Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc 450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh (hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng của lõi là 12 cm; cao 7 cm. Mỗi chân thớt rộng 4 cm. Mặt thớt dày 13 cm. Chân thớt có tác dụng làm cho thớt được vững chãi hơn, khi thao tác sẽ không bị ngả nghiêng do gặp đất lồi lõm.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn phải đo và đánh dấu các điểm đặt cấu kiện. Các cấu kiện được lắp ráp với khung bằng kỹ thuật chui mộng (trxâux). Trên thân khung có 3 cặp mộng đối xứng. Trong đó, hai đôi mộng trên và dưới dùng để lắp hai thanh ngang có tác dụng làm vật giằng cho thân khung. Đôi mộng ở giữa là để người ta lắp giá đỡ trục cuốn sợi. Theo cách tính truyền thống. Cặp mộng dưới cùng được đánh dấu ở điểm cách đất ≈ 6 – 7 cm. Cặp mộng trên cùng được đánh dấu ở điểm cách đỉnh ≈ 4 – 5 cm. Cặp mộng ở giữa cách cặp mộng dưới cùng 55 cm và cách cặp mộng trên cùng 80 cm. Sau khi đã đánh dấu, người ta dùng búa và đục để đục lỗ mộng (trxâux khaor). Lỗ mộng ở thân khung dệt của người Mông thường có tiết diện 2 x 5 cm. Chiều sâu của lỗ mộng phụ thuộc vào chiều dầy của thân khung (≈ 5 cm).
Giá đỡ trục cuốn sợi cũng được làm cùng loại gỗ với thân khung dệt. Giá đỡ gồm có 2 thanh gỗ dài 30 cm, đầu lượn tù tròn và thuôn nhỏ dần về cuối (Phần đầu rộng 7 cm; phần cuối rộng 5 cm; dầy 1,8 cm) được dóng từ thân khung (bằng kỹ thuật chui mộng). Phía đầu mỗi thanh có 1 lỗ tròn tạo thành cặp lỗ đối xứng để lắp thanh ngang. Mỗi lỗ có đường kính 3 cm. Tâm lỗ tròn cách đầu thanh ngang ≈ 4 cm, cách cạnh trên và cạch dưới đều ≈ 2 cm. Một bộ phận nằm trên giá đỡ trục cuốn sợi nhưng lại có chức năng tác động đến dây kéo cần nâng sợi chính là thanh ngang. Vì chức năng của thanh ngang là làm mốc giữ cho dây kéo cần nâng sợi ở khoảng cách hợp lý để không bị vướng vào sợi trong quá trình thao tác. Vì thế, người ta phải chế tác sao cho khi lắp đặt và vận hành, thanh ngang có thể quay trơn tru khi dây kéo cần nâng sợi trượt qua trượt lại (do tác động của lực kéo của chân). Thanh ngang có hình trụ tròn dài (dài 50 cm; đường kính 4 cm). Hai đầu thanh ngang được gọt dũa tạo thành 2 ống trục (đường kính ≈ 2 cm; dài 2 cm) để lắp vào hai lỗ tròn của hai thanh dọc dóng ra từ thân khung dệt.
3.2.2. Trục cuốn sợi (chênhx ntus)
Trục cuốn sợi có chức năng để giữ sợi trên khung dệt. Khi muốn mắc sợi vào khung, người phụ nữ Mông sẽ phải đặt sợi vào bộ phận này trước. Kỹ thuật lắp sợi (không kể đến số sợi) được thực hiện theo phương pháp cuộn tròn từ trong ra ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ để khi lắp xong, làn sợi dọc sẽ quay ra phía ngoài khung dệt. Đồng thời, ở mỗi tầng sợi, người ta phải lắp các cặp phân cách để tách các phần sợi không cho chúng rối vào nhau (một thanh đặt trên, một thanh đặt dưới điểm trung tâm là lõi trục).
Với kỹ thuật lắp sợi như trên. Bộ trục cuốn sợi sẽ có cấu tạo và kỹ thuật chế tác sao cho thích hợp. Trục cuốn sợi do đó sẽ có 2 bộ phận chủ yếu. Đó là lõi trục và các thanh phân cách.
Lõi trục cuốn sợi là một miếng gỗ có hình chữ H chạy dài theo chiều ngang làm cho nó được phân thành 3 đoạn rõ rệt. Lõi trục cuốn sợi có kích thước: dày 3 cm; rộng 5 cm, dài 75 cm. Chiều dài được chia đều cho 3 đoạn, mỗi đoạn dài 25 cm.
Các thanh phân cách ở trục cuốn sợi được làm đơn giản. Do đây chỉ là những cấu kiện tạm thời, dễ dàng thay thế nếu cần nên chúng chỉ được làm bằng các thanh tre hoặc cành que nhỏ to cỡ bằng một ngón tay. Mỗi thanh phân cách có chiều dài ≈ 27 – 28 cm. Do kỹ thuật xếp sợi ngang nêu trên nên trên trục cuốn sợi có bao nhiêu tầng sợi thì sẽ có bấy nhiêu cặp thanh phân cách.
3.2.3. Bộ cần nâng sợi (gangz ntus)
Cần nâng sợi có chức năng tách một tầng sợi để cho chúng tách xa ra khỏi tầng sợi còn lại trong quá trình vận hành của khung dệt, tạo điều kiện thuận lợi cho con thoi chạy qua chạy lại xen vào giữa hai làn sợi dọc để đưa sợi ngang đan đi đan lại liên tục thay đổi trình tự lượt trên - lượt dưới để tạo thành tấm vải (kỹ thuật đan theo lóng). Cần nâng sợi được cấu tạo bởi 04 thanh gỗ mỏng ghép lại với nhau bằng kỹ thuật chui mộng và được ghép với thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây (khi khlôz).
Giữ ở vị trí trung tâm là một thanh gỗ cùng một loại gỗ với khung dệt. Miếng gỗ này có dày hay mỏng, tròn hay dẹt đều được. Chiều dài của nó thường là 41 cm. Ở giữa thanh ngang, người ta đục một lỗ mộng để lắp cần giật. Cách lỗ mộng cần giật đều về hai bên 11 cm, người ta đục 2 lỗ mộng khác để lắp 2 cần nâng.
Cần nâng và 2 cần nâng sợi có hình dáng, kích thước tương đối giống nhau. Chúng cũng được làm bằng cùng một loại gỗ với khung dệt. Về hình dáng, chúng có dạng mỏng, dẹt. Phần đáy nở to và thuôn nhỏ dần về phía trước. Đầu cần được đẽo gọt cho nở to ra tạo thành hình tròn hoặc bầu dục (tính tương đối) tạo thành đầu khấc có tác dụng như một mắt khoá để ngăn không cho dây buộc tuột ra trong quá trình vận hành. Về kích thước, mỗi chiếc cần có chiều dài khoảng 20 – 22 cm (có khi chiều dài của chúng lên tới 25 – 26 cm), dầy 1 cm. Phần đáy nở to ≈ 3 cm, càng về phía trước càng thuôn nhỏ dần. Sát với đầu khấc, thân cần nhỏ chỉ còn ≈ 1,2 cm. Ở đầu khấc, bề mặt của nó bất chợt nở rộng, đoạn phình nhất ≈ 2 cm.
Sau khi đẽo, gọt và lắp ghép với nhau, người ta lắp bộ cần nâng sợi vào thân khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây. Dây buộc được bố trí ở hai đầu thanh gỗ mỏng, dẹt tạo thành hai đầu buộc đối xứng. Một đầu dây nối với thanh gỗ dẹt của bộ cần nâng sợi; đầu dây còn lại được buộc vào thân thanh gỗ giằng ngang phía trên thân khung dệt. Người ta phải buộc sao cho độ dài - ngắn của hai dây ở hai đầu bằng nhau. Điều này có tác dụng làm cho bộ cần nâng sợi có được tư thế thăng bằng, không bị nghiêng, không bị lệch.
Ở đầu cần giật, người ta buộc vào đó đầu của đoạn dây kéo cần nâng sợi. Dây kéo cần giật thường được làm bằng song hoặc mây (Ngày nay, người ta thay bằng dây ni lông). Dây có chiều dài ≈ 1,7 m. Một đầu dây được buộc với cần nâng. Thân dây được luồn từ cần nâng cho chạy xuống dưới – phía đằng sau thân khung, qua thanh trượt – thanh ngang đặt ở giá đỡ trục cuốn sợi rồi chạy luồn xuống dưới khung dệt. Đầu dây còn lại được buộc lại tạo thành vòng để xỏ vào chân người dệt tạo thành chức năng như một bàn đạp.
Ở đầu hai cần nâng, người ta buộc vào đó hai đoạn dây ngắn - gọi là dây nâng sợi. Dây này cũng được làm từ chất liệu truyền thống nhưng nhỏ hơn dây kéo cần nâng sợi. Dây nâng sợi to cỡ bằng chiếc đũa hoặc có thể nhỏ hơn một chút. Khi được buộc vào cần và lược chia sợi, mỗi đoạn dây nâng sợi có chiều dài ≈ 25 cm. Đặc biệt, hai đoạn dây nâng cần phải bằng nhau tuyệt đối. Có như vậy thì chúng mới có thể kéo cho lược chia sợi nâng lên hay hạ xuống đều được ở cả hai bên, các làn sợi nhờ đó mà được tách đều, không bị nghiêng, không bị lệch, con thoi vì thế cũng chạy qua chạy lại được dễ dàng hơn.
3.2.4. Cái dập sợi (duôx)
Cái dập sợi còn có thể gọi là lược dập sợi bởi trong thành phần cấu tạo của chúng có các nan khít đều nhau trông giống như răng lược. Cái dập sợi trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát có 2 loại phân biệt theo số nan và kích thước. Loại nhỏ dùng để dệt loại khổ vải 15 – 20 cm và loại to dùng để dệt khổ vải 25 – 30 cm. Ngoài ra, cấu tạo của chúng đều giống nhau. Cụ thể như sau:
Cái dập sợi gồm có 4 bộ phận hợp thành. Quan trọng nhất trong số đó là các nan chia sợi dọc. Thông thường, một cái dập sợi có 154 nan (loại nhỏ) và 166 nan (loại to). Nan được chế tác từ cật tre già nên có độ cứng khá cao. Trong quá trình sử dụng, các sợi dọc trượt qua trượt lại mài một lực ma xát vào các nan chia sợi tạo nên một độ thâm bóng rất đẹp mắt. Càng dùng nhiều và lâu, độ thâm bóng càng lớn. Mỗi chiếc nan có chiều dài 9 cm (loại nhỏ) và 10 cm (loại to); tiết diện 0,5 x 2 mm. Khi lắp vào cái dập sợi, mỗi thanh nan cách đều nhau 1 mm.
Để giữ các nan dập sợi, người ta dùng một thanh tre không quá già nhưng cũng không dùng tre non để cho nó không bị mềm nhưng cũng không bị giòn. Người ta chẻ đôi ở giữa thanh tre - chẻ dọc ra hai đầu (mỗi đầu để lại 1 đoạn ≈ 3 – 4 cm không chẻ). Người ta luồn chân nan chia sợi vào khe thanh tre kẹp, lần lượt từng nan một. Luồn đến đâu, người ra dùng một loại dây rừng nhỏ như sợi chỉ nhưng rất dai (nay người ta sử dụng dây gai dệt công nghiệp) buộc ép chặt chân nan theo kiểu buộc xoắn sợi (giống như kiểu thùa khuyết). Cứ như vậy cho đến hết thì sợi dây sẽ được buộc thắt lại cho chắc rồi cắt bỏ đầu dây thừa. Sau đó, người ta lại thao tác tiếp với đầu chân nan bên kia với kỹ thuật và trình tự như vậy.
Khi hai đầu chân nan đã được kẹp chắc vào hai thanh tre nhỏ, người ta lấy hai dóng trúc đường kính 2 cm (loại nhỏ) và 2,5 cm (loại to); dài 34 cm (loại nhỏ) và 41 cm (loại to). Ở mỗi thanh, người ta chẻ dọc từ một đầu dóng trúc thành một đường rãnh rộng khoảng 0,5 cm chạy suốt dọc thân dóng trúc đến cách đầu bên kia khoảng 3 – 4 cm thì dừng lại. Đường rãnh này dùng để lắp (luồn) thanh kẹp các chân nan chia sợi (mỗi dóng trúc kẹp một đầu chân nan) là hoàn thành. Có người trong quá còn dùng dây buộc cố định đầu khe của hai dóng trúc để không cho chúng rơi ra.
3.2.5. Trục cuốn vải (chênhx ntux)
Trục cuốn vải trong bộ khung dệt truyền thống của người Mông ở Cát Cát có tác dụng cuốn giữ những đoạn vải vừa được dệt xong và chờ để cuốn tiếp vào đó những đoạn vải sẽ còn tiếp tục được dệt. Trục cuốn vải có cấu tạo gọn nhẹ. Chất liệu tạo thành là tre (jôngz). Kỹ thuật chế tác do đó cũng rất đơn giản. Trục này được làm từ 2 thanh tre với chiều dài 39 cm, bề ngang 5 cm, dầy 1,5 cm. Nó vốn được chẻ ra từ một thân tre nhỏ (đường kính khoảng 6 – 7 cm), được gọt bỏ những phần xù xì của đốt tre làm cho thân ngoài thanh tre đạt được độ thẳng mịn cần thiết. Tiếp đó, người ta lại gọt lược bớt bề dầy ở phía phần bụng thân tre. Hai đầu mỗi thanh tre này được vót cho thuôn nhỏ về phía trước với đường lượn khá gấp, độ cong lớn cộng thêm chiều dài của đoạn lượn không lớn (9 cm) làm cho nó có hình dạng hơi thiên về hình dạng nhọn. Sau khi đẽo, gọt xong, để lắp vào khung, người ta áp bụng hai nửa thanh trục cuốn vải lại với nhau rồi cuốn vải xung quanh theo hướng ngược chiều kim đồng hồ (cuốn từ trên xuống dưới).
3.2.6. Đai buộc lưng (hluô san ntus)
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát được làm từ da trâu (tơưr nhưngx) hay da bò (tơưr nhưngx đăngk). Người Mông ở Cát Cát trước đây thường hay sử dụng da trâu hay da bò để chế tác ra nhiều công cụ phục vụ lao động, sản xuất và một số công cụ phục vụ các hoạt động sinh hoạt văn hoá – xã hội khác (VD: làm mặt trống, mặt tấm trượt chuyên trở hàng trên các bề mặt địa hình phức tạp, lồi lõm; làm bao da, dây kéo.v.v…).
Trước đây, cứ mỗi lần mổ một con trâu hay một con bò trưởng thành (từ hơn 4 năm tuổi trở lên), đồng bào thường thuộc da để dùng (người ta không dùng da của những con chưa trưởng thành vì da của chúng chưa đủ “độ chín”, sẽ mỏng và không dai, không bền). Chỗ da được lấy thường từ cổ đến sát 4 đùi. Nói cách khác là đồng bào sử dụng phần da lưng và da bụng của con trâu, con bò đã trưởng thành để thuộc. Tấm da sau khi được lột ra sẽ được kẹp vào 6 đôi thanh cật tre già (1 đôi gồm có 2 thanh cật tre già đã bổ dọc từ 1 thân cây tre đã được gọt và chuốt cho thật nhẵn, phẳng đều đặt nằm úp vào nhau: một thanh đặt nằm ngửa ở dưới, một thanh đặt nằm úp ở trên, tấm da được đặt kẹp vào giữa). Trong đó, 4 đôi thanh tre được đặt nằm vây xung quanh có tác dụng đóng thành khung và 2 đôi thanh tre được đặt nằm bắt chéo với nhau tạo thành hình dấu nhân (X) ở trong lòng khung để tăng thêm độ chắc chắn. Các đôi thanh tre được ghim lại với nhau bằng chốt tre (chal jôngz). Mỗi chốt tre cách nhau khoảng 1 gang tay (≈ 22 – 24 cm) để đảm bảo cho khung giằng có thể chịu đựng được khi tấm da khi co lại.
Tấm da sau khi được căng sẽ được phơi nắng. Hôm nào không có nắng, người ta mang vào nhà dựng ở góc bếp lò để nhiệt của bếp lò giữ cho tấm da không bị thối. Nếu nắng to, thời gian phơi tấm da là 2 ngày. Nếu nắng vừa, thời gian phơi tấm da từ 4 – 5 ngày là được.
Tấm da sau khi phơi đủ nắng sẽ được tháo ra khỏi 6 đôi thanh tre nẹp, cuộn tròn lại để lên gác phía bên có bếp nấu cơm để bảo quản. Khói bếp sẽ làm cho tấm da bền hơn, tránh được sự tấn công của các loài sinh vật nhỏ và sự phát sinh, phát triển của các loài vi sinh. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại Đội I thôn Cát Cát thì một tấm da khi đã được thuộc và bảo quản như vậy sẽ không bao giờ bị hỏng.
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát xưa kia được làm bằng loại da kiểu như vậy. Mỗi khi cần dùng, người ta mang tấm da xuống rải ra cắt lấy một hay vài miếng (tuỳ theo nhu cầu sử dụng). Vị trí cắt thì không có quy định cụ thể, nhưng thường được cắt ở sát ngoài rìa cạnh của tấm da. Kích thước của mỗi tấm đai như vậy thường dài 38 cm; rộng 8 – 10 cm; độ dày phụ thuộc vào độ dày của tấm da. Hai đầu đai có thể được cắt lượn tròn hoặc cắt vuông góc (tạo thành 4 góc 450) đều được. Hai đầu đai được dùi 4 lỗ thủng (mỗi đầu 2 lỗ) dùng để sâu dây buộc gắn đai với hai đầu của trục cuốn vải. Khi khung dệt “nghỉ”, một đầu dây này có thể tháo ra hay để nguyên trạng thái buộc đều được. Nhưng khi người phụ nữ Mông bắt đầu dệt vải, người ta phải tháo một đầu dây để luồn đai qua sau lưng rồi buộc lại vào đầu trục cuốn vải. Khi người dệt vải ngồi xuống, người ta sẽ điều chỉnh cả ở trục cuốn vải, trục cuốn sợi và vị trí ngồi khiến cho làn sợi dọc căng ra. Tấm đai buộc lúc này cùng với lưng người ngồi dệt có tác dụng góp phần làm căng sợi dọc để có thể thực hiện thao tác dệt vải.
3.2.7. Thoi dệt (goz)
Thoi dệt của người Mông ở Cát Cát thường được làm bằng loại gỗ dẻo, khó vỡ như gỗ dâu (nhăngz) hoặc gỗ cây xương cá (đông đangk); trong đó gỗ xương cá vàng ít được ưa chuộng hơn vì nó nặng, làm cho người thao tác nhanh mỏi tay. Việc chọn gỗ làm khung dệt của họ rất cầu kỳ. Gỗ phải được lấy từ một đoạn cây to, thẳng, ít thớ và đặc biệt là không có mắt gỗ. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại đội I, thôn Cát Cát (một trong 4 người thành thạo nghề mộc tại thôn Cát Cát) thì có khi hạ cả một cây dâu xuống mà không chọn được một đoạn gỗ nào để làm thoi dệt vì nhìn bên ngoài thì to nhưng bổ ra thấy nhiều thớ quá. Ông Sử còn cho biết, do thoi dệt phải khoét lòng rộng, thành mỏng nên nếu thớ nhiều thì sau một thời gian sử dụng, con thoi sẽ bị cong, vênh do thớ gỗ co ngót. Còn nếu gặp mắt gỗ thì sẽ hỏng ngay từ khâu chế tác, bởi thành con thoi chỉ dày có 1 cm và cứ thế chạy dài tới 30 cm nên nếu gặp mắt gỗ sẽ không thể đẽo được cho phẳng, nhẵn; mà nếu có cố đẽo thì trong quá trình sử dụng con thoi cũng sẽ bị vỡ do mắt gỗ rời ra khỏi thân gỗ.
Con thoi dệt của người Mông ở Cát Cát có hình dáng và kích thước như sau:
Nếu quay “cửa buồng thoi” (nơi để tra suốt sợi vào) lên trên thì con thoi có hình dạng như một cái thuyền có khoang. Do đó, thoi có 3 đoạn (1 khoang giữa và 2 đoạn đầu).
Hai đoạn đầu được gọt nhẵn, mỏng, nhọn đầu với chiều dài mỗi đoạn 9 cm. Cạnh trên bằng. Cạnh dưới lượn cong. Càng vào trong, thân thoi càng to. Càng lên trên, thân thoi càng dày. Đến khoảng cuối – nơi giáp với buồng thoi thì thân thoi có chiều rộng 6 cm, dày 3 cm. (Dạng vát mỏng chạy suốt dọc cạnh dưới của thoi). Hai đầu thoi có tác dụng “mở đường” cho con thoi chạy qua chạy lại giữa hai làn sợi dọc.
Buồng thoi là nơi chứa suốt sợi nên được có dạng phình đều (rộng ở giữa và hẹp về hai đầu). Vành ngoài buồng thoi dài 29 cm; rộng 6 cm. Vành trong buồng thoi dài 23 cm; rộng 4 cm. Thành buồng thoi dày 1,5 cm phía đầu cạnh dọc; và 1 cm phía đầu cạnh ngang. Lòng buồng thoi sâu 6 cm. Lòng buồng thoi có dạng thon nhỏ dần về dưới. Ở cửa buồng thoi, chiều ngang là 6 cm. Đến đáy buồng thoi, chiều ngang chỉ còn ≈ 2 cm. Ở hai thành ngang của buồng thoi, người ta khoan 1 cặp lỗ nhỏ đối xứng ở 2 thành ngang của thân buồng thoi. Mỗi lỗ cách cửa buồng thoi 1 cm, đường kính mỗi lỗ 2 mm (những con thoi đã qua sử dụng lâu ngày, lỗ có thể rộng ra thành 3 mm). Lỗ này để người ta xuyên sợi từ con suốt sợi ở trong lòng buồng thoi ra ngoài để chạy sợi ngang.
Các bộ phận trên khi liên kết với nhau rồi còn cần phải có người ngồi vào vị trí dệt, đeo dây qua lưng và trở thành một bộ phận của khung dệt thì khung dệt mới có thể hoạt động được.
3.3. Cơ chế vận hành
Với loại khung dệt này, độ căng của sợi dọc được tạo ra bằng cách cuốn thành nhiều vòng vào trục cuốn sợi. Trục này được đóng vào giữa hai cột cao khoảng 150 cm bằng tre hoặc gỗ. Đầu bên kia của sợi dọc được buộc vào trục cuốn vải. Khi dệt, người phụ nữ Mông ngồi vào nghế, lấy dây buộc lưng khi đó đã được buộc một đầu vào trục cuốn vải, dùng thân người để căng sợi dọc. Vải dệt đến đâu được cuộn tròn vào trục cuốn vải đến đó. Để luồn sợi ngang qua sợi dọc nhanh hơn, người Mông sử dụng một bộ nâng sợi dọc, gồm hai cái cần tác sợi hay còn được gọi là trục go được làm bằng tre, cứ cách một sợi dọc lại buộc một sợi dọc vào một sợi dây nối với một trục go, các sợi còn lại được buộc vào trục go kia. Để làm cho cơ cấu nâng sợi dọc này chuyển động, người phụ nữ Mông dùng một sợi dây vải hoặc dây mây, dây vải buộc từ trục go xuống chân người dệt. Khi chân người dệt kéo sợi này chuyển động về phía sau sẽ làm cho trục go nối với nó được nâng lên hay hạ xuống tạo ra một khoảng trống cho sợi ngang chạy qua. Để làm cho các sợi ngang khít lại với nhau, người ta dùng cái dập sợi đẩy sợi dồn xuống dưới sát với sợi ngang vừa được đan qua lúc trước. Vì vậy, mặc dù chưa đóng thành bàn đạp nhưng với cấu tạo dùng dây buộc vào chân thay bàn đạp như trên, loại khung dệt này của người Mông còn được gọi là loại khung dệt đạp (giống với tên gọi loại khung dệt của người Thái, người Mường hay người Việt). Để đưa sợi ngang luồn qua sợi dọc, người ta cuốn sợi vào từng suốt nhỏ, sau đó để suốt sợi vào bên trong con thoi làm bằng gỗ để có thể dễ dàng trượt qua khoảng trống giữa các sợi dọc một cách nhanh chóng. Vải được dệt thưa hay mau là phụ thuộc vào số răng của go – nơi sợi dọc phải chạy qua từ trục cuốn sợi đến trục cuốn vải.
Người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào lưng để làm căng sợi dọc, chân buộc vào dây nối với cơ cấu nâng sợi, họ trở thành một bộ phận của khung dệt. Trong khi dệt, người phụ nữ dùng chân điều khiển dây nối. Khi kéo dây về phía sau, cần tách sợi sẽ tách hai luồng sợi làm đôi tạo một khoảng trống để đưa thoi vào, dùng lực nén dập cho các sợi khít lại với nhau. Khi thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên để trở lại thế ban đầu.
4. Bộ công cụ tạo màu sắc và hoa văn trên vải
4.1. Thùng nhuộm chàm
Thùng nhuộm chàm gọi theo tiếng Mông là trơưr. Thùng nhuộm chàm truyền thống của người Mông ở Cát Cát được chế tác từ chất liệu bằng gỗ pơ mu. Trước đây, gỗ pơ mu trong địa bàn người Mông ở Cát Cát có rất nhiều, người ta chỉ cần đi vào rừng cách nhà khoảng 2 giờ đi bộ là đã có thể kiếm được những cây gỗ pơ mu ưng ý.
Việc đi lấy gỗ pơ mu không quy định thời gian cụ thể. Mỗi khi gia đình có nhu cầu về thùng nhuộm chàm, người đàn ông Mông ở Cát Cát thường mang sẵn công cụ (rìu, dao) vào rừng tìm gỗ làm thùng nhuộm chàm vào những lúc nông nhàn, không bận việc đồng áng, thường vào tháng 11 đến tháng giêng âm lịch hàng năm.
Cây gỗ pơ mu “ưng ý” với người Mông ở Cát Cát để dùng làm thùng nhuộm chàm là những cây mọc thẳng, đường kính gốc tối thiểu là 50 cm, tối đa là 90 cm (90 cm là đường kính gốc lớn nhất đối với hầu hết các cây gỗ pơ mu trong vùng này), cây cao khoảng 6 – 10 m.
Sau khi tìm được cây ưng ý, người ta sẽ chặt hạ ngay chứ không đánh dấu để dành như đối với việc tìm gỗ làm nhà. Khi chặt cây, người ta thường chọn vị trí bên dốc lên. Cách chặt là tỉa rộng vòng ngoài rồi thu hẹp dần vào trong. Sau khi nhát chặt đã “chín”, người ta giáng một nhát bổ mạnh cho cây sẽ đổ về phía đối diện với người chặt, không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Sau khi cây được chặt xuống, người ta tỉa bỏ phần ngọn và các cành nhánh ra khỏi thân cây. Tiếp đó, người ta ước lượng chiều cao của những chiếc thùng định đóng rồi chặt thân cây ra làm nhiều đoạn sao cho độ dài của thân cây tương ứng với chiều cao của thùng. Có được những xúc gỗ vừa ý, người ta lại dùng rìu bổ dọc theo thân cây để cho ra những tấm ván thô. Sau đó, cũng vẫn chỉ với chiếc rìu, người ta lại đẽo, gọt cho tấm ván có được độ phẳng tương đối rồi mới vác gỗ về nhà. Bằng kỹ thuật chặt - bổ - đẽo - gọt bằng rìu truyền thống, thông thường, với số gỗ thu được từ mỗi cây pơ mu, người Mông ở Cát Cát trước đây làm được từ 3 – 6 chiếc thùng nhuộm chàm (tuỳ thuộc vào cái cây ấy to hay nhỏ, cao hay thấp). Số gỗ như vậy cần phải đi 2 – 4 chuyến mới có thể vận chuyển hết về nhà. Việc vận chuyển thùng vế nhà được thực hiện bởi 1 – 2 người.
Để tránh hiện tượng co ngót, gỗ pơ mu sau khi mang về nhà sẽ được để lên gác phía bên bếp 1 – 2 tháng thì khô. Lúc này, người ta đã có thể sử dụng gỗ để chế tác thùng nhuộm chàm. Nhiều người cẩn thận hơn còn để gỗ ở đó tới 1 năm.
Công đoạn đầu tiên của việc đóng thùng là bào cho nhẵn các tấm ván. Kỹ thuật bào - tiếng Mông gọi là baol (bạo). Đây là một kỹ thuật được du nhập từ người Kinh trong vùng. Còn trước đây, tiền nhân người Mông cũng chỉ sử dụng chiếc rìu để gọt tỉa kỹ lưỡng để tạo độ nhẵn cho ván thùng. (Trong quá trình khảo sát tại cơ sở, chúng tôi vẫn phát hiện những chiếc thùng cũ có dấu vết của việc làm nhẵn bằng kỹ thuật gọt tỉa bằng rìu).
Sau khi các tấm ván đã được làm nhẵn, người ta đẽo (hoặc đục) ở hai cạnh dài của các tấm ván để tạo thành các đường gờ so le. Việc tạo các đường gờ phải được tính toán sao cho khi ghép các tấm ván vào với nhau, các đường gờ phải khít lại, ghé mắt nhìn qua không thấy lọt ánh sáng là được. Mặt đáy của thùng cũng được tạo bởi các tấm ván đặt khít thành các đường gờ. Chỉ khác là, nếu như các tấm ván thành thùng có chiều thẳng đứng thì các tấm ván đáy sẽ được cắt gọt thành một khối hình tròn, đường kính tuỳ thuộc vào ý muốn của người sử dụng.
Sau khi đã tạo được các cấu kiện ưng ý, người ta sẽ ghép các tấm ván lại với nhau. Đầu tiên, người ta kê các đá hoặc gỗ cao lên một khoảng để tạo khoảng cách giữa mặt dưới đáy thùng với mặt đất. Sau đó, các mảnh ván đáy được đặt khớp vào nhau ở trên khoảng kê ấy. Các tấm ván thành thùng sẽ được lần lượt đặt quây xung quanh tấm ván đáy. Công đoạn này đòi hỏi phải có nhiều người cùng tham gia (thông thường, khi quây ván thùng sẽ có 5 – 8 người cùng tham gia thao tác). Các mảnh ván thành thùng đã được ghép sẽ có người giữ không để cho nó tuột ra. Điều đặc biệt là người Mông ở Cát Cát khi ghép ván thành thùng không cần dùng đến khuôn lót bên trong. Đây là một đặc điểm để chúng ta ghi nhận trình độ ghép ván tài tình của họ. Ván thành thùng sau khi được ghép xong (vòng quây đã kín) sẽ được buộc cố định. Mỗi chiếc thùng ngâm chàm bằng gỗ truyền thống của người Mông ở Cát Cát sẽ có khoảng từ 3 – 4 vòng buộc tuỳ thuộc vào thùng to hay nhỏ, cao hay thấp. Vị trí vòng buộc trên cùng cách cạnh trên mặt thùng ≈ 15 – 20 cm. Vị trí vòng buộc dưới cùng cách cạnh đáy thành thùng ≈ 25 – 30 cm. Sau đó, người ta chia khoảng cách giữa hai vị trí vòng buộc trên cùng và dưới cùng. Khoảng ở giữa sẽ được buộc từ 1 – 2 vòng với tỷ lệ khoảng cách chia đều nhau. Để không cho các tấm ván trượt ra hay thụt vào, khi buộc, người ta phải dùng tay vừa ép bên ngoài, vừa tì bên trong mặt các tấm ván.
Dây buộc thùng ngâm chàm truyền thống của người Mông ở Cát Cát là dây mây (cơx thênhk) hoặc cật tre (giâux xungz). Kỹ thuật buộc thùng của họ là kỹ thuật xoắn dây. Tức là, hai đầu dây sẽ được xoắn vào vòng dây buộc một đoạn dài khoảng 20 cm mỗi đầu rồi cắt bỏ đầu thừa. Đầu thừa của dây buộc được gài vào bên trong vòng dây sao cho kín, không bị tuột ra.
Buộc xong, người ta đổ nước vào thử. Chỗ nào có nước rỉ ra, người ta sẽ đánh dấu lại. Sau đó, người ta đổ hết nước trong thùng đi, lau khô ván thùng và dùng một loại keo thảo mộc chít các khe hở lại sao cho kín là xong.
Nhìn chung, chiếc thùng ngâm chàm của người Mông ở Cát Cát không có chuẩn mực về kích thước. Tuỳ theo số gỗ, ý muốn của người làm và nhu cầu của người sử dụng mà mỗi chiếc thùng lại có một chỉ số về kích thước khác nhau. Ở đây, chúng tôi dẫn ra số đo chiếc thùng nhuộm chàm của gia đình ông Vàng A Seng (sinh năm 1962), trú tại đội 1, thôn Cát Cát như sau: Thùng có chiều cao phía ngoài 92 cm, phía trong 65 cm, mặt đáy dày 4 cm (mặt dưới đáy cách đất 23 cm). Thùng có hình trụ đứng với đường kính 80 cm, thành thùng (các tấm ván) dày 4 cm.
4.2. Thớt và đá lăn vải
Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc 450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh (hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.doc