tử cung như Pelicilin, ampicilin, furarocilin, tetracilin tiến hành tiêm kháng sinh chống viêm.
+ Bệnh Hecni
Triệu chứng: Hecni có khối lượng khác nhau tuỳ vào thời gian ruột chui ra ngoài da, ngắn mới đầu nhỏ, về sau lớn dần. Quan sát bên ngoài da khi Hecni còn nhỏ da bóng loáng, có màu đỏ hồng sờ vào thấy mềm nhão, lùng nhùng.
Điều trị: Cố định gia súc có người giữ, xác định miệng hecni sẽ nổi rõ lỗ tròn, vô trùng toàn bộ ngoài Hecni bằng cồn iot 2%. Mổ giữa cổ miệng hecni dùng dao rạch đứt lớp da ngoài sau đó dùng ngón tay bóc lớp màng trong để lộ túi hecni, đẩy phần ruột hecni vào trong xoang phúc mạc, sau đó dùng kim cong khâu lỗ hecni lại, dùng Teracylin bôi vào vết mổ rồi khâu lớp da ngoài lại.
+ Bệnh lưu thai
Triệu chứng: Không mở cổ tử cung, quá 5 – 7 ngày nhưng không đẻ, thỉnh thoảng có cơn rặn yếu, hoặc đẻ 1 con sống 1 con chết lưu.
Điều trị: Dùng Oxytocin kết hợp với Vitamin B1.
+ Bệnh viêm ruột ở gia sóc non
Triệu chứng: Lúc đầu lợn đi ỉa chảy, phân hơi vàng trắng, ở hậu môn dính bết phân, phân có mùi tanh khắm, gia súc mất nước dẫn đến lông xù, gầy còm, đi siêu vẹo.
Điều trị: Dùng thuốc Tiamulin 2ml + Licomycin 10ml + B1 5ml, tiêm bắp, thời gian điều trị 1 – 2 ngày.
+ Bệnh lợn con phân trắng: Là bệnh hay gặp ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi.
Nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh phân trắng ở lợn con. Nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ làm cho lợn chết, hoặc nếu khỏi cũng chậm lớn thiệt hại kinh tế. Ngoài những yếu tố về thời tiết, điều kiện nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại. Một nguyên nhân quan trọng nữa là do gia súc mẹ lúc mang thai không được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, lượng sữa đầu Ýt, chất lượng sữa kém hoặc lợn con không được bú sữa đầu, dẫn đến sức đề kháng của lợn con giảm, đồng thời còn do các vi khuẩn đường ruột gây bệnh, trong đó phổ biến nhất là E.coli và Salmonella.
Triệu chứng: lợn con Ýt bú, lông dựng và nổi gai ốc. Bụng chướng nhẹ, ỉa nhiều lần trên ngày, phân màu trắng lỏng, mùi tanh khẳm.
Chẩn đoán: qua kiểm tra lâm sàng chúng tôi nghi lợn mắc bệnh ỉa phân trắng
Điều trị: Colistin 1200, Liều: 1g/10kg khối lượng/ ngày
Dùng liên tục 4 – 5 ngày.
Ngoài ra, có thể dùng các loại nước lá chát nh búp ổi, hồng xiêm, sắc lẫy nước cho lợn uống.
Hé lý:- Giữ Êm và khô chuồng trại, tránh gió lùa.
- Hạn chế cho lợn bệnh bú mẹ trong lúc bị bệnh.
- Bổ sung đủ nước, điện giải cho những con mắc bệnh nặng
- Ổn định khẩu phần ăn của lợn mẹ, tránh thay đổi đột ngột. Bổ sung thêm men tiêu hoá và giảm lượng thức ăn.
+ Chữa ghẻ
Nguyên nhân: Do cái ghẻ Sarcpotes scabei, là loại côn trùng hình nhện ký sinh ở da, đục khoét lớp biểu bì da, gây rụng lông, lở loét ngứa ngáy. Lợn mắc bệnh ở mọi lứa tuổi. Thường ghẻ bắt đầu từ tai, đầu mắt sau đó lan xuống hai bên sườn, đùi, háng… trên da xuất hiện các mụn ghẻ màu đỏ sau đó bị tróc ra thành các vảy màu nâu hay xám. Con vật gầy dần, rụng lông bệnh có thể gây chết ở lợn con.
Truyền bệnh: Lây lan chủ yếu ở lợn bệnh sang lợn khỏe. Ngoài ra chuồng trại có dính cái ghẻ (cái ghẻ sống ở ngoài c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 42.doc