Chuyên đề Các biện pháp vượt rào cản đối với hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam gia nhập WTO

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ RÀO CẢN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 3

1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CÁC RÀO CẢN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (TMQT) 3

1.1.1. Khái niệm 3

1.1.2. Phân loại rào cản trong thương mại quốc tế 4

1.1.3. Phạm vi và mục đích sử dụng các rào cản trong TMQT 10

1.2. RÀO CẢN CHỦ YẾU ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 11

1.2.1. Rào cản thuế quan 11

1.2.2. Rào cản phi thuế quan 13

1.3. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CÁC HÀNG DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 14

1.3.1. Khái quát chung về Hiệp định 14

1.3.2. Thay đổi của hiệp định Thương mại Việt - Mỹ khi Việt Nam gia nhập WTO 19

1.3.3. Các rào cản cho hàng dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO 22

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY VÀ CÁC RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA 26

2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. 26

2.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA MỸ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 32

2.2.1. Thuế quan 33

2.2.2. Hạn ngạch 35

2.2.3. Các quy định khác 36

2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC RÀO CẢN THUẾ QUAN VÀ PHI THUẾ QUAN TỚI XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN QUA 39

CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN ĐỐI VỚI HÀNG

DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ KHI VIỆT NAM 45

GIA NHẬP WTO 45

3.1. CƠ SỞ ĐỂ ĐƯA RA CÁC GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO CẢN CHO DỆT MAY VIỆT NAM 45

3.1.1. Xu hướng phát triển thị trường dệt may Hoa Kỳ 45

3.1.2. Xu hướng phát triển các rào cản đối với hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 48

3.1.3. Chiến lược phát triển xuất khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 tầm nhìn 2020 50

3.1.3.1. Quan điểm phát triển ngành dệt may 50

3.1.3.2. Mục tiêu chiến lược phát triển ngành dệt may giai đoạn 2006 - 2010 tầm nhìn 2020: 52

3.2. CÁC BIỆN PHÁP VƯỢT RÀO CẢN CHO HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 53

3.2.1. Các giải pháp vĩ mô của Nhà nước 54

3.2.2. Các giải pháp đối với hiệp hội dệt may Việt Nam 60

3.2.3. Giải pháp đối với các doanh nghiệp 61

KẾT LUẬN 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65

 

doc67 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các biện pháp vượt rào cản đối với hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áng khích lệ. Và được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu và được biểu diễn qua biểu đồ H2.1 sau: Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 2001 - 2005 Đơn vị tính: triệu USD Năm 2001 2002 2003 2004 2005 15/5/2006 SKN XK 47 975 1.970 2.460 2.750 763,315 Nguồn: Bộ Thương mại Hình 2.2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo và mạng Internet Như vậy, ta thấy năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ là 2500 triệu USD tăng 156,4% so với năm 2002. Mặc dù năm 2004, Mỹ đã gây sức ép cho hàng dệt may Việt Nam là đã giảm hạn ngạch dệt may của Việt Nam thêm 4,5% nhằm bảo hộ thị trường Mỹ nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm này vẫn đạt 2700 triệu USD. Và dự kiến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này là 2800 triệu USD. Dệt may là mặt hàng chịu hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, căn cứ theo Thông tư liên tịch số 18/2005/TTLT - BTM - BCN, ngày 21/10/2005 thì hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ có 38 chủng loại mặt hàng (Cat), bao gồm 13 Cat đá vôi và 12 Cat đơn được quy định tại bảng dưới dây khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ phải chịu hạn ngạch. Bảng 2.3: Ký hiệu các chủng loại mặt hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ Stt Các chủng loại Đơn vị Cat Quy đổi sang m2 Chỉ may, sợi để bán lẻ Kg 200 6.60 Sợi bông đã chải Kg 301 8.50 Tất chất liệu bông Tá đôi 332 3.80 áo khoác nam dạng comple Tá đôi 333 30.30 áo khoác nam, nữ chất liệu bông Tá 334/335 34.50 áo sơ mi dệt kim nam, nữ chất liệu bông Tá 338/339 6.00 áo sơ mi nam dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 340/360 20.10 áo sơ mi nữ dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 341/641 12.10 Váy ngắn chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 342/642 14.90 áo sweater chất liệu bông Tá 345 30.80 Quần nam nữ chất liệu bông Tá 347/348 14.90 Quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 351/651 43.50 Đồ lót chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 352/652 11.30 Quần yếm Kg 359/659S 10.00 Quần áo bơi Kg 359/659S 11.80 áo khoác nam chất liệu len Tá 434 45.10 áo khoác nữ chất liệu len Tá 435 45.10 Sơ mi nam, nữ chất liệu len Tá 440 20.10 Quần nam chất liệu len Tá 447 15.00 Quần nữ chất liệu len Tá 448 15.00 Vải bằng sợi fi -la - măng tổng hợp khác m2 620 1.00 Tất chất liệu sợi nhân tạo Tá đôi 632 3.80 áo sơ mi dệt nam nữ chất liệu sợi nhân tạo Tá 638/639 12.96 áo sweaterr chất liệu nhân tạo Tá 645/646 30.80 Quần nam nữ chất liệu sợi nhân tạo Tá 647/648 14.90 Theo số liệu thống kê của Bộ thương mại trong năm 2003, nhóm mặt hàng đã sử dụng hết hạn ngạch bao gồm 6 Cat., 301, 334/335, 338/339, 347/348,448 và 620. Nhóm mặt hàng đã sử dụng trên 80% hạn ngạch bao gồm 7 Cat. 340/640, 341/641, 351/651, 352/652, 359/659 -S, 435 và 647/648. Nhóm mặt hàng còn lại có một tỷ lệ sử dụng hạn ngạch dưới 80%. Trong năm 2004, chỉ có một mặt hàng đã sử dụng hết hạn ngạch đó là Cat.338/339. Nhóm mặt hàng đã sử dụng hạn ngạch trên 80% bao gồm 7 Cat. 334/335, 340/640, 342/642, 347/348, 359/659 - S, 638/639 và 647/648. Số còn lại là các mặt hàng có tỷ lệ sử dụng hạn ngạch dưới 80%. Như vậy, trong năm 2004 chỉ có Cat. 338/339 đã sử dụng hết hạn ngạch, so với năm 2003 đã giảm hẳn 5 Cat. Cũng theo Bộ thương mại, trong năm 2005, 25 mặt hàng còn bị áp đặt hạn ngạch, theo tỷ lệ sử dụng hết hạn ngạch có thể phân thành ba nhóm như sau: - Nhóm 8 mặt hàng sử dụng hết hạn ngạch là các Cat.338/339, 340/640, 341/641, 359/659-S, 638/639, 647/648 và 620. - Nhóm 4 mặt hàng có tỷ lệ sử dụng hạn ngạch trên 80% là các cat. 334/335, 342.642, 347/348 và 440. - Nhóm 13 mặt hàng còn lại có tỷ lệ sử dụng hạn ngạch dưới 80%. Có hai điểm đáng lưu ý trong xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ năm 2005 là nhịp độ tăng cao hơn và tỷ lệ sử dụng hạn ngạch cũng cao hơn năm 2004, cụ thể là: - Năm 2005, xuất khẩu hầu hết các Cat, (24/25 Cat.) đều tăng so với năm 2004, trong đó tăng nhiều hất là các Cat.333 (1.315%), Cat. 447 (365%_, Cat. 620 (553%) và Cat 434 (455%). - 5 Cat. Chủ yếu chiếm khoảng 86% lượng ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ đều có tỷ lệ sử dụng hạn ngạch cao (Cat. 338/339 chiếm 36,7% hạn ngạch, đạt tỷ lệ sử dụng 91,84%; Cat.347/348 chiếm 26,5% hạn ngạch, đạt tỷ lệ sử dụng 99,41%. Cat 647/648 chiếm 9,5% hạn ngạch, đạt tỷ lệ sử dụng 107,13%; Cat. 340/640 chiếm 7,8% hạn ngạch, đạt tỷ lệ sử dụng 93,32%). Như vậy trong khi xuất khẩu dệt may phi hạn ngạch sang Hoa Kỳ năm 2005 giảm 5,7% thì nhờ sự điều hành của liên bộ và nỗ lực phấn đấu của các doanh nghiệp hàng xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ theo hạn ngạch lại tăng khá tốt, đạt nhịp độ tăng trưởng 13,2% so với năm 2004. Trong năm 2005, tổng số hạn ngạch hàng dệt may của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ chỉ khoảng hơn 1,6 tỷ USD trong khi ta có khoảng hơn 2.000 doanh nghiệp với công suất sản xuất và xuất khẩu khoảng 9 - 10 tỷ USD. Như vậy chúng ta vẫn chưa tận dụng được hết công suất sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong ngành hàng dệt may. Dự kiến 2006, hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ chỉ tăng 6-7% so với năm 2005. Việc hướng dẫn giao và thực hiện hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2006 được trình bày cụ thể trong Thông tư Liên bộ Công nghiệp và thương mại số 18/2005/TTLB - BTM-BCN, ngày 21/10/2005. Theo Thông tư này quy định: Kể từ ngày 01/01 đến ngày 30/6 Liên Bộ sẽ cấp visa tự động cho tất cả 25 chủng loại mặt hàng dệt may, trong thời gian đó nếu có chủng loại mặt hàng nào đạt tỷ lệ thực hiện khoảng 70% số lượng hạn ngạch cả năm 2006 thì Liên bộ sẽ phân giao hạn ngạch trên cơ sở thành tích xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2006 và nhu cầu xuất khẩu của thương nhân, đến thời điểm 30/6/2006 những chủng loại mặt hàng chưa đạt đến mức 70% sẽ được tiếp tục cấp visa tự động, trường hợp cần thiết, Liên Bộ sẽ có thông báo việc điều hành tiếp theo của các chủng loại đã đạt mức 90% số lượng hạn ngạch của chủng loại đó trong 2006. Tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ trong cả năm 2005 còn quá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 2,5 - 2,6% (2,262 tỷ USD/95 - 100 tỷ USD). Cần khẳng định rằng, ngành dệt may tuy chiếm vị trí chủ lực trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, đứng vị trí thứ hai sau xuất khẩu dầu thô, nhưng chỉ mới đứng ở vị trí hết sức khiêm tốn trên thị trường dệt may thế giới. Cũng theo thông tư này, thương nhân có thể tự nguyện đăng ký, ký quỹ/ bảo lãnh đối với tất cả các chủng loại mặt hàng để đảm bảo số lượng hạn ngạch sẽ được sử dụng năm 2006. Trường hợp số lượng đăng ký quỹ/bảo lãnh vượt nguồn hạn ngạch, Liên Bộ sẽ ưu tiên đảm bảo giao hạn ngạch cho các thương nhân có thành tích xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2005 và hợp đồng ký với khách hàng lớn Hoa Kỳ. Như vậy, qua thông tư 18/2005/TTL/BTM - CN và các cuộc tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ tháng 01/2006, có thể nói cơ chế điều hành hạn ngạch năm 2006 là hết sức rõ ràng, thông thoáng, tạo mọi điều kiện cho thương nhân chủ động trong việc ký kết hợp đồng cho các lô hàng năm 2006. Để hiểu rõ hơn về quy trình điều hành và thực hiện hạn ngạch chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua thông tư Liên bộ công nghiệp và Thương mại số 18/2005/TTLT - BTM - BCN, ngày 21/10/2005 về việc: hướng dẫn việc giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2006. Theo thông tư này thì đối tượng được phân giao và thực hiện hạn ngạch bao gồm các thương nhân có đầy đủ các điều kiện sau: - Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đã đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có giấy phép đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Có năng lực sản xuất hàng dệt may - Phải đảm bảo có sở hữu hợp pháp tối thiểu 100 máy may công nghiệp (loại máy 1 kim và 2 kim) đang hoạt động ở tình trạng tốt. Số lượng máy móc thiết bị tối thiểu nêu trên phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh sở hữu hợp pháp của thương nhân. Đối với chúng loại hàng không dùng máy may công nghiệp để sản xuất thì thương nhân phải có sở hữu đủ lượng máy móc thiết bị, nhà xưởng phù hợp với yêu cầu sản xuất chủng loại sản phẩm dệt may đăng ký xuất khẩu đó. Số lượng máy đi thuê (không phải thuê mua tài chính) không được tính là sở hữu của thương nhân. Khi có nhu cầu xuất khẩu chủng loại hàng quản lý hạn ngạch, thương nhân mới (thương nhân chưa có thành tích xuất khẩu chủng loại hàng có hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ) cần có văn bản đề nghị Sở Thương mại/Thương mại và Du lịch tại địa phương tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành và sẽ được xét tham gia thực hiện hạn ngạch sau khi Ban điều hành Hạn ngạch dệt may nhận được báo cáo của đoàn kiểm tra. - Thương nhân phải có nhân viên có trình độ, năng lực về xuất khẩu và am hiểu chính sách thương mại để làm thủ tục về hạn ngạch và giấy tờ nhập khẩu. Như vậy hàng dệt may của Việt Nam được xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ chủ yếu qua hạn ngạch (chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu). Hiện nay Hoa Kỳ tiếp tục là một trong những khu vực thị trường quan trọng nhất của Việt Nam với thị phần đạt 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên dệt may Việt Nam vẫn phải đứng trước rất nhiều khó khăn để có thực hiện được mục tiêu trong năm nay và ngày càng đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ. Số liệu thống kê của Hoa Kỳ năm 2005 cho thấy ưu thế trên thị trường hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ sau thời điểm 01/01/2005 đã thuộc về các quốc gia Châu á như Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Hàn Quốc, các nước ASAN…. và thị phần của ngành sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ luôn trên đà thu hẹp. 2.2. Chính sách thương mại của Mỹ ảnh hưởng tới việc xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong thời gian qua Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ giới hạn ở thương mại hàng hóa mà còn mở rộng ra các lĩnh vực khác như dịch vụ, sở hữu trí tuệ đem lại các lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì thế, phấn đấu cho nền thương mại tự do toàn cầu là mục tiêu của nhiều quốc gia thế giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cụ thể là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều mà các biện pháp bảo vệ bằng thuế quan và phi thuế quan ra đời nhằm bảo vệ nền sản xuất nội địa. Mức độ cần thiết và lý do sâu xa dẫn đến việc bảo hộ sản xuất nội địa của từng nước cũng khác nhau, đối tượng cần bảo hộ cũng khác nhau khiến cho hàng rào phi thuế quan càng trở nên đa dạng hơn. Với một nước đang phát triển như Việt Nam thì đối tượng bảo hộ là các ngành sản xuất quan trọng, tuy còn non trẻ nhưng có khả năng phát triển trong tương lai. Do vậy, cũng với mục đích bảo hộ ngành sản xuất trong nước những trợ giúp của các Chính phủ cho xuất khẩu hàng hóa của các Quốc gia trong đó có Việt Nam, Hoa Kỳ cũng tiến hành áp dụng các biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất nội địa của mình để đối phó với những bảo hộ đó. 2.2.1. Thuế quan Thuế nhập khẩu tùy thuộc vào phân loại sản phẩm theo hệ thống thuế điều hòa của Hoa Kỳ mà cơ quan thuế sẽ tính cho các sản phẩm. Từ sau khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết (sau năm 2000) Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc MFN, thuế quan đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã giảm từ 40% xuống còn 20%. Như vậy, giảm thuế quan làm cho giá hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam và Hoa Kỳ giảm rất nhiều và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Loại thuế mà bất kỳ doanh nghiệp nào ở quốc gia nào cần chú ý nhất là thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng. Thuế chống bán phá giá (antidumping duties - Ads) là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu để bán ở Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá trị đúng của thị trường (tức là thấp hơn giá bình thường ở nước sản xuất và nước sản xuất là nước có nền kinh tế thị trường). Còn thuế đối kháng (countervailing duties - CVDs) là thuế đánh vào hàng hóa được hưởng trợ cấp xuất khẩu mà chính phủ nước đó cấp cho người xuất kho xuất khẩu hàng hóa vào Hoa Kỳ, việc trợ cấp này làm cho giá hàng thấp một cách giả tạo và gây thiệt hại cho người tiêu dùng Hoa Kỳ. Theo quy định của luật pháp thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ chịu trách nhiệm theo dõi các luật chống bán phá giá và luật thuế đối kháng. Khi xác định có tình trạng này thì Bộ thương mại sẽ áp dụng mức thuế chống phá giá và thuế đối kháng cho hàng nhập khẩu đó. ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) chịu trách nhiệm xác định những thiệt hại do việc bán phá giá và trợ cấp giá gây ra, do một ngành công nghiệp của Hoa Kỳ có liên quan đến mặt hàng bị tố cáo. Các cơ quan Hải Quan Hoa Kỳ có trách nhiệm đánh thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng với mức do Bộ Thương mại xác định và sau khi nhận được xác nhận của ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ về vấn đề này là đúng. Trên thực tế, Mỹ rất hay áp dụng hai luật thuế này nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu ồ ạt vào Mỹ với giá rẻ, tổn hại đến các ngành sản xuất trong nước và hầu như là các doanh nghiệp Mỹ đều thắng kiện. Một ví dụ điển hình cho các doanh nghiệp Việt Nam là vụ kiện bán phá giá cá tra các basa. Các doanh nghiệp sản xuất thủy sản Mỹ đã thắng kiện trong vụ này và hàng Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. Chính vì thế mà trước khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần nghiên cứu kỹ về vấn đề này và học hỏi kinh nghiệm của các doanh nghiệp đi trước. Về ưu đãi thuế quan, Mỹ có hai ưu đãi lớn nhất về thuế quan cho các nước thông qua Quy chế Tối huệ Quốc (MFN) và hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Quy chế Tối Huệ Quốc (hay còn gọi là quan hệ thương mại bình thường NTR) là Hoa Kỳ sẽ dành đối xử bình đẳng về thương mại (đặc biệt là thuế quan) giữa các nước được hưởng quy chế MFN. Hiện nay, Hoa Kỳ đã dành quy chế MFN cho tất cả các nước đã ký Hiệp định GATT 1947, tất cả các thành viên WTO và hầu hết các quốc gia mà tuân thủ điều khoản Jackson - Vanik đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Việt Nam đã được hưởng quy chế này từ khi hiệp định song phương có hiệu lực 10/12/2001. Các nước chưa được hưởng quy chế này phải chịu mức thuế suất phi tối huệ quốc (Non - MFN) nằm trong khoảng 20-110% cao hơn nhiều so với thuế suất MFN. Cò hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) là hệ thống ưu đãi đơn phương không kèm các điều kiện có đi có lại mà luật Thương Mại Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Mỹ toàn quyền dành cho các nước phát triển ưu đãi thuế quan bằng không đối với một số sản phẩm từ nước đó vào Mỹ và có toàn quyền rút bỏ. Hiện nay, Mỹ đã áp dụng chế độ ưu đãi này cho trên 4450 sản phẩm từ trên 150 nước và lãnh thổ đang phát triển trong đó có các nước Thái Lan, Malaysia, ấn Độ, Pakistan, Philipines là những nước xuất khẩu hàng dệt may rất mạnh vào Mỹ. 2.2.2. Hạn ngạch Hạn ngạch nhập khẩu (import quota) bán hàng theo luật, chỉ thị hoặc công bố bởi cơ quan có thẩm quyền do luật pháp quy định với mục đích kiểm soát số lượng nhập khẩu mặt hàng nào đó trong một thời gian nhất định. Hầu hết các hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan Hoa Kỳ (US Custom Service) quản lý. Cục Trưởng Cục Hải quan kiểm soát việc nhập khẩu hành theo hạn ngạch nhưng không có quyền cấp hay tăng, giảm hạn ngạch. Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm hai loại: - Hạn ngạch thuế quan (Tariff - Rate Quota): Quy định số lượng mặt hàng đó được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Hạn ngạch này không hạn chế về số lượng nhập khẩu mặt hàng này nhưng nếu số lượng vượt quá quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn khi hạn ngạch được sử dụng hết Hải quan ở các cửa khẩu sẽ yêu cầu người nhập khẩu ký quỹ một số tiền ước tính để nộp thuế cho số hàng giao quá số lượng. Thông thường, hạn ngạch này do Tổng Thống Mỹ công bố theo các thỏa thuận thương mại phù hợp với luật thương mại. - Hạn ngạch tuyệt đối (Absulute Quota): Là hạn ngạch giới hạn về số lượng giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ, nếu số lượng vượt quá hạnngạch cho phép sẽ không được nhập vào Hoa Kỳ trong thời hạn của quota. Một số quota là áp dụng chung, còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời gian của quota cho đến khi bắt đầu thời hạn quota mới. Nhìn chung, Hoa Kỳ không giới hạn về hạn ngạch trừ khi trong Hiệp định hàng dệt may ký giữa Hoa Kỳ và các nước có quy định điều này. Tuy nhiên, nếu không có hiệp định dệt may thì theo Luật thương mại Hoa Kỳ, chính phủ Hoa Kỳ vẫn có quyền đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hạn chế đối với các loại hàng dệt may. Hạn ngạch hàng dệt may cũng có hai loại như trên nhưng ngoài ra hàng dệt may muốn xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải có Visa dệt may. Visa dệt may là một ký hậu dưới dạng một tem, dấu do một chính phủ nước ngoài đóng trên hóa đơn hoặc trên giấy phép xuất khẩu. Visa được dùng để kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm dệt may, ngăn cấm nhập khẩu hàng hóa trái phép (chống chuyển tải bất hợp pháp và giao hàng sai hạn ngạch) vào Hoa Kỳ. Một Visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoặc không có hạn ngạch. Hàng dệt may có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần một Visa tùy thuộc vào nước xuất xứ được Hoa Kỳ chấp thuận theo một Visa Agreement ký với từng nước. Tuy nhiên, một Visa hàng dệt may không có đảm bảo cho việc nhập khẩu vào Hoa Kỳ nếu hạn ngạch bị hết hạn (Dose) trong thời gian vận chuyển (tức là giữa thời gian sau khi hàng đã được đóng dấu Visa ở nước xuất khẩu và thời gian hàng đến Hoa Kỳ) thì người nhập khẩu ở Hoa Kỳ cũng không được làm thủ tục nhận hàng cho đến khi hạn ngạch được bổ sung hoặc gia hạn lại. Hiện nay, Hoa Kỳ đang áp dụng hệ thống thông tin Visa điện tử "ELVIS", quy định về việc chuyển các thông tin Visa bằng điện tử liên quan đến hàng dệt từ một quốc gia nào đó cho Hải quan Hoa Kỳ và Việt Nam là một trong những nước áp dụng hình thức này. 2.2.3. Các quy định khác 1. Quy định về nhãn mác ở Mỹ, luật áp dụng chủ yếu về nhãn mác hàng dệt may là luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật nhãn hiệu sản phẩm bằng len 1939. Hầu hết các sản phẩm sợi, dệt khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải được đóng dấu, niêm phong kín và ghi nhãn. Nhãn mác phải được ghi rõ ràng, không tẩy xóa và ghi những thông tin sau: - Tên riêng các loại sợi và tỷ lệ phần trăm trọng lượng của các chất sợi có tổng sản phẩm. - Tên của nhà sản xuất hoặc tên hay số đăng ký "chứng minh" của một hay nhiều người phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt. Số đăng ký "chứng minh" do ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ cấp. - Tên của quốc gia nơi mà sản phẩm được gia công hoặc sản xuất. Ngoài các quy định trên, với các chuyến hàng sợi dệt có giá trị trên 500 USD thì phải ghi thêm các thông tin về nhãn hàng hóa: - Chất liệu sợi hoặc tổng hợp các sợi - Tỷ lệ trọng lượng của mỗi loại sợi có trong sản phẩm - Tên hoặc địa điểm nhận dạng khác của nhà sản xuất hoặc của một hay nhiều người theo quy định của luật xác định sản phẩm sợi dệt được cấp và đăng ký tại ủy ban Thương mại Liên Bang Hoa Kỳ và tên của quốc gia công hay sản xuất. Tất cả các hóa đơn về thông tin hàng dệt sợi phải có hóa đơn về trọng lượng sợi, sợi đơn hay sợi nhân tạo, sợi có dùng cho bán lẻ không và sợi có dùng làm chỉ may hay không. Còn nhãn hàng hóa cho sản phẩm len được quy định theo luật nhãn hiệu sản phẩm bằng len. Theo luật này, sản phẩm len phải bao gồm: - Tỷ lệ trọng lượng của tổng các sợi có trong sản phẩm len - Tỷ lệ trọng lượng tối đa của sản phẩm len, của các chất liệu không phải sợi. - Tên nhà nhập khẩu, tên nhà sản xuất bắt buộc phải ghi khi nhập khẩu sản phẩm len có giá trị đến trên 500 USD và thuộc quy định của luật nhãn hiệu sản phẩm len. Ngoài ra, luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật nhãn hiệu sản phẩm bằng len cũng quy định các chi tiết như loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn vị trí của nhãn hàng hóa trên sản phẩm và bên bao bì. Vì vậy, các nhà xuất khẩu nên tìm hiểu kỹ về hai luật này để không vi phạm về nhãn hàng hóa. 2. Quy định về xuất xứ hàng hóa ủy ban thực hiện hiệp định hàng dệt may sẽ chịu trách nhiệm về việc khai xuất xứ hàng hóa. Tờ khai xuất xứ hàng hóa phải được đính kèm với bất kỳ lô hàng nhập khẩu nào và kết hợp với hải quan để quản lý hạn ngạch nhập khẩu. Bởi hạn ngạch nhập khẩu áp dụng cho các quốc gia khác nhau thì khác nhau nên phải dạ trên xuất xứ của hàng dệt may mới kiểm soát được. Khi nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ phải nộp ngay cho Hải quan Hoa Kỳ tờ khai xuất xứ hàng hóa. Có hai loại tờ khai xuất xứ: tờ khai xuất xứ đơn và tờ khai xuất xứ kép. Tờ khai xuất xứ đơn được dùng khi nhập khẩu hàng dệt may có nguồn gốc xuất xứ từ một quốc gia hoặc chỉ được gia công tại một quốc gia bằng các nguyên liệu sản xuất tại Hoa Kỳ hoặc từ quốc gia khác mà nó đượ sản xuất. Còn tờ khai xuất xứ kép sử dụng khi nhập khẩu hàng dệt may mà được sản xuất hay gia công và/hoặc có chứa các nguyên liệu từ nhiều nước khác. Hải quan sẽ xác định quốc gia xuất xứ dựa trên tờ khai xuất xứ và các quy định về "biến đổi thực chất". Biến đổi thực chất được xác định là nếu hàng dệt may có nguồn gốc từ quốc gia A nhưng được chuyển qua quốc gia B rồi mới xuất khẩu vào Mỹ, nếu như hàng đó không trải qua giai đoạn chế biến hay gia công đáng kể nào thì lô hàng đó sẽ được xem như là xuất xứ từ quốc gia A. Một sản phẩm phải có sự thay đổi về nhận dạng và xác định thương mại, đặc tính cơ bản hoặc giá trị sử dụng thương mại mới được xác định là biến đổi thực chất. Và một lô hàng được chế biến tại nhiều quốc gia khác nhau, quốc gia nào mà tại đó lô hàng trải qua giai đoạn biến đổi thực chất thì quốc gia đó là quốc gia xuất xứ. 3. Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy ủy ban về an toàn sản phẩm tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ giám sát việc nhập khẩu và kiểm tra các lô hàng dệt may nhập khẩu nhằm đảm bảo các tiêu chuẩn của luật về sản phẩm dệt dễ cháy. Và hầu như các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ luật này nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các hiểm họa từ việc các quần áo dễ bén lửa và sử dụng các vật dụng dễ cháy trong nhà. Trong luật này cũng quy định rõ về tính bén lửa đối với hàng dệt may. Trên đây là một số quy định cơ bản cần chú ý khi xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước của luật pháp. Vì vậy, các doanh nghiệp dệt may cần lưu ý mọi vấn đề để tránh rắc rối trong quá trình xuất khẩu. 2.3. ảnh hưởng của các rào cản thuế quan và phi thuế quan tới xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua Các rào cản trong Thương mại quốc tế, dù tồn tại dưới hình thức nào đi nữa đều ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu hàng hóa của tất cả các nước tham gia, trong khi các rào cản đó chủ yếu được dựng lên từ các nước sản phẩm để áp dụng cho các nước đang phát triển, Việt Nam cũng là một nước đang phải chịu những rào cản đó. Dệt may là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, nhưng nó lại phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi các rào cản mà các nước phát triển (điển hình nhất là Hoa Kỳ) dựng lên và những ảnh hưởng đó đã và đang là những trở ngại lớn của xuất khẩu dệt may Việt Nam hiện nay. Những quy định ngặt nghèo và phức tạp về nhãn hiệu hàng hóa của Hoa Kỳ buộc các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phải bỏ ra khá nhiều chi phí để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về nhãn hiệu hàng hoá trước khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Hàng hóa mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của Công ty Hoa Kỳ hoặc nước ngoài sẽ bị cấm nhập khẩu vào Hoa Kỳ trừ khi đã có hồ sơ đăng ký nhãn hiệu ở Hoa Kỳ, đã nộp cho ủy ban hải quan và được lưu giữ theo quy định hiện hành (19 CFR 133.1-133-7). Cũng theo đạo luật nhãn hiệu 1946 thì mọi hàng hóa nhập vào Hoa Kỳ mang tên hoặc nhãn bị cấm bởi luật nhãn hiệu sẽ bị tịch thu và không hoàn trả. Tuy nhiên, nếu có đơn khiếu nại của nhà nhập khẩu trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, giám đốc thuế quan có thể giải tỏa món hàng với điều kiện tháo dỡ hoặc xóa đi các dấu hiệu bị cấm, hoặc hàng hay thùng đánh dấu lại cho phù hợp, hoặc giám đốc thuế quan cảng hay quận có thể cho phép hàng xuất trở ra hoặc phá hủy dưới sự giám sát của thuế quan. Trên thị trường hàng hóa thế giới có rất nhiều nhãn hiệu hoặc thương hiệu của các hãng nổi tiếng trên thế giới. Việt Nam tham gia xuất khẩu vào thị trường thế giới trong đó có Hoa Kỳ với khoảng thời gian không dài và còn rất ít nhãn hiệu hàng hóa hay thương hiệu được đăng ký trên thị trường thế giới. Để xuất khẩu cá doanh nghiệp phải mua bản quyền nhãn hiệu hàng hóa của các hãng nổi tiếng hoặc phải gia công cho nước ngoài nên giá trị gia tăng có được rất thấp. Hiện dệt may là ngành hàng nhập gia công khá lớn từ Hoa Kỳ. Trong khi, để xây dựng và phát triển thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới đòi hỏi phải có nhiều thời gian và chi phí lớn. Mặt khác, theo quy định chung nếu hàng hóa có kiểu dáng tương tự với hàng hóa khác đã được ký nhãn hiệu, thương hiệu sẽ bị xử lý vi phạm kiểu dáng công nghiệp. Như vậy, rào cản về cạnh tranh với các thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng của nước ngoài và rào cản để xây dựng và phát triển thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam đang có ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu dệt may của Việt Nam hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRào cản thương mại đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn hậu Việt Nam gia nhập WTO - thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan