Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý 
rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý 
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm 
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do 
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất 
khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro 
gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của 
cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4228 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Các rủi ro thường gặp trong cuộc sống và điều cần thiết để bảo vệ nó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 3
CHƯƠNG I 
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 
VÀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM 
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 
1. Sự cần thiết về tác dụng của Bảo hiểm phi nhân thọ 
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với 
người bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc 
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện 
đã định trước xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng 
hạn. 
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng nhưu hoạt động sản xuất kinh doanh 
hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người 
vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều 
nguyên nhân, ví dụ như: 
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn, 
sương muối, dịch bệnh v.v.. 
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật. 
Khoa học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện 
thuận lợi cho cuộc sống của con người: nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai 
nạn bất ngờ như tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v.v.. 
- Các rủi ro do môi trường xã hội: Đây cũng là một trong những nguyên 
nhân gây ra rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt 
chẽ - mọi người làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện 
tượng thất nghiệp, trộm cắp; nếu làm tốt cong tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn 
chế được các rủi ro không đáng có như hoả hoạn, bạo lực, v v... 
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con 
người những khó khăn trong cuộc sống như mất việc hoặc giảm thu nhập, phá 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 4
hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của tổ chức, doanh 
nghiệp, cá nhân, v.v.. làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung. 
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau 
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Hiện nay, 
theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với 
rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro 
và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro. 
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tượng tránh 
né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thường 
được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. 
- Tránh né được rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong 
cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những 
biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn 
đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế việc 
đi lại; để tránh các tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy 
hiểm… Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng 
trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được. 
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành 
động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để 
giảm thiểu các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khóa học nâng cao trình 
độ của người lao động hay nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an 
toàn lao động; đề phòng chống hoả hoạn người ta thực hiện tốt việc phòng 
cháy chữa cháy. 
- Giảm thiểu tổn thất: người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các 
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có 
hoả hoạn, để giảm thiểu tổn thất, người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng 
được; hay trong một tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt hại về người 
và của người ta đưa ra ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều 
trị. 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 5
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn 
chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể 
lường hết được hậu quả. 
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận 
rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra 
với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. 
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự 
chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro 
là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận 
rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và 
chấp nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn 
thất không có sự chuẩn bị trước và họ có thể phải vay mượn để khắc phục hậu 
quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quĩ dự trữ dự 
phòng và quỹ này được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy 
nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu 
hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi 
suất… 
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý 
rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý 
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm 
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do 
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất 
khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro 
gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của 
cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tài chính cũng như các nhu cầu 
của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và khôn thể thiếu đối 
với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 6
tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở 
rộng. 
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, 
với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang 
lại lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơnvị có tham gia 
bảo hiểm. 
Tác dụng đó được thể hiện: 
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi 
thường những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo 
hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất 
kinh doanh… 
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí tạo 
thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn 
để đầu tư phát triển kinh tế… 
- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thương mại còn đóng góp tích luỹ cho 
ngân sách… 
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp 
để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại. 
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức; giúp họ 
yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể 
hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc. 
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các 
nước, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v.. 
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp 
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo hiểm các 
nước thu hút 1% lực lượng lao động xã hội). 
2. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ 
Để không ngừng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất 
nước, bảo hiểm phi nhân thọ đã luôn chú trọng phát triển các nghiệp vụ nhằm 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 7
đa dạng hoá sản phẩm Bảo hiểm, đáp ứng được nhu cầu da dạng và phong 
phú của con người. Hiện nay nếu căn cứ vào đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ 
được chia làm 3 loại: 
- Bảo hiểm tài sản 
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự 
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ. 
2.1. Bảo hiểm tài sản 
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu 
động) của người được bảo hiểm. Ví dụ như: Bảo hiểm cho thiệt hại vật chất 
xe cơ giới, bảo hiểm cho hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hoá 
xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp. 
Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau: 
a) Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số 
tiền bồi thường mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp 
không được vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ 
xe máy tham gia bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu 
đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, số 
tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 
8 triệu đồng. 
b) Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ ba 
có lỗi và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. 
Theo nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ được 
hưởng các quyền và hành động của người bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi 
trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm 
đảm bảo quyền lợi của người bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm 
của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường. 
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn lỗi một phần là của xe ô tô đi ngược 
chiều (70%). Lúc này, thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy sẽ được truy cứu 
rách nhiệm 5,6 triệu đồng của ông chủ xe ô tô (70% x 8 tr.đ = 5,6 triệu đồng). 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 8
Sau khi bồi thường 8 triệu đồng theo hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cho chủ 
xe máy, công ty bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách 
nhiệm 5,6 triệu đồng đối với chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng, 
và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận số 
tiền bồi thường vượt quá 8 triệu đồng thiệt hại, như vậy nguyên tắc bồi 
thường được đảm bảo. 
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp 
pháp, đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha 
mẹ… của người được bảo hiểm. 
c) Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tượng bảo hiểm 
đồng thời được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro 
với những người bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều 
kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo 
hiểm từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng 
bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trung. 
Trong trường hợp có bảo hiểm trung, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra 
để giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trung liên quan đến sự gian lận của 
bên tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, 
công ty bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian 
lận. Ngược lại, nếu các công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, 
trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ 
trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể: 
Số tiền bồi thường;của từng hợp đồng = Giá trị;thiệt hại;thực tế x 
Error! 
Trên thực tế, một trong số các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho 
đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt 
hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các công ty khác phần trách nhiệm của họ. 
d) Một số chế độ bồi thường bảo hiểm áp dụng trong bảo hiểm tài sản 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 9
- Chế độ bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vượt giới hạn (theo mức 
miễn thường): 
Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị 
thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận (mức miễn thường). Miễn 
thường là một hình thức từ chối bồi thường của công ty bảo hiểm dựa trên 
một số tiền quy định. Có hai loại miễn thường: Miễn thường có khấu trừ và 
miễn thường không khấu trừ. 
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ tổn thất được bồi 
thường phải đảm bảo yêu cầu lớn hơn mức miễn thường quy định nhưng khi 
bồi thường sẽ bị trừ đi mức miễn giảm này. 
Số tiền bồi thường;bảo hiểm = Giá trị thiệt hại;thực tế - 
Mức miễn;thường 
Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho 
những tổn thất vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bồi thường không bị 
khấu trừ theo mức miễn thường: 
Số tiền bồi thường;bảo hiểm = Giá trị thiệt hại;thực tế 
Chế độ miễn thường được áp dụng nhằm loại trừ các hao hụt tự nhiên 
thương mại thường phát sinh trong quá trình chuyên chở đối với một số loại 
hàng hoá đặc biệt ra khỏi trách nhiệm của người bảo hiểm. Tránh cho người 
bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm đồng 
thời dành một tỷ lệ không bồi thường để bên được bảo hiểm cùng chịu trách 
nhiệm và có ý thức hơn trong đề phòng hạn chế rủi ro. 
- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ 
Có hai loại bảo hiểm được áp dụng: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị bảo 
hiểm (STBH/GTBH) và tỷ lệ số phí đã nộp. Tỷ lệ STBH/STBH được áp dụng 
trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị: 
Số tiền;bồi thường = Giá trị thiệt hại;thực tế x Error! 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 
SV: NguyÔn Hoµng Trung - B¶o hiÓm 43B 10
Còn trong trường hợp có sự khai báo có sự khai báo không chính xác 
rủi ro, bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ thứ hai để thanh toán nếu chấp nhận 
bồi thường: 
Số tiền; bồi thường = Giá trị;thiệt hại thực tế x Error! 
- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên: 
Số tiền bồi thường bảo hiểm được trả sẽ dựa vào số tiền bảo hiểm được 
thoả thuận , tức là: 
Số tiền bồi thường  số tiền bảo hiểm 
2.2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự 
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản còn có các nghiệp vụ bảo 
hiểm trách nhiệm dân sự như : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo hiểm 
TNDS của chủ lao động , Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo hiểm trách 
nhiệm công cộng, …Theo luật dân sự , trách nhiệm dân sự của một chủ thể ( 
như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp…) được hiểu là trách 
nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, về con người… gây ra cho 
người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự bao gồm trach 
nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông 
thường các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân 
sự ngoài hợp đồng. 
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của 
người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên 
trong loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự 
cần được bảo đảm và cũng thường là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ 
hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong 
bảo hiểm trách nhiệm dân sự là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại 
trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ người bảo hiểm với 
tư cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân 
sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với người 
bảo hiểm. 
Cli
ck
 to
 bu
y N
OW
!PD
F-X
Change View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m C
lic
k t
o b
uy
 NO
W!P
DF
-
XCha
nge
 View
er
w
w
w
.docu-track
.
co
m