MỤC LỤC
NỘI DUNG
LỜI CẢM ƠN 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy
I Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4
1.1Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 4
1.2.Tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 6
II Những nội dung cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8
2.1.Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 8
2.2. Những nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh 16
2.2.1 Hợp đồng bảo hiểm 16
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 18
2.2.3. Phạm vi bảo hiểm và rủi ro bảo hiểm 18
2.2.4. Số tiền bảo hiểm 21
2.2.5. Phí bảo hiểm 24
2.2.6. Phương thức bồi thường 25
Chương II: Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003)
I Khái quát chung về Bảo Việt Hà Nội 33
1.1. Giới thiệu về Bảo Việt Hà Nội 33
1.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội 34
1.3. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003) 35
II. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) 37
2.1. Sự ra đời và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 37
2.2. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) Công tác khai thác bảo hiểm 38
2.2.1. Khâu khai thác 39
2.2.2.Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 47
2.2.3.Công tác giám định bồi thường 49
2.2.4.Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 52
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội
I.Một số thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy 58
3.1. Một số thuận lợi 58
3.2. Một số khó khăn 59
II Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội 62
3.1. Một số kiến nghị 62
3.1.1. Một số kiến nghị với Nhà nước 62
3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty 63
3.2.Một số giải pháp 64
3.2.1.Giải pháp về công tác khai thác 64
3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định bồi thường 69
3.2.3.Thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất 70
2.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự 71
2.2.5.Hoàn thiện công tác quản lý tài chính 72
KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
77 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bảo hiểm giai đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt - Hà Nội giai đoạn 1999-2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong bất kì hoàn cảnh nào, cán bộ công nhân viên của công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Tổng công ty và nhà nước giao phó.
Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam có sự thay đổi cơ bản về bản chất, đó là do việc ban hành nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 và nghị định 74/CP ngày14/6/1997 đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Hoạt động kinh doanh của công ty do đó cũng gặp nhiều khó khăn hơn do mức độ cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn những năm trước. Hà Nội – trái tim của cả nước, đầu não kinh tế chính trị quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá – khoa học – giáo dục –kinh tế và giao dịch quốc tế, một trong những thành phố có các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động nhất. Thủ đô Hà Nội là một thị trường giàu tiềm năng và cơ hội để phát triển dịch vụ bảo hiểm. Hiện, trên địa bàn Hà Nội có 13 trên tổng số 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia và chú trọng đầu tư, phát triển. Bảo Việt Hà Nội không những phải cạnh tranh với những công ty bảo hiểm trên thị trường khác về tỷ lệ phí, chi phí kinh doanh mà còn phải cạnh tranh cả về những yếu tố phục vụ khác. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nước ngoài là cho tính cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trước đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt tất yếu dẫn tới việc giảm phí bảo hiểm hay phải chia xẻ phí do đồng bảo hiểm, đặc biệt là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003 thể hiện bảng số liệu 1 dưới đây:
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Doanh thu (Trđ )
74.886
75.711
82.570
95.100
131.21
Tốc độ trưởng doanh thu (%)
-
1.01
9.1
15
37.97
Tỷ lệ bồi thường (%)
31.5
37.35
39.35
50.41
32.25
Thu nhập bình quân
cán bộ/ tháng (Tr.đ/Tháng)
1.690
1.850
2.150
2.300
2.750
(Nguồn số liệu : Phòng Marketing –Bảo Việt Hà Nội )
Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội năm 1999 là 74886 triệu đồng, năm 2000 và năm 2001 doanh thu có tăng nhưng chưa nhiều với doanh thu lần lượt là75.711 và 82570 triệu đồng trong khi như ta biết thì năm 1998 doanh thu phí của Bảo Việt Hà Nội là 87.650 triệu đồng. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do có sự tham gia và mở rộng của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ như VIA (1996), UIC (1997), PTI (1998). Hơn nữa trong vài năm trở lại đây tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư trên thị trường Hà Nội còn chậm, gây ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Đứng trước những khó khăn thách thức trên Bảo Việt Hà Nội không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu và luôn nhanh nhạy trong kinh doanh, có sự kết hợp linh hoạt các chính sách của chính phủ , các quy định của Tổng công ty với các biện pháp của mình để có thể đứng vững và tăng trưởng cao. Một trong những biện pháp quan trọng mà Bảo Việt Hà Nội đang áp dụng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh doanh. Theo phương thức mới này công ty sẽ giao khoán cụ thể hoạt động kinh doanh cho từng phòng và các phòng phải có nhiệm vụ hỗ trợ nhau để thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh đó.
Kết quả là sang tới năm 2002 doanh thu phí đã đạt được 95.100 triệu đồng và 2003 là 131.214 triệu đồng bằng 113,2% mức kế hoạch mà Tổng công ty giao, tăng trưởng xấp xỉ 38% so với năm 2002. Điều này, chứng tỏ công ty đang từng bước đi đúng hướng dần đạt được những mục tiêu đã đề ra, thích nghi với môi trường kinh doanh mới.
Có được kết qủa này một phần là nhờ vào sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ giúp đỡ của lãnh đạo Tổng công ty, lãnh đạo các cơ quan ban nghành thành phố. Phần còn lại là kết qủa từ chính nỗ lực của cán bộ công nhân viên Bảo Việt cũng như kết quả từ chất lượng dịch vụ mà Bảo Việt Hà Nội dành cho khách hàng của mình. Bảo Việt Hà Nội đang dần tạo cho mình một phong cách riêng một nét riêng:
“Nền nếp khoa học trong kinh doanh, thân thiện coi trọng quyền lợi của khách hàng”.
Với phương châm: “Phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình” và “Đáp ứng cái khách hàng cần chứ không phải những gì mình có”. Bảo Việt Hà Nội không ngừng đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Công tác giám định bồi thường của Bảo Việt Hà Nội cũng có những bước cải thiện đáng kể, với sự giúp đỡ của Tổng công ty, Bảo Việt Hà Nội đã giải quyết tôt các khiếu nại bồi thường thuộc phân cấp nhanh chóng, chính xác góp phần nâng cao uy tín với khách hàng.
Các mặt hoạt động khác như: công tác tổng hợp, công tác đào tạo, công tác tuyên truyền quảng cáo, công tác kế toán- tài chính, công tác tin học… cũng từng bước được cải thiện đáng kể.
II.THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠi BẢO VIỆT HÀ NỘI (1999-2003)
2.1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháytại Bảo Việt Hà Nội
Bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nghành bảo hiểm. Hiện nay, trên thế giới, bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và trở thành nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống với số phí bảo hiểm hàng năm thu được rất cao. Đơn cử như ở Nhật Bản, doanh thu phí bảo hiểm hoả hoạn thường vào khoảng 10 tỷ USD chiếm khoảng 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ. Nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội nói riêng thì mãi cho tới ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay còn gọi là bảo hiểm hoả hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06/TC-QĐ của bộ Tài Chính. Ngay sau khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhanh chóng khẳng định ngay vai trò quan trọng của nó quả doanh thu phí thu về hàng năm đều tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn công ty. Như năm 2003 doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm này đạt 11,039 tỷ đồng chiếm gần 8,5% tổng doanh thu.
Bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo hiểm cháy nhưng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giúp đỡ người được bảo hiểm nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh so với bảo hiểm hoả hoạn.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời nhằm khắc phục những mặt còn thiếu, còn hạn chế của bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Tuy nhiên, thực tế nghiệp vụ bảo hiểm này không ra đời cùng thời điểm với bảo hiểm cháy bắt đầu triển khai mà phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy mới bắt đầu được đưa vào thử nghiệm… Hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm này được triển khai trên cơ sở mẫu đơn của Anh. Từ khi đưa vào triển khai doanh thu phí cũng như số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí với khách hàng chưa nhiều chưa đáp ứng được quy luật số lớn.
Năm 1996 sau 2 năm triển khai số đơn khai thác được mới chỉ là 8 đơn. Đến năm 2003, sau gần 10 năm triển khai số đơn khai thác được coi là nhiều nhât cũng mới chỉ dừng lại ở con số 102 đơn, con số còn quá ư khiêm tốn so với số đơn khai thác được của các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ô tô có số đơn bảo hiểm khai thác được trong năm 2003 là gần 8000 đơn hay nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là trên 25.000 đơn.
2.2. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng bao gồm các khâu truyền thống:
Khâu khai thác
Khâu giám định - bồi thường
Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất
Khâu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh
Bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ xung cho nhau, chỉ cần một trong bốn khâu hoạt động kém hiệu quả thì sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới cả quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đó để có thể tìm ra được biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh một nghiệp vụ nào đó chúng ta cần phải phân tích từng khâu của nghiệp vụ đó. Trong phần này, từng khâu của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy của Bảo Việt Hà Nội sẽ được xem xét cụ thể.
2.2.1 Khâu khai thác.
Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh bảo hiểm, nó có ý nghĩa quan quyết định tới sự thành bại đối với một công ty bảo hiểm nói chung hay một nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc số đông bù số ít. Có làm tốt khâu khai thác mới đảm bảo nguyên tắc này và đảm bảo hình thành được quỹ bảo hiểm đủ lớn. Do vậy, khâu khai thác là khâu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với công ty. Khai thác được nhiều thì doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty càng tăng nhanh kéo theo đó là sự tăng lên của lợi nhuận, cũng như mức trích lập dự phòng lớn hơn đảm bảo cho công ty phát triển ổn định kinh doanh lâu dài.
Như vậy, ta có thể thẩy khâu khai thác có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu trong việc phân tích hoạt động kinh tế một nghiệp vụ. Quy trình khai thác bảo hiểm bao gồm việc tuyên truyền quảng cáo, tiếp cận khách hàng, đánh giá rủi ro được bảo hiểm trên cơ sở đó ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm, xác định điều khoản, phạm vi bảo hiểm, tính toán mức phí bảo hiểm thích hợp, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm …
Nhiệm vụ đầu tiên của khai thác viên bảo hiểm, sau khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của người yêu cầu bảo hiểm là đánh giá các nguy cơ có liên quan đến rủi ro được yêu cầu bảo hiểm, trong đó cần chú ý tới các nguy cơ vật chất (các yếu tố có thể làm tăng tần số và mức độ nghiêm trọng của hiểm hoạ yêu cầu bảo hiểm gắn liền với đặc điểm của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm) và các nguy cơ tinh thần (là các yếu tố có thể làm tăng tần số và mức độ nghiêm trọng của hiểm hoạ được yêu cầu bảo hiểm gắn liền với thái độ của người yêu cầu bảo hiểm hay người được bảo hiểm).
Tuy bảo hiểm gián cháy và bảo hiểm đoạn kinh doanh sau cháy có chung rủi ro được bảo hiểm nhưng cơ sở đánh giá rủi ro trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại có một số điểm khác so với bảo hiểm cháy. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, cần xét tới hai loại rủi ro: Rủi ro vật chất và rủi ro gián đoạn kinh doanh.
Rủi ro vật chất là những rủi ro xảy ra cháy, rủi ro này được đánh giá căn cứ vào nguy có thể xảy ra cháy. Bao gồm những nguy hiểm của quá trình sản xuất như: việc sử dụng các dung môi dễ cháy, sơn và các máy móc chạy ở tốc độ cao, các nguồn ánh sáng nhân tạo hay việc sử dụng điện …
Nhưng không nhất thiết rằng rủi ro cháy càng cao thì rủi ro gián đoạn kinh doanh càng cao ví dụ như rủi ro gián đoạn kinh doanh sẽ thấp nếu quy trình sản xuất kinh doanh đơn giản dễ dàng thực hiện trong những nhà xưởng tạm, nguyên vật liệt dễ kiếm …
Rủi ro gián đoạn kinh doanh được hiểu là tính nhậy cảm của hoạt động sản xuất kinh doanh với gián đoạn kinh doanh.
Bảo hiểm cháy và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là hai nghiệp vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời nhằm khắc phục những mặt còn thiếu, những mặt còn hạn chế của bảo hiểm cháy. Trên thực tế, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được coi là nghiệp vụ bảo hiểm mới tại Bảo Việt Hà Nội. Từ khi triển khai đến nay, số đơn và số phí thu được của nghiệp vụ bảo hiểm này còn rất khiêm tốn so với các nghiệp vụ đang triển khai khác. Điều này có thể thấy qua số liệu bảng 2.
Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt –Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
1. Số đơn bảo hiểm cấp
Tốc độ tăng (%)
42
--
51
121,4
70
137,25
81
115,7
102
125,9
2. Số tiền bảo hiểm
Tỷ lệ tăng (%)
366.700
-
433.300
118.16
549.876
126,9
636276
115,7
801.265
125,9
3.Doanh thu phí bảo hiểm (tr.đ)
Tỷ lệ tăng (%)
505
--
650
128,7
824
126,8
952
115,5
1224
128,8
4. Số tiền bảo hiểm bình
quân / 1 hợp đồng (tr.đ)
8730,95
8490,169
7855,256
7855,256
7856,519
5. Số phí bảo hiểm bình quân / 1 hợp đồng (tr.đ)
12,024
12,745
11,776
11,756
11,996
( Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt –Hà Nội )
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số hợp đồng bảo hiểm ký được và số phí bảo hiểm thu được của nghiệp vụ bảo hiểm này còn chưa nhiều, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra một dấu hiệu khả quan cho thấy rằng đây là một nghiệp vụ giàu tiềm năng phát triển trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng.
Trước tiên là về số đơn bảo hiểm khai thác được:
- Năm 1999, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho 42 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên con số 70.
- Năm 2003 số đơn bảo hiểm khai thác được đã tăng lên gấp hơn 2 lần so với năm 1999 lên 102 đơn
Thực tế là từ khi triển khai tới nay, hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hay một số ít các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng lớn tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này nhưng còn chưa nhiều. Phần lớn các doanh nghiệp, cơ quan khác chỉ tham gia bảo hiểm cháy.
Như năm 1999 số đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được là 382 đơn trong khi số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khai thác được chỉ khiêm tốn với con số 42 đơn.
Hay như năm 2003 được đánh giá là năm có số hợp đồng khai thác được cao nhất thì cũng chỉ dừng lại ở con số 102 hợp đồng trong khi số hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được là hợp đồng . Số hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chỉ chiếm chưa tới 20% trong tổng số hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được.
Tuy số đơn bảo hiểm năm sau luôn cao hơn năm trước song chưa nhiều, có thể nói nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Song đây là nghiệp vụ bảo hiểm mới, số đơn khai thác được chưa nhiều nên khó có thể đưa ra một kết luận chính xác.
Về số tiền bảo hiểm, qua số liệu bảng 2 ta thấy số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng tăng lên, phản ánh đúng với số tăng lên của các đơn vị tham gia bảo hiểm. Cụ thể:
- Năm 1999 số tiền bảo hiểm là 336.700 triệu thì năm 2000 số tiền bảo hiểm là 433.300 triệu đồng tăng lên so với năm 1999 là 96.600 triệu đồng với tốc độ tăng là 18,16% .
- Năm 2001 số tiền bảo hiểm là 549.867 triệu đồng tăng lên so với năm 2000 là 116.567 triệu đồng với tỷ lệ là 126,9 %.
- Năm 2003 là năm có số tiền bảo hiểm tăng mạnh nhất lên tới 801.265 triệu đồng tăng so với 2002 là 164.989 với tỷ lệ tăng là 125,9%.
Tuy nhiên, chỉ tiêu số tiền bảo hiểm bình quân / một hợp đồng lại có xu hướng giảm nhẹ, điều này chứng tỏ công ty chưa khai thác được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn. Đây là một hạn chế mà công ty cần khắc phục.
Về doanh thu phí bảo hiểm: Do số đơn vị tham gia bảo hiểm và số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ tăng, tất yếu kéo theo sự tăng lên của doanh thu phí. Doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng qua các năm đây là một xu hướng phát triển tốt.
Năm 1999 doanh thu của nghiệp vụ này mới chỉ là 505 triệu thì tới năm 2000 doanh thu phí tăng lên của nghiệp vụ này tăng lên là 650 triệu tăng so với năm 1999 là 145 triệu với tốc độ tăng tương ứng là 28,7% .
Năm 2003, doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ tăng mạnh lên con số 1.224 triệu tăng so với năm 2002 là 272 triệu tương ứng với tốc độ tăng 28,8 % , năm 2003 được đánh giá là năm có doanh thu phí, số hợp đồng là cao nhất. Nguyên nhân của điều này phần nhiều là do số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng, họ vốn đã quen với tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam triển khai hoạt động kinh doanh họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh. Do đó khi tham gia bảo hiểm cháy, họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Phần còn lại là do một vài năm trở lại đây Bảo Việt Hà Nội đã chú ý hơn trong công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này.
Song, chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng lại có xu hướng giảm nhẹ, là do số tiền bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng giảm, đó thực sự là một điểm hạn chế mà Bảo Việt Hà Nội cần khắc phục trong thời gian tới.
Thực tế là từ, khi triển khai tới nay, hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hay một số ít các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng lớn tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này nhưng còn rất ít. Phần lớn được cấp thông qua môi giới hoặc do yêu cầu của khách hàng. Điều này dẫn tới số đơn và số phí bảo hiểm thu về còn chưa nhiều, chưa thực sự đáp ứng được quy luật số lớn cũng như chưa phát huy hết được tác dụng và sư cần thiết khách quan của nghiệp vụ bảo hiểm này. Điều này có thể thấy rõ qua số liệu bảng 3.
Bảng 3:Tỷ trọng doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
1. Tổng doanh thu của toàn công ty (Tr.đ).
74.866
75.711
82.570
95.100
131.21
2. Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (Tr.đ).
505
650
824
952
1224
3. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp trong nước (Tr.đ).
24
38
23
42
68
4. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (Tr.đ).
481
612
801
910
1056
5. Doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy / tổng doanh thu của toàn công ty (%).
0,68
0,86
0,998
1
0,933
6. Doanh thu từ các hợp đồng ký với doanh nghiệp trong nước / doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (%).
4,75
5,85
2,79
4,41
5,56
7. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài / doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (%).
95,24
94,15
97.21
95,59
94,44
( Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp – Bảo Việt Hà Nội )
Qua số liệu bảng 3, ta thấy doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội.
- Năm 1999, sau 5 năm triển khai doanh thu phí của nghiệp vụ mới chỉ chiếm có 0.68% doanh thu của toàn công ty. Một con số quá ư là khiêm tốn.
- Năm 2002 là năm có tỷ lệ doanh thu cao nhất thì cũng chỉ chiếm có 1.001 % số phí thu được là với số phí thu được là 952 triệu đồng trên tổng số 81 hợp đồng khai thác được. Trong khi doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm cháy trung bình chiếm khoảng 8.5 - 9% doanh thu toàn công ty với số hợp đồng khai thác được trung bình trong năm năm gần đây là hơn 300 hợp đồng / 1 năm . So với số thu từ nghiệp vụ bảo hiểm cháy thì những con số thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thực sự là khiêm tốn.
Bên cạnh dấu hiệu khả quan là doanh thu phí có xu hướng ngày càng tăng theo các năm triển khai song con số tăng lên chủ yếu phụ thuộc vào nhân tố bên ngoài là chủ yếu. Hầu hết như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hay một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng tham gia , nhưng chưa nhiều. Phần lớn các hợp đồng khai thác được là thông qua môi giới hoặc do phía khách hàng tự yêu cầu khi tham gia bảo hiểm cháy của, còn thực tế là Bảo Việt Hà Nội gần như để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp trong nước. Do đó, sau gần 10 năm triển khai nghiệp vụ này số lượng hợp đồng cũng như doanh thu phí bảo hiểm thu được với các đối tác trong nước quá ư là khiêm tốn. Tỷ trọng doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm kí với các doanh nghiệp nước ngoài thường chiếm hơn 90% doanh thu thu về từ nghiệp vụ.
Năm 1999 doanh thu phí thu được từ các hợp đồng kí với các doanh nghiệp trong nước là 24 triệu chiếm 4,75% trong tổng số phí thu được của nghiệp vụ trong khi số phí thu được từ các hợp đồng kí với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 95,24% doanh thu phí của nghiệp vụ tương đương với số phí thu được là 481 triệu.
Năm 2001 doanh thu phí từ các hợp đồng bảo hiểm kí với các doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài chiếm tới 97,21 % tổng phí nghiệp vụ thu được
Năm 2003 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp trong nước, nhưng doanh thu cũng chỉ dừng lại ở con số 68 triệu đồng chỉ chiếm chưa tới 6% doanh thu thu về từ nghiệp vụ, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh của một công ty lớn như Bảo Việt Hà Nội.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng doanh thu nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng lắp đặt đang có xu hướng giảm dần doanh thu thì do phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày một gay gắt của các công ty bảo hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu ngày càng tăng qua các năm triển khai. Điều này chúng tỏ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội trong tương lai. Bởi nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ bảo hiểm chưa được chú trọng ở thị trường bảo hiểm Việt Nam, phần lớn các công ty bảo hiểm khác chưa quan tâm chú ý tới nghiệp vụ bảo hiểm này nên Bảo Việt Hà Nội có thuận lợi lớn về yếu tố cạnh tranh.
Vậy tại sao, tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy và doanh thu của nghiệp vụ này lại chiếm một tỷ lệ cao trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử như tại công ty bảo hiểm “Berkshire (Mỹ) tỷ trọng doanh thu của bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy chiếm tới 9% trong tổng doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai”, tương đương với tỷ trọng doanh thu của các nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn ở Bảo Việt hiện nay như nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm cháy, hay như nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các nước phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp khó khăn ở thị trường Việt Nam như vậy là do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủquan.
Các nguyên nhân khách quan:
- Ngành bảo hiểm nói chung là một ngành còn khá mới ở Việt Nam khi đem so sánh với các ngành tài chính khác. Người dân Việt Nam hầu hết chưa biết sâu về bảo hiểm cũng như chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm Bởi thế, việc khai thác bảo hiểm nói chung đã gặp không ít khó khăn thì việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khó, trừu tượng như nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy còn gặp nhiều khó khăn hơn. Do đây là nghiệp vụ bảo hiểm khó với đặc điểm riêng có: là loại hình bảo hiểm phụ thuộc vào một loại hình bảo hiểm khác, mà cụ thể ở đây là loại hình bảo hiểm cháy.
- Không những thế ở Việt Nam hiện nay, tài liệu tham khảo hướng dẫn về nghiệp vụ bảo hiểm này hầu như không có, nếu có thì chỉ có những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra. Bởi thế, ngay cả cán bộ làm việc lâu năm trong ngành bảo hiểm cũng không tránh khỏi lúng túng khi phải tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm này. Do đó,việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội phần nhiều là dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác, nên chắc chắn khó tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình khai thác. Bởi bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có những đặc điểm riêng có mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác không có.
- Nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mang tính trừu tượng cao, khó triển khai. Còn nhiều khó khăn khúc mắc trong trong việc tính toán số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường. Thời gian giải quyết khiếu nại bồi thường kéo dài vì thiệt hại lợi nhuận gộp chỉ xác định được khi hết thời hạn bồi thường – khi doanh nghiệp trở về vị trí tài chính lẽ ra doanh nghiệp có thể có nếu không xảy ra hoả hoạn.
- Chủ doanh nghiệp chưa thực sự hiểu biết sâu về nghiệp vụ bảo hiểm này , chưa ý thức được sự cần thiết khách quan của nghiệp vụ bảo hiểm này. Nên họ không tham gia.
- Chi phí mua bảo hiểm sẽ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh , do vậy việc mua bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vậy họ không muốn tham gia, nếu tham gia thường chỉ tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc ở mức tối thiểu.
Các nguyên nhân chủ quan:
- Nghiệp vụ bảo hiểm này, ở Bảo Việt Hà Nội không được coi ngang hàng với các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác, do vậy nên công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được chú trọng. Không những thế, cán bộ công nhân viên cũng không chủ động tiếp cận khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Thậm chí chưa biết tận dụng hết các cơ hội khai thác có thể có trong khai thác. Thêm vào đó công tác chăm sóc khách hàng cũng chưa được quan tâm đúng mức nên có hiện tượng khách hàng năm trước tham gia nhưng năm sau không tiếp tục tái tụng mà lại tham gia ở một công ty bảo hiểm khác. Nói cách khác khâu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy hầu như không hề hoạt động. Dẫn tới nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy trở lên quá xa lạ đối với các chủ doanh nghiệp hoạt độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bảo hiểm kết hợp con người - thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ tại phòng bảo hiểm khu vực 6 - Chi nhánh Bảo Minh Hà Nộ.DOC