MỤC LỤC
Danh mục Bảng - Biểu đồ -Sơ đồ
Danh mục các từ viết tắt
Lời mở đầu 1
Chương I.Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn 3
I. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn 3
II. Lịch sử hình thành và phát triển của BHTNNN KTS & KSTV 6
III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV 8
1. Một số khái niệm liên quan 8
2. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm 13
3. Phạm vi bảo hiểm 14
3.1. Phạm vi được bảo hiểm 14
3.2. Các điểm loại trừ 16
4. Các điều khoản sửa đổi bổ sung 18
4.1. Mở rộng bảo hiểm hành động không trung thực của nhân viên 18
4.2. Mở rộng bảo hiểm mất tài liệu 18
4.3. Mở rộng bảo hiểm các cán bộ mới gia nhập/từ bỏ công ty (NĐBH) trong thời hạn bảo hiểm 19
4.4. Mở rộng bảo hiểm trách nhiệm đối với bên thứ ba 20
5. Giới hạn trách nhiệm bồi thường và phí bảo hiểm 20
5.1. Giới hạn trách nhiệm bồi thường 20
5.2. Phí bảo hiểm 23
6. Xác định rủi ro 30
7. Thời hạn bảo hiểm 33
8. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường 35
8.1. Giám định tổn thất 35
8.2. Giải quyết bồi thường 36
9. Một số điều kiện của Đơn bảo hiểm 38
IV. Một số kinh nghiệm trong triển khai BHTNNN KTS & KSTV trên thế giới 40
Chương II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội 41
I. Vài nét khái quát về bảo việt hà nội 41
1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức 41
2. Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây 43
3. Phương hướng hoạt động 45
II. Thực trạng triển khai BHTNNN KTS & KSTV tại Bảo Việt Hà Nội trong thời gian qua 46
1. Công tác khai thác 48
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 59
3. Công tác giám định và giải quyết bồi thường 60
4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ 63
Chương III. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại bảo việt hà nội 67
I. Tiềm năng thị trường BHTNNN KTS & KSTV 67
II. Một số đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện BHTNNN KTS & KSTV 67
1. Các giải pháp đối với Công ty 67
1.1. Phí bảo hiểm 67
1.2. Công tác khai thác 67
1.3. Công tác đánh giá rủi ro 67
1.4. Công tác giám định và giải quyết bồi thường 67
1.5. Công tác đào tạo cán bộ 67
2. Một số đề xuất kiến nghị đối với Nhà nước 67
Kết luận 67
Tài liệu tham khảo 67
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giám định đến hiện trường thực hiện công tác giám định. Do tính chất phức tạp và đặc điểm đặc thù của các công việc được bảo hiểm trong BHTNNN KTS & KSTV nên các công ty bảo hiểm thường phải thuê các giám định viên chuyên nghiệp.
Công việc của các giám định viên là phải xem xét, chụp ảnh hiện trạng tổn thất hoặc dấu hiệu có thể gây ra tổn thất, thu thập các số liệu xác định mức độ tổn thất; tìm hiểu nguyên nhân gây ra tổn thất. Trong trường hợp phát sinh thiệt hại về người hoặc dấu hiệu thiệt hại về người có khả năng thuộc phạm vi bảo hiểm, giám định viên sẽ phải xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người. Thực chất, giám định viên đi thu thập bằng chứng cũng như tài liệu để đề phòng trường hợp phát sinh khiếu nại thì NBH sẽ dùng những tài liệu này để bào chữa cho phần trách nhiệm phải chịu của NĐBH. Công tác giám định cần được tiến hành khẩn trương và chính xác, kết quả giám định có chứng nhận của nhân chứng để tạo điều kiện thuận lợi cho NĐBH sau này trong trường hợp có khiếu nại phát sinh.
8.2. Giải quyết bồi thường
Cơ sở của việc giải quyết bồi thường tổn thất của nghiệp vụ này là "Khiếu nại được lập", giống như các nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp khác. Vì thế, không phải cứ có tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm nghề nghiệp của NĐBH trong phạm vi bảo hiểm thì đã chắc chắn NBH phải giải quyết bồi thường, vì nếu không có khiếu nại thì NBH sẽ không phải thanh toán gì cả, tất nhiên kể cả chi phí tố tụng. Trên cơ sở có sự cố xảy ra gây tổn thất về vật chất, người hoặc mất lợi nhuận, khi có khiếu nại được lập, NBH sẽ thay mặt NĐBH bào chữa và/hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào trước toà án (nếu có) theo luật pháp áp dụng đã được ghi rõ trong Đơn bảo hiểm.
Dựa trên sự kết luận và phán xét của toà án, nếu NĐBH thừa nhận trách nhiệm thì NBH sẽ phải bồi thường căn cứ vào trách nhiệm liên đới về pháp lý đối với các tổn thất về người, tài sản và mất lợi nhuận theo các chi phí chủ yếu như sau:
Đối với thiệt hại về tài sản: chi phí phục hồi lại tài sản bị hư hỏng có thể sửa chữa, chi phí mua lại hoặc làm lại tài sản bị hư hỏng hoàn toàn, chi phí bù đắp khoản lợi nhuận bị mất của chủ đầu tư hoặc chủ thầu đối với việc sử dụng, khai thác các tài sản mà việc mất khả năng sử dụng này là do lỗi của KTS hoặc KSTV gây ra trong phạm vi công việc được bảo hiểm, đồng thời còn phải tính đến những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản.
Đối với thiệt hại về người, do xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người là một công việc phức tạp bởi tính mạng con người là vô giá, sức khoẻ con người cũng không thể xác định giá trị nên thiệt hại về tính mạng sức khoẻ con người chỉ có thể tính toán được nếu thống nhất trên một quan điểm, đó là dựa vào những hao phí vật chất để tạo điều kiện cho nạn nhân và gia đình họ có thể khắc phục được hậu quả, ổn định đời sống. Theo quan điểm như vậy, để xác định thiệt hại về người một cách tương đối chính xác và hợp lý trong trường hợp có thiệt hại về người thuộc trách nhiệm bồi thường, NBH sẽ bồi thường theo sự phán quyết của toà án theo các khoản chi cơ bản như sau:
- Trường hợp nạn nhân bị thương: các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng; các chi phí bồi thường thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
- Trường hợp nạn nhân bị chết: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết; chi phí mai táng; bồi thường hao hụt thu nhập hàng tháng của gia đình nạn nhân.
Khi tính thiệt hại về người chỉ tính đến những chi phí thực tế, hợp lý. Thu nhập của nạn nhân làm căn cứ để tính thu nhập bị mất hoặc giảm sút phải là thu nhập chính đáng, có tính chất thường xuyên, ổn định bao gồm cả thu nhập chính và thu nhập phụ.
Như vậy, toàn bộ chi phí giải quyết khiếu nại của NBH sẽ bao gồm chi phí tổn thất về người, tài sản và chi phí tố tụng.
Trong BHTNNN KTS & KSTV, thông thường khi giải quyết khiếu nại, NBH phải chú ý đến trường hợp chuỗi khiếu nại. Không chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm mà hiểm hoạ thiệt hại theo cả chuỗi là thuộc tính vốn có trong bảo hiểm liên quan đến nghề nghiệp kinh doanh. Chẳng hạn, một KTS hoặc KSTV có thể gây ra một chuỗi thiệt hại, có nghĩa là nếu mắc lỗi một lần trong việc thiết kế nhà cửa, lỗi này sẽ bị lặp lại trong mọi thiết kế; nếu một nguyên liệu không phù hợp đối với một số mục đích nào đó lại được tư vấn vài lần; hoặc nếu một lỗi số học bị lặp lại trong vài phép tính. Khi đó, chuỗi khiếu nại sẽ được coi như một sự cố và ngày tổn thất tương ứng sẽ được coi là ngày khiếu nại văn bản đầu tiên được lập để khiếu kiện NĐBH. Do đó, điều khoản về chuỗi khiếu nại cũng rất đáng chú ý khi cấp Đơn bảo hiểm.
Tóm lại, quá trình giám định cũng như giải quyết bồi thường phải được thực hiện theo đúng pháp luật và theo thoả thuận giữa các bên.
9. Một số điều kiện của Đơn bảo hiểm
Mặc dù đã có những quy định cụ thể về phạm vi bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm... nhưng để làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của các bên trong Hợp đồng bảo hiểm nhằm hạn chế khả năng xảy ra tranh chấp, đảm bảo cho việc thực hiện Hợp đồng bảo hiểm được thống nhất, người ta đưa ra những điều kiện bảo hiểm cho NĐBH và NBH thực hiện khi giải quyết các trường hợp như giải quyết khiếu nại, huỷ bỏ bảo hiểm hay phát sinh tranh chấp...
a. NĐBH không được thừa nhận trách nhiệm, giải quyết, thực hiện hay hứa hẹn thanh toán đối với bất kỳ khiếu nại nào có thể thuộc trách nhiệm của Đơn bảo hiểm hoặc bỏ ra bất kỳ chi phí nào có liên quan tới khiếu nại đó nếu chưa được sự đồng ý bằng văn bản của NBH. NBH có quyền tiếp nhận và nhân danh NĐBH thực hiện việc bào chữa và/hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào và để thực hiện được công việc này, NĐBH phải cung cấp mọi thông tin và trợ giúp thích hợp theo yêu cầu của NBH.
NBH sẽ không giải quyết bất kỳ khiếu nại nào nếu không được sự đồng ý của NĐBH. Tuy nhiên, nếu NĐBH không đồng ý với cách giải quyết mà NBH đã đề xuất mà thực hiện việc kháng nghị hoặc tiếp tục tiến hành kiện tụng thì trách nhiệm của NBH sẽ không vượt quá số tiền để giải quyết khiếu nại đó theo cách mà NBH đã đề xuất cộng thêm các chi phí mà NBH đã chấp nhận thanh toán phát sinh tính đến thời điểm mà NĐBH không nhất trí với cách giải quyết của NBH.
b. Mọi bất đồng liên quan đến việc diễn giải các điều khoản, điều kiện, giới hạn và/hoặc các điểm loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm sẽ được phân xử chỉ trên cơ sở luật pháp lãnh thổ được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. Hai bên thoả thuận đưa các bất đồng ra một toà án có thẩm quyền ở nước đó giải quyết và tuân thủ các yêu cầu cần thiết của toà án đó.
c. Nếu có bất kỳ khoản bồi thường nào được thanh toán theo Đơn bảo hiểm cho một khiếu nại thì sau đó NBH phải được chuyển giao lại mọi quyền hạn từ NĐBH để thực hiện các biện pháp nhằm làm giảm nhẹ tổn thất có liên quan đến khiếu nại đó.
d. Nếu NĐBH thực hiện bất kỳ khiếu nại nào trong khi biết khiếu nại đó là gian lận hoặc giả mạo về số tiền khiếu nại hoặc về những khía cạnh khác thì Đơn bảo hiểm này sẽ mất hiệu lực và mọi khiếu nại liên quan đến Đơn bảo hiểm sẽ không được giải quyết.
e. Đơn BHTNNN KTS & KSTV không tham gia đóng góp bồi thường với các hợp đồng bảo hiểm khác và sẽ chỉ bồi thường những tổn thất nào không được bồi thường bởi các Đơn bảo hiểm khác.
f. Bồi thường theo Đơn BHTNNN KTS & KSTV được thực hiện đối với:
- việc bồi thường theo phán quyết của một toà án có đủ thẩm quyền ở lãnh thổ được nêu trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
- các chi phí, phí tổn và các chi phí pháp lý đã phát sinh và có thể thu hồi lại được ở lãnh thổ được nêu rõ trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
g. Trong trường hợp không có quy định luật pháp nào của địa phương liên quan đến việc huỷ bỏ bảo hiểm, NĐBH có thể huỷ bỏ bảo hiểm vào bất kỳ thời điểm nào bằng cách thông báo bằng văn bản cho NBH. NBH hoặc đại diện cho NBH cũng có thể huỷ bỏ bảo hiểm bằng cách gửi thông báo huỷ bỏ bằng thư đăng ký hoặc các loại thư gửi nhanh khác đến địa chỉ của NĐBH ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm, trong đó nêu rõ khi nào việc huỷ bỏ có hiệu lực nhưng không dưới 30 ngày kể từ ngày thông báo. Việc chuyển thông báo qua thư như đã nói ở trên sẽ là bằng chứng đầy đủ của việc đã thông báo và bảo hiểm sẽ bị huỷ bỏ vào ngày giờ được nêu trong thông báo đó.
Nếu bảo hiểm bị NĐBH huỷ bỏ, NBH sẽ giữ lại số phí bảo hiểm cho thời gian bảo hiểm đã có hiệu lực tính theo biểu phí bảo hiểm ngắn hạn theo thông lệ mà NBH vẫn áp dụng.
Nếu bảo hiểm bị NBH hoặc người đại diện cho NBH huỷ bỏ, NBH sẽ hoàn lại cho NĐBH số phí được tính theo tỷ lệ tương ứng với thời gian bảo hiểm bị huỷ bỏ.
Nếu thời hạn hạn chế liên quan đến việc đưa ra thông báo nói trên bị bất kỳ quy định pháp lý nào kiểm soát việc xây dựng làm cho không có hiệu lực, thời hạn đó sẽ được điều chỉnh lại sao cho bằng với giới hạn thời gian tối thiểu mà quy định pháp lý đó cho phép.
IV. Một số Kinh nghiệm trong triển khai BHTNNN KTS & KSTV trên thế giới
ở bất kỳ đâu, nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV cũng chỉ có thể được triển khai rộng rãi nếu ngành xây dựng phát triển. Ngay cả khi hệ thống cơ sở hạ tầng của một nước nào đó đã khá hoàn thiện thì các nghề liên quan đến ngành xây dựng vẫn có rất nhiều việc để làm, bởi vì con người luôn luôn đòi hỏi có những tiện nghi hiện đại hơn, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của mình. Hiện nay, trên thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển, nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV đang được triển khai rất phổ biến. Tuy ra đời muộn so với các nghiệp vụ khác do yếu tố khách quan của tiến trình phát triển lịch sử nhưng bảo hiểm này cũng có tuổi thọ hơn 90 năm và đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của sự phát triển.
Hoạt động bảo hiểm thường rất phát triển ở những nước phát triển, đặc biệt là ở các nước châu Âu vì ở đó mọi hoạt động kinh tế xã hội đều được điều chỉnh bởi luật pháp một cách chặt chẽ khiến cho việc tuân thủ pháp luật được thực hiện nghiêm ngặt. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là bắt buộc và đến nay, nó đã trở thành thói quen của các cá nhân cũng như các doanh nghiệp.
Không chỉ ở nhiều nước châu Âu, mà ngay cả các nước châu á, trong đó có một số nước ASEAN cũng rất coi trọng vấn đề này. Ví dụ: ở Singapore, Trung Quốc, Thái Lan hay ở Malaysia, một công ty muốn được cấp giấy phép hành nghề dịch vụ thiết kế và tư vấn kỹ thuật, ngoài những chứng nhận về đăng ký kinh doanh, vốn tối thiểu, chứng chỉ hành nghề chuyên môn của giám đốc và nhân viên..., phải có thêm điều kiện là đã mua bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định.
Chương II
Tình hình triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại bảo việt hà nội
I. Vài nét khái quát về bảo việt hà nội
1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (tiền thân là Công ty Bảo hiểm Việt Nam) được thành lập theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965. Đến nay, Bảo Việt đã trở thành doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm đứng đầu ở Việt Nam.
Năm 1980, Công ty Bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 1125/QĐ - TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính, có tên gọi là Chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội và trực thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội, trụ sở đặt tại số 7 Lý Thường Kiệt - Hà Nội.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước có những chuyển mình căn bản, thị trường hàng hoá và thị trường vốn trong nước nói chung và Hà Nội nói riêng cũng trở nên sôi động đặt bảo hiểm thương mại trước yêu cầu mới trong sự nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 17/2/1989, Bộ Tài chính đã ra quyết định 27/TCQĐ - TCCB chuyển Chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội thành Công ty Bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội), trụ sở chính đặt tại 15C Trần Khánh Dư - Hà Nội.
Dưới đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội.
Sơ đồ 1- Cơ cấu tổ chức tại Bảo Việt Hà Nội
Giám đốc
Phó
giám đốc
Phó
giám đốc
Các phòng chức năng
P.
TH
P.
HC
-
QT
P.
QL
ĐL
P.
KT
-
TC
P.
M
P.
GĐ
-
BT
P.
TH
Các phòng nghiệp vụ
P.
HH
P.
C-
RR
HH
P.
RR
KT
P.
P
HH
P.
QP
Phòng đại diện tại các Quận, Huyện
(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)
Giám đốc là người điều hành cao nhất về toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty, giúp việc cho Giám đốc có 2 Phó Giám đốc.
Các phòng chức năng: Phòng Tổng hợp, Phòng Hành chính - Quản trị, Phòng Quản lý đại lý, Phòng Kế toán - Tài chính, Phòng Marketing, Phòng Giám định - Bồi thường, Phòng Tin học.
Các phòng nghiệp vụ: Phòng Hàng hải, Phòng Cháy và Rủi ro hỗn hợp, Phòng Rủi ro kỹ thuật, Phòng Phi hàng hải, Phòng Quốc phòng.
Theo cơ cấu tổ chức mới, song song với nhiệm vụ khai thác khách hàng, các phòng tại Công ty còn có chức năng quản lý và giám sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. 5 phòng nghiệp vụ cùng với phòng Marketing và 12 phòng đại diện tại tất cả các quận, huyện là các đơn vị trực tiếp tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm. Các phòng chức năng và phòng nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với nhau và cùng phối hợp với Ban Giám đốc thực hiện quản lý, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, đưa ra các quy định nghiệp vụ, đề ra các biện pháp, đối sách kịp thời với tình hình cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, Công ty còn có một hệ thống đại lý, cộng tác viên rộng khắp được quản lý thống nhất bởi phòng Quản lý đại lý.
Với mô hình tổ chức này, việc quản lý chung của Bảo Việt Hà Nội khá chặt chẽ về cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
2. Tình hình hoạt động kinh doanh những năm gần đây
Vài năm trở lại đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam có sự thay đổi cơ bản về chất, đó là do việc ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 và Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Trước tình hình đó, không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu và luôn nhanh nhạy trong kinh doanh, Bảo Việt Hà Nội xứng đáng là đơn vị cốt cán của Bảo Việt. Năm nào công ty cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Bảo Việt nói riêng và của ngành bảo hiểm nói chung.
Bảo Việt Hà Nội luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng Công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các phòng ban thuộc Tổng Công ty, lãnh đạo thành phố, các cơ quan ban ngành chính quyền địa phương. Đồng thời, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng Công ty đã nhận được sự cộng tác giúp đỡ tận tình của nhiều công ty tái bảo hiểm, công ty giám định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Munich Re, Swiss Re, Lloyd's, Commercial Union (UK), AIG, CIGNA (US), Tokyo Marine... Ngoài sự ủng hộ nói trên, đạt được thành quả như vậy chủ yếu là nhờ sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ, công nhân viên đã đổi mới nhiều mặt hoạt động, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong địa bàn thành phố, nhạy bén với tình hình, chủ động đề ra các biện pháp có hiệu quả trong việc tháo gỡ khó khăn, duy trì và mở rộng thị phần.
Biểu 1- Doanh thu phí của Bảo Việt Hà Nội qua 5 năm (1998-2002)
Triệu đồng
Năm
(Nguồn: Bảo Việt Hà Nội)
Qua biểu số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy doanh thu của Bảo Việt Hà Nội năm 1998 là rất cao, 87650 triệu đồng, nhưng sang đến năm 1999 doanh thu của Công ty giảm mạnh, chỉ còn bằng 84,58% doanh thu của năm 1998. Nguyên nhân chính làm giảm doanh thu toàn Công ty là sự tham gia thị trường bảo hiểm và mở rộng thị phần của nhiều doanh nghiệp phi nhân thọ như VIA (cấp giấy phép hoạt động năm 1996), UIC (1997), PTI (1998), Allianz-AGF (1999), BIDV-QBE (1999) làm cho thị phần của Bảo Việt phi nhân thọ giảm mạnh, trong khi các công ty này thì thị phần ngày càng lớn. Năm 1998 thị phần của Bảo Việt là 60,9%, năm 1999 chỉ còn 53,7%, năm 2000 thì con số này là 50,9%. Các công ty mới gia nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam đương nhiên sẽ xâm nhập vào những thị trường lớn như Hà Nội, Hải Phòng hoặc thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì thế, thị phần của Bảo Việt Hà Nội bị giảm, dẫn đến doanh thu giảm. Sau khi quen dần với tình hình cạnh tranh, doanh thu của Bảo Việt Hà Nội năm 2000, năm 2001 đã phục hồi đôi chút, tuy có tăng nhưng vẫn thấp hơn doanh thu năm 1998. Sang đến năm 2002, doanh thu của Bảo Việt Hà Nội đạt 95,102 tỷ đồng, bằng 107% mức kế hoạch mà Tổng Công ty giao cho, tăng 15,24% so với năm 2001 chứng tỏ Công ty đang từng bước đi đúng hướng và dần đạt được mục tiêu đã đề ra, thích nghi với môi trường kinh doanh mới.
Hiện nay, Bảo Việt Hà Nội đang triển khai hơn 40 nghiệp vụ bảo hiểm và nhìn chung đều đạt mức tăng trưởng về doanh thu phí qua các năm. Kết quả kinh doanh đã thể hiện được năng lực của Bảo Việt Hà Nội trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bất chấp những thách thức của thị trường. Những nghiệp vụ truyền thống như bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm toàn diện học sinh, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy... vẫn có mức doanh thu phí cao và tăng trưởng ổn định, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ doanh thu phí của toàn Công ty. Đó là do Công ty đã duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống và các cơ quan chức năng như Cục Thuế, Cục Đăng kiểm, Sở Giáo dục - Đào tạo, Ban Quản lý dự án xây dựng... Một vài nghiệp vụ bảo hiểm, chẳng hạn như bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm du lịch, tuy mới ra đời nhưng đã thể hiện ngay vai trò và ngày càng khẳng định sự cần thiết của mình thông qua số phí bảo hiểm thu được tăng đáng kể qua các năm. Một số nghiệp vụ mới triển khai khác doanh thu phí vẫn chưa đều. Điểm hạn chế này là do các phòng chưa thực sự dành thời gian nghiên cứu nên chưa nắm được các đầu mối khách hàng lớn, vấn đề chăm sóc khách hàng nhằm tái tục hợp đồng và việc quảng cáo các sản phẩm mới còn chưa được quan tâm.
Bên cạnh kết quả khai thác, công tác giám định giải quyết bồi thường nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu, tất cả các sự cố bảo hiểm đều được giám định kịp thời và đa số được giải quyết bồi thường nhanh chóng theo quy trình đảm bảo hỗ trợ tốt cho kinh doanh. Công ty đã phát hiện được nhiều vụ khách hàng gian lận bảo hiểm. Tuy nhiên, một số nghiệp vụ tỷ lệ bồi thường còn quá cao như: bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa năm 2002 (223%), bảo hiểm tai nạn con người năm 2002 (71,9%). Nguyên nhân của tình trạng này là chất lượng công tác giám định và đánh giá rủi ro còn kém, nhiều khi không được thực hiện đúng quy trình.
Các mặt công tác khác như: công tác tổng hợp, đào tạo, công tác kế toán- tài chính đã từng bước được cải thiện đáng kể.
3. Phương hướng hoạt động
Năm 2003, nền kinh tế các nước cũng như Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mặc dù chịu ảnh hưởng của các vấn đề bất lợi về kinh tế - chính trị - xã hội trên thế giới. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có điều kiện thuận lợi bởi vì bảo hiểm bao giờ cũng phát triển khi kinh tế phát triển. Trong điều kiện hoạt động kinh doanh tại thủ đô, một trong những thành phố các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động nhất, Bảo Việt Hà Nội có lợi thế trong mối quan hệ với các cơ quan đầu não, các Bộ, các ngành, lại có thể nhanh chóng nắm bắt được các chính sách, quy định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm cũng sẽ ác liệt hơn do sự ra đời của các công ty mới và mở rộng giấy phép kinh doanh của các công ty liên doanh và các công ty nước ngoài sẽ cùng với các công ty trong nước tham gia tích cực vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài cũng chưa có chiều hướng tăng mạnh mặc dù Chính phủ đã cho phép các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng phạm vi kinh doanh.
Thời gian tới, Bảo Việt Hà Nội tiếp tục nghiên cứu và triển khai một số nghiệp vụ mới như BHTN nghề nghiệp luật sư, BHTN thầy thuốc, bảo hiểm chi phí y tế và vận chuyển y tế cấp cứu cũng như BHTNNN KTS & KSTV. Bảo Việt Hà Nội cũng sẽ tăng cường khai thác bảo hiểm cháy cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở thực hiện luật phòng cháy chữa cháy, khai thác bảo hiểm du lịch, bảo hiểm học sinh, BHTN dân sự đối với xe máy.
Quán triệt định hướng kinh doanh năm 2003 của Bảo Việt"Đổi mới, tăng trưởng và hiệu quả", Công ty đã đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2003 như sau:
- Doanh thu phấn đấu: 115 tỷ đồng.
- Hiệu quả đạt: 20 tỷ đồng.
- Tăng trưởng so với năm 2002: trên 15%.
- Thu nhập bình quân đầu người tăng: 7%.
Để đạt được kế hoạch nêu trên, nhiệm vụ mà Bảo Việt Hà Nội đề ra là áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ ở tất cả phòng, trong tất cả các hoạt động, từ marketing, khai thác, giám định bồi thường đến đào tạo cán bộ và đại lý... Cụ thể: tiếp tục duy trì khách hàng cũ, đặc biệt là khách hàng lớn, thực hiện tốt dịch vụ bảo hiểm, đẩy mạnh khai thác các khách hàng mới, chú trọng vào các cơ quan Bộ, Ngành, Tổng Công ty; duy trì tốt mối quan hệ với các đầu mối như Phòng Cảnh sát giao thông, Cục Thuế Hà Nội, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Sở Giáo dục đào tạo, Sở Du lịch Hà Nội, Ban Quản lý dự án... để khai thác triệt để các nghiệp vụ bảo hiểm.
II. Thực trạng triển khai BHTNnn kts & kstv tại Bảo Việt Hà Nội trong thời gian qua
Như đã nói ở trên, BHTNNN KTS & KSTV mới ra đời được chưa đầy 2 năm, là một trong những nghiệp vụ mới nhất được triển khai ở Bảo Việt cũng như ở Việt Nam hiện nay. Khi đưa ra công văn thông báo về việc triển khai nghiệp vụ này cho các công ty thành viên, Tổng Công ty đã xác định thời gian đầu triển khai chủ yếu là nhằm đúc kết được nhiều kinh nghiệm, cũng như xác định được những đặc trưng của thị trường Việt Nam liên quan đến nghiệp vụ này để áp dụng mẫu Đơn bảo hiểm của Munich Re vào điều kiện của nước ta một cách linh hoạt. Sau một thời gian nghiên cứu, năm 2001 Bảo Việt mới có quyết định cho phép triển khai, nên đến năm 2002 vừa qua, những Đơn bảo hiểm đầu tiên thuộc loại hình này mới được cung cấp bởi Bảo Việt Hà Nội. Tại Bảo Việt Hà Nội, nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV do Phòng bảo hiểm rủi ro kỹ thuật quản lý. Tất cả các phòng nghiệp vụ và các phòng bảo hiểm quận, huyện đều có thể tham gia triển khai nghiệp vụ này theo sự quản lý, hướng dẫn và giám sát của Phòng bảo hiểm Rủi ro kỹ thuật. Nếu có gì vướng mắc trong quá trình triển khai thì có thể xin ý kiến của Phòng Bảo hiểm Cháy và Rủi ro kỹ thuật tại Tổng Công ty.
Để triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này, Bảo Việt Hà Nội quan tâm đến tất cả các khâu trong quy trình triển khai sản phẩm. Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, quy trình triển khai sản phẩm BHTNNN KTS & KSTV bao gồm các khâu cơ bản sau:
- Khai thác
- Đề phòng và hạn chế tổn thất
- Giám định và giải quyết bồi thường.
Ba khâu này không phải độc lập hoàn toàn với nhau mà chúng có mối liên hệ tác động qua lại. Mỗi khâu có vị trí và vai trò độc lập nhưng chúng đều góp phần đem lại kết quả cho hoạt động kinh doanh nghiệp vụ. Nếu một khâu được thực hiện tốt thì nó sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện các khâu còn lại có hiệu quả và ngược lại. Chẳng hạn, nếu làm tốt khai thác thì sẽ đem lại doanh thu phí bảo hiểm cao, mở rộng được số đối tượng tham gia bảo hiểm, từ đó có cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, dẫn đến giảm mức độ rủi ro có thể gây ra tổn thất phải bồi thường. Nhưng nếu việc đề phòng hạn chế tổn thất không hiệu quả hoặc chất lượng giám định và giải quyết bồi thường thấp làm cho chi bồi thường quá lớn thì dù khai thác có đạt doanh thu cao lợi nhuận cũng không cao.
Để phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV tại Bảo Việt Hà Nội, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng khâu để thấy được những kết quả mà Công ty đã đạt được trong thời gian qua cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của nó, trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá về quá trình triển khai sản phẩm bảo hiểm này.
1. Công tác khai thác
Khai thác là khâu đầu tiên của quy trình triển khai một sản phẩm bảo hiểm, đóng vai trò tiền đề và là cơ sở cho toàn bộ quá trình kinh doanh sản phẩm bảo hiểm đó. Giải quyết nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh tế bảo hiểm, đó là nguyên tắc "số đông bù số ít", khai thác có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của toàn bộ Công ty nói chung và từng nghiệp vụ nói riêng vì chỉ có khai thác được một số lượng lớn hợp đồng cùng với số phí bảo hiểm lớn thì mới tạo lập được quỹ tài chính tập trung đủ lớn để bồi thường hoặc chi trả khi có thiệt hại phát sinh, ngoài ra còn trang trải được các chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu quả của khai thác được đánh giá thông qua chỉ tiêu số lượng Đơn bảo hiểm ký được, số phí bảo hiểm thu được, và một số chỉ tiêu khác.
Đối với nghiệp vụ mới như BHTNNN KTS & KSTV thì khai thác lại càng có ý nghĩa vì khai thác là nền móng của một nghiệp vụ bảo hiểm. Nếu không có khách hàng nào mua bảo hiểm thì đối tượng chịu tác động của hai khâu còn lại cũng không thể có. Điều đó có nghĩa là sản phẩm được bày bán ra nhưng không có ai mua, như thế sản phẩm sẽ không có chỗ đứng trên thị trường và không thể tồn tại.
Theo sự quản lý của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, Bảo Việt Hà Nội thời gian này được phép thực hiện ký kết các hợp đồng BHTNNN KTS & KSTV có giá trị không quá lớn. Cụ thể, những đối tượng sau
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100855.doc