Doanh thu tăng, giá vốn hàng bán của xí nghiệp năm 2000 cũng tăng lên so với năm 1999. Qua bảng số liệu ta thấy giá vốn của xí nghiệp khá cao gần bằng với cả doanh thu đạt được cụ thể là năm 1999 doanh thu là 11.771.555.480 thì giá vốn là 10.030.274.521đ và năm 2000 doanh thu đạt được là 12.301.969.631đ thì giá vốn là: 10.372.346.798đ. Giá vốn cao ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận của xí nghiệp. Nguyên nhân là do xí nghiệp kinh doanh dịch vụ nên trong giá vốn của xí nghiệp bao gồm các khoản chi phí từ nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động vận tải, tiền lương thanh toán trực tiếp cho nhân viên thực hiện nhiệm vụ vận tải đến các khoản chi phí chung phát sinh trong quá trình phục vụ vận tải . những khoản này được xác định để tính giá thành của sản phẩm dịch vụ và được nhà nước, ngành trực tiếp liên quan phê duyệt và trả công cho xí nghiệp như một dịch vụ thuê ngoài của họ song lợi nhuận cho xí nghiệp là rất ít.
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại xí nghiệp ô tô V75, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oại hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên tốc độ tiêu thụ, mức độ phù hợp với thị hiếu tiêu dùng các loại hàng hoá khác nhau. Từ đó cho thấy cơ cấu mặt hàng kinh doanhcũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Một cơ cấu mặt hàng kinh doanh hợp lý với chủng loại và tỷ trọng phù hợp tránh được tình trạng ứ đọng hàng hoá khi lượng hàng hoá dự trữ quá lớn so với mức nhu cầu của thị trường hoặc có thể bỏ lỡ cơ hội tốt trong kinh doanh khi nhu cầu của thị trường lớn nhưng dự trữ của doanh nghiệp lại quá ít
d. Khả năng về vốn:
Vốn là tiền đề vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong quá trình cạnh tranh trên thương trường, doanh nghiệp nào "trường vốn", có lợi thế về vốn thì sẽ có lợi thế kinh doanh - khả năng về vốn dồi dào sẽ giúp doanh nghiệp giành được thời cởtong kinh doanh, có điều kiện mở rộng thị trường, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.
3. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp
Tăng doanh thu tiêu thụ
Tăng khối lượng chất lượng hàng hoá tiêu thụ: việc tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ làm tăng thêm lợi nhuận doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay để khuyến khích tiêu dùng và tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụdn càan sử dụng những biện pháp như giảm giá cho người mua nhiều, loại trừ việc phát sinh hàng bán bị trả lại, chống hàng giả, gian rối trong kinh doanh... Thông thường sản phẩm có chất lượng cao thường thu hút được người mua nếu có một giá bán hợp lý, điều đó sẽ làm tăng số lưọng bán cho doanh nghiệp, tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, nhanh tróng thu được tiền bán hàng từ đó tăng doanh thu.
Xác định giá cả hợp lý: việc xác định giá cả hợp lý cho hàng hoá là điều rất khó khăn và quan trọng trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải xác định giá cả của hàng hoá sao cho phù hợp với thị trường khuyến khích được người tiêu dùng mua hàng mà vẫn đảm bảo doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Có một vài cách định giá cả cho hàng hoá như sau: Giá cao hơn giá thị trường thưòng thuyết phục được người mua với những mặt hàng có giá trị lớn cách định giá này thường tạo cảm giác an toàn cho người mua hàng khi mặt hàng đó có giá trị lớn. Giá thấp hơn giá thị trường thương được áp dụng khi doanh nghiệp muốn tung một loại sản phẩm mới ra thị trường hoặc mong muốn chiếm một thị phần lớn hơn trên thị trường khi mà người mua đã hiểu rõ về sản phẩm. Giá theo giá thị trường coi giá đó là giá chuẩn doanh nghiệp chánh được chiến tranh về giá.
Đẩy nhanh tốc độ thanh toán tiền hàng: Việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán tiền hàng, giảm bớt các khoản nợ phải thu, xử lý tốt những khoản nợ khó đòi là một phương pháp đảm bảo thực hiện tốt chỉ tiêu doanh thu. Khi bán hàng, doanh nghiệp vẫn chú ý tới việc thanh toán tiền hàng vì điều kiện thanh toán có quan hệ chặt chẽ với việc thu hồi lãi bán hàng, luân chuyển vốn, đảm bảo công tác thanh toán tiền hàng được thuận lợi đầy đủ và nhanh chóng, có như vậy doanh nghiệp mới quản lý được doanh thu của mình.
3.2 Nhóm biện pháp làm giảm chi phí
Phấn đấu hạ thấp chi phí kinh doanh là một vấn đề cần thiết quan trọng, có thể sử dụng những biện pháp chủ yếu sau:
-Tổ chức cung ứng và dự trữ hàng hoá một cách hợp lý : cung ứng là khâu đầu tiên bắt đầu quá trình lưu thông hàng hoá. Việc tổ chức và cung ứng hàng hoá hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hàng và tiết kiệm được chi phí. Bởi vậy trong khâu mua đòi hỏi doanh nghiệp phải khôn khéo lựa chọn nguồn hàng cung ứng có chất lượng tốt, uy tín, giá cả hợp lý và nguồn hàng ổn định nhằm tránh rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp.
-Lựa chọn phương thức kinh doanh phù hợp vận dụng linh hoạt các hình thức kinh doanh đồng thời giải quyết hài hoà giữa lợi ích của người tiêu dùng với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí nâng cao năng suất lao động hạ thấp chi phí kinh doanh tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
-Tăng cường công tác quản lý chi phí: quản lý chi phí gắn liền với kế hoạch, lập kế hoạch quản lý tài chính giúp doanh nghiệp khai thác mọi tiềm năng tiềm tàng, giảm chi phí từ đó hạ thấp chi phí kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải phân công phân cấp quản lý phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải thường xuyên hoặc định kỳ kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện chi phí kinh doanh, việc kiểm tra tiến hành một cách toàn diện cả không gian và thời gian. Phải kiểm tra trước, trong và sau khi chi, nhằm phân tích đánh giá tính cần thiết, tính hiệu quả và phù hợp với dự toán chi phí đã đề ra hay không. Việc phân tích khi chi là để đánh giá hiệu quả, ưu và nhược điểm của các khoản chi phí đã thực hiện nhằm phục vụ lợi ích của quản lí chi phí kinh doanh của kì sau. Kiểm tra, giám đốc mọi hoạt động chi tiêu của doanh nghiệp là một biện pháp quan trọng nhằm phấn đấu hạ thấp chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
chương ii : tình hình thực hiện lợi nhuận của xí nghiệp và một số giải pháp nâng cao lợi nhuận
i. Khái quát tình hình hoạt động của xí nghiệp ô tô V75.
1. Quá trình hình thành và phát triển :
Xí nghiệp ô tô V75 là doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích độc lập trực thuộc Bộ Ngoại Giao, được thành lập theo quyết định số 1725/NG-QĐ 27/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao , trên cơ sở tổ chức tại xí nghiệp ô tô V75 được thành lập theo quyết định số 52/NG-QĐngày 19/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
Xí nghiệp ô tô V75 có chức năng hoạt động trong lĩnh vực giao thông đô thị phục vụ chuyên ngành đối ngoại.
Tên tiếng việt: xí nghiệp ô tô V75
Tên giao dịch quốc tế : V75 CARENTERPRIS
Trụ sở chính tại 231 đường Lê Duẩn , Quận Hai Bà Trưng , Hà Nội
Có văn phòng đại diện , phòng ban nghiệp vụ và các đơn vị trực thuộc theo luật định. Xí nghiệp có con dấu riêng , có tài khoản tại ngân hàng.
Năm 1975 sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, đoàn xe V75 được thành lập và trực thuộc Bộ Ngoại Giao . Đoàn xe V75 được thành lập trên cơ sở sáp nhập các đội xe trực thuộc Bộ Ngoại Giao và đội xe khách quốc tế của nhà khách chính phủ được chuyển về cục phục vụ ngoại giao đoàn hoạt động hoàn toàn trong sự bao cấp của nhà nước.
Ngày 18/7/1986 xí nghiệp ô tô V75 được thành lập theo quyết định số 459/QĐ của bộ trưởng Bộ Ngoại Giao và chuyển sang hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh tế gắn liền với sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế hàng hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá thị trường có sự quản lý của nhà nước. Ngày 18/3/1993 Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao có quyết định số 52/QĐ thành lập lại xí nghiệp ô tô V75 tách ra khỏi cục phục vụ Ngoại Giao đoàn và trực thuộc thẳng Bộ Ngoại Giao. Xí nghiệp bao gồm các đội xe:
+ Đội xe văn phòng Bộ Ngoại Giao.
+ Đội xe khách quốc tế tại nhà khách chính phủ 12 Ngô Quyền.
+ đội xe Vạn Phúc 44 Kim Mã.
+ Đội xe MIA chuyên tìm kiếm người Mĩ mất tích trong chiến tranh tại Việt nam
+ Tổ xe gara và xưởng sửa chữa tại Dịch Vọng, Từ Liêm.
+ trụ sở làm việc của xí nghiệp và xưởng sửa chữa tại 231 Lê duẩn.
Tháng 12/1995 theo sự cho phép của Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, trước tình hình đội xe Vạn Phúc ở 44 Kim Mã bị giải toả để làm đường Cầu Giấy phải chuyển về khu Dịch Vọng và tách ra khỏi đội xe văn phòng bộ, xí nghiệp quyết định thành lập thêm đội xe lấy tên là đội xe Nghĩa Đô.
Trước tình hình đổi mới của đất nước, công tác phục vụ đối ngoại ngày càng phát triển. Do việc nhà nước ta mở rộng giao lưu với nhiều nước trên thế giới khiến công tác của xí nghiệp V75 ngày càng trở nên chuyên sâu và nâng cao. Ngày 27/12/1996 Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao đã có quyết định số 1726/NG-QĐ quyết định thành lập xí nghiệp ô tô V75 là doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ich độc lập trực thuộc Bộ Ngoại Giao.
2. Chức năng nhiệm vụ chính của xí nghiệp
Căn cứ theo quyết định thành lập xí nghiệp ô tô V75 của Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao xí nghiệp ô tô V75 có những chức năng nhiệm vụ chính sau:
- Vận tải ô tô và cung cấp dịch vụ phục vụ việc đón đoàn khách của Ban chấp hành TW Đảng, quốc hội, chính phủ và của Bộ Ngoại Giao, các bộ ban ngành TW và thủ đô Hà nội. Phục vụ các kì Đại hội Đảng toàn quốc, các kì quốc hội, và các kì họp quan trọng khác của trung ương và Hà Nội.
- Cung cấp các lái xe phục vụ công tác cho các cơ quan đại diện nước Việt nam ở nước ngoài khi có yêu cầu.
- Kinh doanh dịch vụ vận tải ô tô, sửa chữa, cho thuê lái xe, thợ sửa chữa ô tô phục vụ đoàn ngoại giao tại Hà Nội và các hoạt động khác.
3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và đặc điểm công tác kế toán tại xí nghiệp
* Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp
Xí nghiệp ô tô V75 là doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị, đứng đầu xí nghiệp là giám đốc do Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao bổ nhiệm và miễn nhiệm
Sơ đồ cơ cấu bộ máy tổ chứa ở xí nghiệp ô tô V75
Giám đốc
Phó giám đốc phụ trách kĩ thuật
Phó giám đốc phụ trách vận tải
Phòng kĩ thuật vật tư
Phòng quản lí nhân sự tiền lương
Phòng kế toán tài vụ
Phòng kế hoạch điều độ
Xưởng Lê Duẩn
Xưởng Dịch Vọng
Đội xe Ngô Quyền
Đội xe MIA
Đội xe Nghĩa Đô
Đội xe Vạn Phúc
Trong đó
Giám đốc là đại diện pháp luật của xí nghiệp, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao và pháp luật về hoạt động của xí nghiệp. Giám đốc có quyền chỉ đạo điều hành cao nhất trong xí nghiệp.
Các phó giám đốc do bộ trưởng bộ ngoại giao bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của giám đốc.
Phòng kinh tế-kế hoạch-điều vận có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các hoạt động công ích được giao cho xí nghiệp. Điều tra khảo sát thị trường vận tải, lập các phương án kinh tế, các dự án. Tổ chức duy trì và phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh. Xây dựng kí kết hoạt động vận tải và cung ứng phục vụ đưa đón khách.
Phòng vật tư- kĩ thuật quản lí các phương tiện vật tư, hướng dẫn sủ dụng, bảo dưỡng, sửa chữa, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ mới trong hoạt động của xí nghiệp. Kiểm tra chất lượng kĩ thuật nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng phương tiện, thiết bị.
Phòng kế toán tài chính quản lí vón, tài sản, hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán thống kê và quản lí tài chính.
Phòng quản lí nhân sự và tiền lương bố trí nơi làm việc cho cơ quan lãnh đạo, các bộ phận chức năng, nghiệp vụ văn phòng xí nghiệp. Đảm bảo điều kiện cần thiết cho công tác y tế, đời sống văn hoá xã hội cho nhân viên của xí nghiệp. Quản lí nhân sự, tiền lương, công tác khen thưởng, kỉ luật văn thư hành chính và lưu trữ.
Đội xe mỗi đội xe có từ 30 - 50 xe thành lập theo nhiệm vụ hoặc từng mác xe.
*Đặc điểm công tác kế toán tại xí nghiệp
Để đảm bảo hoàn thành tốt công tác kế toán của công ty giúp cho lãnh đạo nắm được chính xác tình hình thực tế mọi hoạt động của công ty và đưa ra những quyết định đúng đắn. Công ty đã bố trí được bộ máy kế toán tương đối hợp lý. Xí nghiệp ôtô V75 tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập chung. Về bộ máy kế toán, phòng kế toán gồm:
Kế toán trưởng: là người tổ chức mọi hoạt động kinh tế tài chính trong công ty, chịu trách nhiệm cao nhất trước Giám đốc và toàn công ty. Ngoài ra kế toán trưởng còn phải liên hệ với ban tài chính, cục thuế, ngân hàng để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kế toán tổng hợp: có nhiệm vụ tổng hợp toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong công ty và là người thu thập thông tin mọi hoạt động kinh tế phát sinh
Kế toán vật liệu và TSCĐ: là người theo dõi tình hình biến động của tài sản trong toàn công ty, tính và phân bổ khấu hao cho các bộ phận sử dụng.
Kế toán thanh toán: thực hiện các nghiệp vụ thanh toán với khách hàng và cán bộ công nhân viên
Kế toán tiền mặt: phụ trách việc theo dõi hạch toán các khoản tiền mặt, tiền vay, tiền gửi ngân hàng
Thủ quỹ: quản lý tiền mặt của công ty căn cứ vào các chứng từ thu, chi để nhập, xuất tiền thanh toán
Kế toán tiền lương BHXH: là người chịu trách nhiệm tính lương, tính BHXH của cán bộ công nhân viên toàn công ty
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của toàn công ty
Kế toán trưởng
Kế toán tổng hợp
Thủ quỹ
Kế toán tiền mặt
Kế toán thanh toán
Kế toán vật liệu và TSCĐ
Tiền lương và BHXH
Công ty áp dụng hệ thống tài khoản theo quy định 1141/TC-QĐ-CĐKT ngày 01/11/1995 về hệ thống chế độ kế toán. Do yêu cầu của công tác quản lý và đặc điểm loại hình kinh doanh, công ty tổ chức sổ kế toán theo hình thức nhật kí sổ cái.
Trình tự hạch toán của doanh nghiệp có thể khái quát theo sơ đồ sau
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Sổ, thẻ, kế toán chi tiết
Bảng tổng hợp chi tiết
Bảng tổng hợp chi tiết
Nhật ký - Sổ cái
Báo cáo tài chính
Trong đó:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
Hàng ngày căn cứ vào chứng từ kế toán để ghi các sổ hoặc thẻ kế toán chi tiết . Cuối tháng , quí tổng hợp số liệu và khoá sổ , thẻ kế toán chi tiết .
4. Kết quả hoạt động sản xuất của xí nghiệp qua 2 năm 1999 - 2000
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có nhiều biến đổi. Nhìn chung xí nghiệp nhanh chóng nắm được tình hình thực tế, phân tích những thuận lợi khó khăn, biết mở rộng thị trường tiêu thụ và mặt hàng kinh doanh tạo được chỗ đứng trên thị trường. Để đi sâu phân tích tình hình lợi nhuận của xí nghiệp qua 2 năm ta có biểu sau:
Kết quả hoạt động sản xuất của xí nghiệp trong 2 năm
Đơn vị : đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 99/2000
Số tiền
Tỉ lệ
1.Vốn kinh doanh bình quân
9.768.237.175
10.952.683.913
1.184.446.738
+12.12
2.Tổng doanh thu
11.894.985.630
12.412.672.609
517.686.979
+4,5
3.Giá vốn
10.030.274.521
10.372.346.798
342.072.277
+3,41
4.Chi phí quản lí
1.734.642.318
1.903.352.116
168.097.798
+9,73
5.Tổng lợi nhuận trước thuế
130.068.791
136.973.695
6.904.904
+5,31
6.Nộp ngân sách
478.842.105
680.189.583
201.347.475
+42,1
7.Thu nhập(đ/ng/tháng)
876.054
970.352
94.298
+10,8
Qua bảng số liệu ta có thể thấy các chỉ tiêu kinh tế của năm 2000 đều tăng lên so với năm trước điều đó cho thấy năm 2000 xí nghiệp có những điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn so vơí năm 1999, điều đó dẫn đến các chỉ tiêu kinh tế của năm 2000 đều tăng lên so với năm 1999. Cụ thể ta có thể thấy với dặc điểm kinh doanh của xí nghiệp năm 2000 vừa qua có nhiều đoàn khách quốc tế đến Việt Nam hơn và sẽ còn tăng thêm trong những năm tới chính vì vậy mà doanh thu của xí nghiệp cũng sẽ tăng theo từ đó thúc đẩy lợi nhuận tăng. Mặc dù lợi nhuận của xí nghiệp không nhiều và tỉ lệ tăng cũng chưa cao nhưng do đặc thù là doanh nghiệp vẫn còn nằm trong sự bao cấp bên cạnh sự kinh doanh một phần của xí nghiệp. Mặc dù doanh thu tăng không đáng kể 514.686.979đ với tỷ lệ tương ứng là 4,35% còn giá vốn tăng 342.072.277đ với tỷ lệ tương ứng là 3,41%. Và xí nghiệp vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước.
Năm 2000 vốn kinh doanh của xí nghiệp tăng so với năm 1999 là 1.184.446.738 đồng tương ứng với tỉ lệ tăng 12.12%. Do là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nên số vốn kinh doanh bình quân của xí nghiệp tăng lên không đáng kể. Chính vì vậy doanh thu của xí nghiệp cũng tăng lên không nhiều còn thấp hơn tỉ lệ tăng của giá vốn. Có thể thấy rằng doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh còn chưa hiệu quả.
Trong điều kiện kinh doanh khó khăn, phấn đấu hạ thấp chi phí không phải là điều dễ dàng để có được doanh thu tăng lên thêm với tỷ lệ là 4,39% xí nghiệp đã sử dụng số chi phí tăng lên là 5,8%. Tuy vậy kết quả đạt được là lợi nhuận của xí nghiệp vẫn tăng lên mặc dù không nhiều và số tiền lợi nhuận đạt được là khá kiêm tốn so với số vốn bỏ ra để kinh doanh và các khoản chi phí liên quan. Lợi nhuận trước thuế tăng 6.994.904đ với tỷ lệ tương ứng là 5,31% chứng tỏ đồng vốn kinh doanh bỏ ra chưa hiệu quả. Lợi nhuận tăng thêm làm thu nhập của lao động trong xí nghiệp cũng được tăng lên.
Năm 2000 là một năm tương đối thuận lợi đối với xí nghiệp với việc các đoàn khách quốc tế vào Việt Nam liên tục gia tăng và với số lượng lớn đặc biệt có 2 cuộc viếng thăm Việt Nam có số lượng người đến lớn đó là đoàn tổng thống Mĩ với hơn 250 xe được xí nghiệp huy động hay đoàn tổng thống Nga sang thăm Việt Nam cũng trong năm đó. Chính đó là điều kiện thuận lợi nhuận tạo công ăn việc làm nhiều hơn cho nhân viên của xí nghiệp và giúp xí nghiệp thực hiện việc đạt được doanh thu với lợi nhuận đề ra của mình.
Nói tóm lại được sự chỉ đạo của cấp trên cùng với tập thể nhân viên trong xí nghiệp không ngừng phấn đấu, nâng cao năng lực phát huy thế mạnh. Xí nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm 2000 và đạt được những thành tích đáng kể.
ii. Tình hình lợi nhuận của xí nghiệp ô tô V75
Như các doanh nghiệp kinh doanh khác kết cấu lợi nhuận của xí nghiệp ô tô V75 cũng gồm 3 phần đó là lợi nhuận hoạt động kinh doanh , lợi nhuận hoạt động tài chính, lợi nhuận hoạt động bất thường:
Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận
của = hoạt động + hoạt động + hoạt động
xí nghiệp kinh doanh tài chính bất thường
1. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải
Do là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực vận tải là một ngành mang đậm tính dịch vụ. Do vậy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của xí nghiệp chủ có yếu được từ hoạt động vận tải và sửa chữa, bảo dưỡng vận tải của xí nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động này được xác định theo công thức:
Doanh thu
Doanh thu
=
-
Thuế nộp ở khâu tiêu thụ(nếu có)
-
Chi phí kinh doanh hợp lệ
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
Do xí nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nên tổng doanh thu, các khoản chi phí không bao gồm thuế GTGT. Tổng doanh thu của xí nghiệp bao gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh vận tải mà chủ yếu từ việc đón các đoàn khách lớn của nhà nước và doanh thu từ việc bảo dưỡng, sửa chữa vận tải của xí nghiệp phần doanh thu này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ không đáng kể vì xí nghiệp chưa chú trọng đầu tư cho phát triển lĩnh vực kinh doanh này.
Chi phí kinh doanh hợp lệ là các khoản bao gồm giá vốn hàng bán(chi phí về nguyên vật liệu cho dịch vụ vận tải như xăng dầu, thiết bị vận tải ...), chi phí về nhân công trực tiếp thực hiện dịch vụ vận tải và chi phí sản xuất chung (chi phí quản lý chung, nguyên vật liệu dùng chung...). Do là doanh nghiệp dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực vận tải là chủ yếu nên thuế nộp ở khâu tiêu thụ với xí nghiệp là không có.
Dưới đây ta có bảng phản ánh tình hình thực hiện lợi nhuận kinh doanh của xí nghiệp trong 2 năm 1999-2000 như sau:
Kết quả hoạt động kinh doanh vận tải
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 99/2000
Số tiền
Tỉ lệ
1.Doanh thu
11.771.555.480
12.301.969.631
530.414.151
+4.51
2.Các khoản giảm trừ
3.Doanh thu thuần
11.771.555.480
12.301.969.631
530.414.151
+4.51
4.Giá vốn
10.030.274.521
10.372.346.798
342.072.227
+3,41
5. Lợi tức gộp
1.741.280.959
1.929.622.833
188.341.874
+10,8
6.Chi phí quản lý
1.710.535.573
1.883.894.474
173.358.901
+10,1
7.Lợi nhuận
30.745.386
45.728.359
14.982.973
+48,7
Từ bảng ta có thể thấy rằng lợi nhuận của xí nghiệp mặc dù không lớn nhưng tỉ lệ tăng là rất đáng kể. Lợi nhuận từ năm 1999 sang năm 2000 tăng 14.982.973đ tương ứng với tỉ lệ tăng là 48,73%. Điều này có được là do năm 2000 xí nghiệp đã có những đổi mới trong kinh doanh và năm 2000 là một năm tương đối thuận lợi cho việc kinh doanh của xí nghiệp. Lợi nhuận tăng nhờ các chỉ tiêu của xí nghiệp cũng tăng như: năm 2000 vừa qua có rất nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm Việt Nam nó đã giúp cho xí nghiệp có thêm thu nhập từ việc đưa đón các đoàn khách quốc tế này và năm 2000 cũng là năm diễn ra nhiều hội nghị, đại hội của nhà nước, chính phủ, quốc hội. Chính vì vậy doanh thu năm 2000 của xí nghiệp đã tăng lên so với năm 1999 là 530.414.151đ và tăng với tỉ lệ tương ứng là 4,51%. Là doanh nghiệp nhà nước phục vụ vận tải cho nhà nước, chính phủ là chủ yếu, mặc dù hạch toán như một doanh nghiệp độc lập song dưới sự bảo trợ của nhà nước, ngành ngoại giao có càng nhiều cuộc họp lớn, càng nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam xí nghiệp càng có điều kiện làm việc, tăng doanh thu cho mình.
Vì là doanh nghiệp dịch vụ nên không phát sinh các khoản giảm trừ và giảm giá hàng bán và thuế trong khâu tiêu thụ nên mức doanh thu thuần đạt được chính bằng doanh thu của hoạt động kinh doanh của xí nghiệp.
Doanh thu tăng, giá vốn hàng bán của xí nghiệp năm 2000 cũng tăng lên so với năm 1999. Qua bảng số liệu ta thấy giá vốn của xí nghiệp khá cao gần bằng với cả doanh thu đạt được cụ thể là năm 1999 doanh thu là 11.771.555.480 thì giá vốn là 10.030.274.521đ và năm 2000 doanh thu đạt được là 12.301.969.631đ thì giá vốn là: 10.372.346.798đ. Giá vốn cao ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận của xí nghiệp. Nguyên nhân là do xí nghiệp kinh doanh dịch vụ nên trong giá vốn của xí nghiệp bao gồm các khoản chi phí từ nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động vận tải, tiền lương thanh toán trực tiếp cho nhân viên thực hiện nhiệm vụ vận tải đến các khoản chi phí chung phát sinh trong quá trình phục vụ vận tải ... những khoản này được xác định để tính giá thành của sản phẩm dịch vụ và được nhà nước, ngành trực tiếp liên quan phê duyệt và trả công cho xí nghiệp như một dịch vụ thuê ngoài của họ song lợi nhuận cho xí nghiệp là rất ít.
Doanh thu tăng cao hơn so với giá vốn dẫn đến lợi nhuận gộp của xí nghiệp cũng tăng với số tiền là 188.341.874đ với tỉ lệ tương ứng là 10,81%.
Tuy vậy giá vốn của xí nghiệp là cao song trong năm 2000 xí nghiệp đã tiết kiệm được một phần chi phí trong giá vốn cụ thể ta có thể thấy tỉ lệ tăng của giá vốn là 3,41% nhỏ hơn tỉ lệ tăng của doanh thu là 4, 51%. Song để thực hiện công việc kinh doanh có hiệu quả thì chi phí quản lý của xí nghiệp tăng thêm 173.358.901đ và với tỉ lệ tương ứng là 10,13%, tăng cao hơn so với tỉ lệ tăng của doanh thu.
Nói tóm lại năm 2000 vẫn là một năm thành công của xí nghiệp và xí nghiệp đã đạt được một mức lợi nhuận cao hơn so với năm trước, điều đó chứng tỏ xí nghiệp đã có nhiều cố gắng trong kinh doanh. Việc giảm được tỉ lệ tăng của giá vốn tuy không nhiều nhưng cũng đạt được một kết quả nhất định.
2. Lợi nhuận hoạt động tài chính
Là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực vận tải kinh doanh các dịch vụ vận tải như lái xe, sửa chữa và bảo dưỡng xe... Bên cạnh đó để nâng cao lợi nhuận cho mình xí nghiệp có hoạt động tài chính như gửi tiền vào ngân hàng, cho thuê TSCĐ...
Lợi nhuận hoạt động tài chính của xí nghiệp được xá định theo công thức:
-
=
Lợi nhuận hoạt Thu nhập hoạt Chi phí hoạt
động tài chính động tài chính động tài chính
Ta sẽ xem xét bảng sau:
Kết quả hoạt động tài chính của xí nghiệp
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
So sánh 99/2000
Số tiền
Tỉ lệ
Thu nhập HĐTC
88.800.313
52.520.112
- 36.280.201
-40,86
Chi phí HĐTC
18.356.745
11.957.642
- 6.399.103
-34,85
Lợi nhuận HĐTC
70.443.568
40.562.470
- 29.881.093
-42,42
Qua bảng số liệu ta có thể thấy: so với năm 1999 năm 2000 thu nhập từ hoạt động tài chính là thấp hơn. Số thu nhập từ hoạt động tài chính giảm 36.280.201đ ứng với tỉ lệ giảm là 40.86%. Sự giảm lợi nhuận của hoạt động tài chính là do : xí nghiệp không phải là một doanh nghiệp thương mại và không phải là một đơn vị có nguồn vốn dồi dào, tát cả số vốn của xí nghiệp hầu như được đầu tư vào các trang thiết bị vật chất kĩ thuật phục vụ cho hoạt động vận tải của xí nghiệp vì hầu hết các phương tiện vận tải mà xí nghiệp có một phần do nhà nước câps một phần do vốn của xí nghiệp bỏ ra. Vì là một doanh nghiệp phục vụ trong lĩnh vực đối ngoại nên có thể thấy các phương tiện vận tải mà xí nghiệp có đều rất hiện đại và tiện nghi. Xí nghiệp có một hệ thống nhà xưởng rộng lớn điều này chỉ giúp xí nghiệp có thêm thu nhập cho hoạt động tài chính nhờ việc cho thuê nhà xưởng, các phần diện tích mà xí nghiệp không sử dụng hết. Còn việc tham gia vào thị trường chứng khoán, góp vốn liên doanh xí nghiệp còn chưa tham gia. Với số vốn không nhiều nên việc có được thu nhập tài chính từ những lãi tức của ngân hàng với xí nghiệp là không đáng kể. Trong năm 2000 vừa qua do bận rộn nhiều với việc đón tiếp các đoàn khách quốc tế, tham gia phục vụ cho đoàn MIA kiến cho hoạt động cho thuê tài chính của xí nghiệp không diễn ra đều như năm 1999. Điều này dẫn đến việc thu nhập từ hoạt động tài chính của xí nghiệp bị giảm sút. Đồng thời do quản lý còn chưa tốt hoạt động tài chính nên chi phí của hoạt động tài chính của xí nghiệp còn khá cao so với thu nhập đạt được.
Chính vì những lý do trên lợi nhuận hoạt động tài chính của xí nghiệp đã bị giảm đi một số tiền là 29.881.093đ ứng với tỷ lệ giảm là 42,42%. Việc giảm thu nhập từ hoạt động tài chính là một điều rất đáng tiếc của xí nghiệp vì hoạt động này nếu được thực hiện tốt sẽ mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho xí nghiệp, và giúp lợi nhuận của xí nghiệp tăng lên. Vì vậy xí nghiệp cần có những nỗ lực hơn nữa trong việc khai thác những lợi nhuận từ hoạt động tài chính này.
3. Lợi nhuận hoạt động bất thường
Như bất cứ một doanh nghiệp khác trên thị trường với doanh nghiệp những hoạt động bất thường không thường xuyên xảy ra nhưng nó luôn tồn tại và tạo nên những khoản thu nhập bất thường cho xí nghiệp và những chi phí bất thườ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24074.DOC