Cơcấu lại mô hình tổchức của NHTM, tăng cường sựkiểm tra,
kiểm soát đểtăng chất lượng tín dụng, dịch vụngân hàng, đảm bảo quyền
tựchủcủa ngân hàng trong việc ra quyết định. Quản lý tín dụng theo
hướng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thịtrường, giảm dần sựbảo hộ
của nhà nước, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các thiết
chếquản lý rủi ro, giảm thiểu rủi ro và tăng năng lực tài chính. Đánh giá
đúng thực trạngtài chính của các NHTM đồng thời xây dựng chiến lược
đào tạo và sửdụng nhân viên theo hướng đáp ứng được yêu cầu kinh
doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Nhưvậy mới có thểlàm cho các
NHTM của Nhật Bản đạt trình độcủa các đối tác phương Tây.
Ngoài ra, trong chương trình “Big Bang” còn đưa ra một loạt các cải
cách nhưmởrộng sựlựa chọn cho các nhà đầu tưvà những người đi vay.
Trong đó có các biện pháp nhưxoá bỏhoàn toàn lệnh cấm đối với những
dẫn xuất chứng khoán, giới thiệu tài khoản quản lý tài sản, cho phép các
ngân hàng bán các tín thác đầu tưvà bảo hiểm, tăng khảnăng thanh toán
tiền mặt của tài sản bằng việc sửdụng chứng khoán dựa vào tài sản, tựdo
hoá giao dịch vốn xuyên quốc gia và tiền gửi từnước ngoài về. Luật Sửa
đổi vềngoại hối đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ1/4/1998.
57 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách kinh tế của Chính phủ”.
Điều này có nghĩa là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không
giống với đồng sự của họ ở Đức hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2
nước này không đựoc phép nhận xét công khai về chính sách tài chính ngay
cả khi nó không phù hợp với sự lựa chọn trong chính sách tiền tệ. Điều 37
và 38 khi nói về trường hợp cho vay khẩn cấp thì lại thiếu sự phân biệt giữa
việc bảo vệ hệ thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của Chính phủ
trong việcgiúp đỡ cho vay đối với các tổ chức. Với vai trò người cho vay
cuối cùng, về nguyên tắc BOJ chỉ cho những ngân hàng có khả năng trả nợ
được vay nhưng điều 37 của Luật lại ghi “khi các tổ chức tài chính thiếu
vốn tạm thời ngoài dự đoán do những tai nạn ngẫu nhiên mà không thanh
toán được” thì BOJ có thể cho vay. Ngoài ra điều 38 còn nói Bộ Tài chính
có thể yêu cầu BOJ cho vay trong những trường hợp khác như “khi thấy
cần thiết phải duy trì hệ thống theo trật tự nếu thấy tình trạng kinh doanh và
25
tài sản của một số tổ chức tài chính có thể có vấn đề dẫn đến phá vỡ trật tự
tài chính”. Điều đó không nói rõ là BOJ có thể từ chối những yêu cầu hoặc
đưa ra điều kiện gì không.
Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW luôn gặp phải
những vấn đề khó sử trước đây. Chính phủ các nước đều đã có lúc gây áp
lực với NHTW trong việc thay đổi chính sách lãi suất để có những khoản
vay với lãi suất thấp hơn cho những hoạt động của Chính phủ. Điều 34 nói
BOJ có thể cho vay không cần thế chấp đối với Chính phủ, hoặc mua trái
phiếu hoặc ghi nợ trong giới hạn của Luật Ngân sách mà Quốc hội dặt ra.
Như vậy, việc áp dụng luật NHTW sửa đổi cho phép tạo lập môi
trường pháp lý phù hợp với tiêu chwnr quốc tế về quyền tự chủ, tính minh
bạch và các nhân tố quan trọng khác của NHTW. Đây là những điều kiện
cần thiết để chiếm được lòng tin của thi trường. Với Luật sửa đổi này phạm
vi can thiệp của Chính phủ với BOJ đã bị thu hẹp, tuy nhiên BOJ cũng phải
luôn duy trì mối quan hệ gần gũi và trao đổi quan diểm với Chính phủ một
cách đầy đủ để đảm bảo chính sách của BOJ hài hoà với chính sách kinh tế
của Chính phủ. Luật ngân hàng mới nhấn mạnh khái niệm “minh bạch” với
quy định rằng BOJ sẽ thông báo ra công chúng nội dung các quyết định
cũng như quá trình ra quyết địnhcó liên quan tới vấn đề quản lý tiền và
ngoại hối. Có thể thấy cuộc cải cách đối với BOJ tương đối toàn diện vì
không chỉ về cơ cấu luật pháp bên ngoài mà còn về cấu trúc và động lưc
bên trong của nó, tạo điều kiện để BOJ trở thành một ngân hàng hiện đại
theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đã được chứng minh trong thời gian 4
năm qua khi BOJ luôn kiên định duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ của
mình với việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt, can thiệp kịp thời vào thị trường
ngoại hối. Chẳng hạn, trong thời gian qua khi đồng Yên lên giá quá mức,
tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu của Nhật Bản. Chỉ tính từ cuối tháng
5/ 2002 đến đầu tháng 7/2002, BOJ đã 7 lần tung đồng Yên ra để mua Đôla
Mỹ và trong lần can thiệp thứ 6, BOJ đã yêu cầu Cục dự trữ Liên bang Mỹ
và NHTW châu Âu giúp cho việc bán đồng Yên. Đây là lần đầu tiên BOJ
có sự phối hợp với NHTW của các nước khác.
b. Đối với các NHTM
26
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng
và có thể hiểu đó là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có nhiều
loại hình NHTM như NHTM công, NHTM tư, NHTM trong nước, NHTM
nước ngoài, NHTM toàn quốc, NHTM địa phương, NHTM duy nhất hoặc
NHTM mạng lưới, dựa trên tiêu thức doanh số người ta phân biệt NHTM
nhỏ, NHTM lớn hoặc siêu lớn.
NHTM có 3 chức năng: trước hết, NHTM hoạt động với tư cách là
một trung gian tín dụng. Một mặt, thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã
hội bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ
quan nhà nước. Mặt khác, nó ding chính số tiền đã huy động được để cho
vay đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi có nhu cầu bổ sung vốn.
Thứ hai, NHTM là một trung gian thanh toán vì phần lớn các khoản chi trả
về hàng hoá, dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng. Chức
năng thứ 3 của NHTM là nguồn bổ sung tiền. NHTM có thể bổ sung tiền
bằng cách chuyển khoản hay các giấy tờ có giá trị để thay thế cho tiền mặt.
Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc NHTW, NHTM góp phần
thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phương tiện giao dịchcủa toàn xã hội. Quá
trình bổ sung tiền của NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Song, số
tiền đó được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế
thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Khả năng làm tăng tiền của
NHTM phụ thuộc vào các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dôi
dư và tỷ lệ giữa tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi của xã
hội ở hệ thống ngân hàng. Việc quản lý hoạt động của NHTM cần đảm bảo
khả năng thanh toán thường xuyên đối với khách hàng, bảo đảm mức sinh
lời cao, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh
toán và mức sinh lời cao. Muốn vậy, NHTM phải sắp xếp tài sản Có theo
trật tự lỏng của chúng để bố trí cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn, đầu tư chứng khoán trung và dài hạn trong mối tương
quan với các nguồn vốn tương ứng bên tài sản Nợ.
Cho đến trước những năm1990, hệ thống ngân hàng Nhật Bản nói
chung và các NHTM Nhật Bản nói riêng luôn hoạt động dưới chế độ bảo
hộ của Chính phủ. Chính phủ đảm bảo lợi nhuận ổn định cho các ngân
hàng dù ở mức thấp nhất. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng để có được
27
nhiều tiền gửi cho đến những năm 1980 được xem là hết sức hợp lý vì có
nhiều đơn xin vay vốn đầy hứa hẹn và một sự đảm bảo lợi nhuận nhất định
bằng tiền những quy dịnh về lãi suất của Nhà nước.Tuy nhiên sự ổn định
lãi suất ngân hàng và quản lý ngân hàng dần dần suy giảm do những thay
đổi của môi trường kinh tế trong nước cũng như trên thế giới như: tự do
hoá lãi suất, cạnh tranh lớn hơn trong thị trường vốn, đơn xin vay có nhiều
hứa hẹn giảm do nền kinh tế đã phát triển tương đối hoàn chỉnh. Sự bảo hộ
của Nhà nước cộng thêm với sự thay đổi trong môi trường tài chính toàn
cầu đã làm cho phương thức quản lý của các NHTM Nhật Bản trở nên lạc
hậu, kém hiệu quả. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng thì hệ thống
ngân hàng Nhật Bản thực sự rơi vào khủng hoảng vì sự quản lý lỏng lẻo
của ngân hàng trong việc cho vay tràn lan, không giám sát, không thẩm
định chặt chẽ tài sản và tình hình kinh doanh của các công ty dẫn đén sự
bùng nổ của các khoản nợ khó đòi. Tháng 3 năm 1997, BOJ cũng như Bộ
Tài chính mới coi vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng là vấn đề cấp thiết.
Để vực dậy hệ thống ngân hàng, cuộc đại cải cách tài chính “Big Bang” đã
đưa ra những giải pháp dài hạn cơ cấu lại các NHTM. So với các nước phát
triển khác, các NHTM của Nhật Bản hiện tại khả năng sinh lời thấp, chất
lượng tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ và mô hình tổ chức quản lý
còn chưa tốt. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập thì cần
phải có kế hoạch tổng thể cơ cấu lại NHTM, cụ thể là:
Lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các
NHTM. Trước hết, phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết
tài sản, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5% tổng dư nợ theo
tiêu chuẩn quốc tế thông qua việc thành lập Ban Cơ cấu tài chính các
NHTM và công ty mua bán, giải quyết nợ. Tăng vốn điều lệ cho các
NHTM nhằm đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ vốn tự có theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM, tăng cường sự kiểm tra,
kiểm soát để tăng chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đảm bảo quyền
tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết định. Quản lý tín dụng theo
hướng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thị trường, giảm dần sự bảo hộ
của nhà nước, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các thiết
chế quản lý rủi ro, giảm thiểu rủi ro và tăng năng lực tài chính. Đánh giá
28
đúng thực trạngtài chính của các NHTM đồng thời xây dựng chiến lược
đào tạo và sử dụng nhân viên theo hướng đáp ứng được yêu cầu kinh
doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Như vậy mới có thể làm cho các
NHTM của Nhật Bản đạt trình độ của các đối tác phương Tây.
Ngoài ra, trong chương trình “Big Bang” còn đưa ra một loạt các cải
cách như mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những người đi vay.
Trong đó có các biện pháp như xoá bỏ hoàn toàn lệnh cấm đối với những
dẫn xuất chứng khoán, giới thiệu tài khoản quản lý tài sản, cho phép các
ngân hàng bán các tín thác đầu tư và bảo hiểm, tăng khả năng thanh toán
tiền mặt của tài sản bằng việc sử dụng chứng khoán dựa vào tài sản, tự do
hoá giao dịch vốn xuyên quốc gia và tiền gửi từ nước ngoài về. Luật Sửa
đổi về ngoại hối đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/4/1998.
Với mục đích cứu trợ cho những ngân hàng yếu kém, cung với kế
hoạch rót 13 nghìn tỷ Yên, Chính phủ còn đề nghị khoản tiền trị giá 50
nghìn tỷ Yên trái phiếu bảo đảm của Chính phủ vào tháng 2/1998, trong đó
17 nghìn tỷ Yên sẽ chuyển cho công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản để
thanh toán cho những người gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng
thanh toán cho những người gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng
thanh toán. Cuối tháng 6/1998, Nhật Bản đưa ra sáng kiến thành lập ngân
hàng cầu nối để giải quyết các vụ phá sản tài chính. Ngân hàng này sẽ kế
thừa và quản lý hoạt động của các tổ chức tiền tệ phá sản, đảm bảo quyền
lợi cho người gửi, thanh toán nợ lần, thực hiện các dự án đầu tư và cho vay
đối với những khách hàng có khả năng thanh toán cao. Ngân hàng này sẽ
duy trì hoạt động của tổ chức tiền tệ đó trong 2 năm kể từ khi phá sản. Sau
2 năm nó có thể chuyển thành ngân hàng quốc doanh mới. Chính phủ dự
kiến dành 30 nghìn tỷ Yên từ ngân sách cho ngân hàng này làm vốn hoạt
động, trong đó 17 nghìn tỷ Yên để bảo vệ người gửi và 13 nghìn tỷ Yên để
cho vay và đầu tư. Ngoài ra, Chính phủ còn lập ra một quỹ trị giá 22 nghìn
tỷ Yên và một cơ quan kiểm soát tài chính nhằm tăng cường thanh tra,
kiểm tra nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng Nhật Bản.
Cuối tháng 9/1998 Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống
ngân hàng Nhật Bản và thành lập một uỷ ban khôi phục tài chính. Các ngân
29
hàng thua lỗ quá nhiều thì cuộc phá sản theo Luật phá sản. Chính phủ sẽ
mua lại cổ phiếu của những ngân hàng bị phá sản hoặc chuyển thành những
ngân hàng cầu nối cho đến khi khu vực tư nhân mua lại, cho phép ngân
hàng mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hoá.
Ngày 12/10/1998, 8 luật liên quan đến các ngân hàng bị phá sản đã được
phê chuẩn, theo đó, Chính phủ có thể bơm tiền vào một số ngân hàng với
một số điều kiện nhất định nếu như tỷ lệ vốn trên tài sản có cao hơn 4%,
Chính phủ sẽ mua cổ phiếu ưu đãi, nếu nằm trong khoảng 2 đến 4% thì
Chính phủ có thể mua cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi nhưng các giám
đốc của ngân hàng phải từ chức, số chi nhánh sẽ phải giảm và các cơ sở của
nó ở nước ngoài sẽ phải đóng cửa, nếu thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm
thời bị quốc hữu hoá, sau đó, phải ngừng hoạt động, sáp nhập với các ngân
hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động của mình. Tất cả những
ngân hàng muốn bơm tiền từ nguồn công quỹ đều phải cải thiện mức thu
nhập trên cổ phần đóng góp thông qua các biện pháp tái cơ cấu, loại bỏ
những tài sản không cần thiết và tăng cường các tài khoản cho vay đối với
khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đảm bảo tính hiệu quả của các chính
sách và các ngân hàng không lặp lại tình trạng cho vay tràn lan như trước
kia, Chính phủ buộc các ngân hàng phải giải trình cụ thể các kế hoạch cải
cách tài chính và cải thiện cách thức cho vay. Quá trình công khai hoá
thông tin và cơ cấu lại các khoản nợ chắc chắn sẽ khiến các ngân hàng và
các công ty tài chính bị thiệt hại nặng nề nhất. Bởi vì việc công nhận thiệt
hại ở các khoản nợ khó đòi và tính lỗ vào doanh thu sẽ không đủ riêu chuẩn
cung cấp những khoản tín dụng mới. Sự trục trặc của các ngân hàng sẽ làm
tăng những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp
vừa và nhỏ vì hoạt động tài chính của hầu hết các doanh nghiệp là dựa vào
các ngân hàng. Do số lượng các doanh nghiệp này chiếm tới 6,47 triệu
trong tổng số 6,53 triệu doanh nghiệp, chiếm 51,4% thị phần sản xuất công
nghiệp, 61,4% bán sỉ và 76,8% bán lẻ, sử dụng tới 80% lực lượng lao động
nên Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi luật doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm
giúp giảm thiểu tác động trái chiều của những cải cách ngân hàng nêu trên
(Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính
Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài
chính, Hà Nội).
30
Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng có kế hoạch sáp
nhập thành các tập đoàn ngân hàng lớn hoặc thành lập liên minh để chuẩn
bị cho việc tự do hoá hoàn toàn hoạt động môi giới. Chẳng hạn, ngân hàng
Sumitomo Trust và công ty Sumitomo, Dai-Ichi Kangyo và Fuji đã sáp
nhập các công ty cổntng lĩnh vực ngân hàng và có kế hoạch mua công ty
quản lý tài sản của Yasuda Trust. Công ty Sumitomo cũng đã cùng với
công ty chứng khoán Daiwa thành lập một công ty chuyên kinh doanh công
trái, cổ phiếu, môi giới sáp nhập và mua lại cổ phiếu. Ngân hàng lớn nhất
Nhật Bản là Tokyo-Mitsubishi cũng đàm phán để mua lại công ty Nomura-
một trong 3 công ty môi giới chính của Nhật Bản. Ba ngân hàng hàng đầu
của Nhật Bản là ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, Dai- Ichi Kangyo Bank
Ltd, và Fuji Bank Ltd. vào đầu năm 2000 đã liên minh với nhau để tạo ra
nhóm ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng tài sản là 140 nghìn tỷ Yên
(1.260 tỷ USD), trong đó giá trị tài sản của Fuji Bank là 385 tỷ USD và của
ngân hàng công nghiệp Nhật Bản là 370 tỷ USD, Dai- Ichi Kangyo Bank là
456 tỷ USD. Trước đó ngày 14/10/1999, hai NHTM lớn nhất Nhật Bản là
Sumitomo Bank và Skura Bank đã chính thức công bố sẽ sáp nhập với
nhau để thành lập một ngân hàng khổng lồ, lớn thứ 2 thế giới với tổng tài
sản là 99 nghìn tỷ Yên (927 tỷ USD) vào tháng 4/2002. Đây là một hướng
đi mới để tăng thêm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Nhật Bản
trong xu thế toàn cầu hoá và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông
tin.
Tuy nhiên các NHTM của Nhật Bản vẫn trong tình trạng làm ăn
không có lãi. Trong hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng trong cả nước đã
sử lý hơn 70 nghìn tỷ nợ khó đòi nhưng vẫn còn nhiều khoản nợ xấu. Vì
vậy, giờ đây để để kiếm lãi ổn định và ít mạo hiểm hơn các ngân hàng chỉ
muốn cho các công ty lớn vay. Trong thời đại ngày nay điểm đến của các
khoản nợ mới là các công ty vừa và nhỏ bởi vì các công ty lớn có thể thu
hút vốn trực tiếp từ thị trường tài chính toàn cầu nên họ không cần dựa
nhiều vào ngân hàng Nhật Bản.
Như vậy, mục cải cách các NHTM của Nhật Bản là Nhằm giảm bớt
sự bảo hộ của Nhà nước, nâng mức lợi nhuận của ngân hàng bằng những
31
hoạt động kinh doanh đa dạng hơn và tiến tới có một hệ thống NHTM có
khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh chungcủa toàn cầu hoá tài chính.
2. Các chính sách cải cách Bộ Tài chính
Đối với Nhật Bản, Bộ Tài chính là nơi thể hiện rõ nhất những đặc
điểm và sắc thái của Nhà nước tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước.
Sức mạnh của Bộ Tài chính lớn đến mức chính sách của Bộ Tài chính là
chính sách của Chính phủ. Thẩm quyền của Bộ Tài chính rất rộng lớn như:
lập dự toán và quyết toán ngân sách, thu thuế các loại, theo dõi hoạt động
của các tổ chức tài chính, quản lý tài sản nhà nước, kể cả đề xuất và thực
hiện tư nhân hoá… Có thể nói không ở nước nào Bộ Tài chính có sự tập
trung quyền lực lớn như ở Nhật Bản. Từ trước đến nay hệ thống tài chính
của Nhật Bản vẫn dựa vào ngân hàng là chính, vì thế các ngân hàng, kể cả
BOJ được coi như một bộ phận của Bộ Tài chính, hoạt động theo các quy
tắc do Bộ Tài chính áp đặt.
Do đó, trong chương trình “Big Bang”, Nhật Bản đã dự định cải tổ
lại Bộ Tài chính theo hướng phân rõ chức năng quản lý nhà nước và giám
sát, tách bớt chức năng vủa các bộ phận theo hướng chuyên môn hoá, đào
tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy, giảm bớt quyền lực
và tăng cường giám sát lẫn nhau, tách chức năng tài chính của Bộ Tài chính
và chức năng quyết sách tiền tệ của BOJ. Chính phủ thực hiện bãi bỏ các
chương trình đầu tư Nhà nước và các quỹ bí mật đi cùng với nó. Chuyển
quá trình huy động vốn đầu tư của các quỹ này theo các nguyên tắc của
kinh tế thị trường. Như vậy, vai trò của Bộ tài chính là làm sao định ra
những quy chế phù hợp để các ngân hàng hoạt động và phát triển chư
không phải can thiệp vào hoạt động kinh doanh hoặc tuỳ tiện áp đặt các
quyết sách của mình.
3. Các chính sách về lãi suất tín dụng
Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất cũng được sử dụng với
mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất
nhằm phục hồi mức tăng trương kinh tế và chống lại tình trạng giảm phát.
Mặc dù trước năm 1998, lãi suất các loại đã ở mức rất thấp nhưng đến
32
tháng 2/1999 BOJ đã thực hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi
suất bằng 0 ngoài mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư,
còn nhằm giảm đi số tiền lãi cần phải trả khi nợ của Chính phủ và nợ của
các công ty đã phình ra tới mức có thể nguy hại nền kinh tế Nhật Bản. Việc
áp dụng chính sách lãi suất trên đã góp phần làm cho kinh tế Nhật Bản có
sự chuyển biến tích cực khi mức tăng trưởng đạt 0,5% năm 1999 so với
mức tăng – 1,9% năm 1998. Đến tháng 8/2000 NHTW Nhật Bản lại ra
thông báo xoá bỏ chính sách lãi suất bằng 0 (xem bảng: Mức lãi suất của
Nhật Bản 1994 – 2002). Nhưng tình trạng trì trệ trong nền kinh tế sau đó đã
cho thấy sự xoá bỏ chính sách này là chưa đúng lúc. NHTW lại thông qua
chính sách lãi suất bằng 0 vào tháng 2/2001 và giới thiệu phương thức cho
vay theo kiểu Lombard (là cách cho vay thế chấp chứng khoán, tín dụng),
cộng thêm sự nới lỏng hơn về số lượng cho vay.
Bên cạnh việc thực hiện chính sách lãi suất bằng 0, còn có những
biện pháp khác để giúp các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng,
giảm phí dịch vụ trong việc mua bán các giấy tờ có giá… Hiện nay, số tiền
gửi của cá nhân và của các công ty vào ngân hàng là hơn 600.000 tỷ Yên.
Trong số đó chỉ có 4 nghìn tỷ Yên được gửi vào BOJ như là khoản dự trữ
bắt buộc, như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là quá thấp so với tiêy chuẩn
quốc tế.
Cho đến nay BOJ vẫn quyết định giữ nguyên mục tiêu dự trữ trong
tài khoản vãng lai của họ ở mức 10 – 15 nghìn tỷ Yên và mức mua trái
phiếu của Chính phủ Nhật Bản hàng tháng ở mức 1 nghìn tỷ Yên, coi đây
như là một phần của chính sách lãi suất bằng 0 và tiếp tục chính sách nới
lỏng tiền tệ cho tới khi nền kinh tế đạt mức lạm phát dương. Việc chuyển
mục tiêu từ lãi suất sang số lượng trong chính sách nới lỏng tiền tệ của BOJ
bắt đầu thực hiện vào tháng 3/2001, theo giáo sư Nariai Osamu của trường
đai học Reitaku là một bước chuyển quan trọng để kéo nền kinh tế ra khỏi
tình trạng giảm phát.
Mức lãi suất của Nhật Bản 1994 – 2002 (%/ năm)
Các loại lãi suất 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
33
Lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn
0,10 0,10 0,10 0,05 0.10 0,02 0,08
Lãi suất có kỳ hạn từ 3
đến 6 tháng
0,475 0,474 0,532 0,221 0,179 0,087 0.035
Lãi suất tiết kiệm bưu
điện không kỳ hạn
0,25 0.25 0,15 0,08 0,12 0,02 0,01
Lãi suất bưu điện kỳ
hạn 3 năm trở nên
0,80 0,45 0,25 0,20 0,20 0,07 0,07
Lãi suất trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 10
năm
2,75 1,99 0,97 1,83 1,66 1,31 1,40
Lãi suất chiết khấu 0,50 0,50 0,50 0,50 0,50 0,10 0,10
Lãi suất cho vay ngắn
hạn
1,62 1,62 1,50 1,37 1,50 1,37 1,37
Lãi suất cho vay dài
hạn
2,50 2,30 2,20 2,20 2,10 1,85 1,75
Lãi suất cho hộ gia
đình vay mua nhà
3,10 3,00 2,20 2,80 2,80 2,60 2,60
(Nguồn: Financial and economic statistic monthly, June 2002, No.39, p.4)
Cho đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện chương trình “Big Bang”,
BOJ vẫn không thay đổi chính sách nới lỏng tiền tệ của mình với việc duy
trì lãi suất thấp và tăng cơ số tiền.
4. Các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo hiểm
a. Về thuế
Thực tế chỉ ra rằng thuế là một vấn đề nhạy cảm và tác động nhanh
tới hoạt động kinh tế. Nhằm làm sống động nền kinh tế sau 2 năm suy thoái
nặng nề 1997 – 1998, và để kích thích tiêu dùng và đầu tư, Chính phủ Nhật
Bản đã tập trung vào việc cải cách thuế, coi đó là một phần trong cải cách
cơ cấu của Nhật Bản. Trong năm tài chính 1999, Chính phủ đã thực hiện
chương trình cắt giảm thuế thường xuyên và thuế chiến lược.
34
Trong cắt giảm thuế thường xuyên thì thuế thu nhập sẽ được cắt
giảm 20% với mức cắt giảm tối đa không quá 250.000 Yên. Mức thuế thu
nhập cao nhất sẽ giảm từ 65% xuống 50%. Thuế nhà ở sẽ được giảm 15%
với mức cắt giảm tối đa là 40.000 Yên. Thuế công ty sẽ được cắt giảm từ
46,36% xuống còn 40,87% với tổng trị giá là 2,3 nghìn tỷ Yên (Nguyễn
Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản
những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà
Nội). Thuế chiến lược bao gồm việc nới lỏng thuế đối với các tài sản cầm
cố trị giá 2,5 nghìn tỷ Yên. Có thể nói đây là chương trình cắt giảm thuế
lớn nhất trong lịch sử của Nhật Bản.
Không giống như các nước công nghiệp khác, ở Nhật Bản thuế trực
tiếp như thuế công ty, thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng hơn thuế gián
tiếp như thuế giá trị gia tăng.
Thời gian gần đây, do kinh tế Nhật Bản suy thoái trầm trọng nên
nhiều công ty đã không nộp thuế, và điều đó đã trực tiếp làm tổn thương
đến ngân khố quốc gia. Vì vậy, Hội đồng chính sách kinh tế và tài chính
Nhật Bản do thủ tướng Kozumi làm chủ tịch đã đưa một loạt đề suất mới
về cải cách thuế. Trong đó coi thuế thu nhập như là mục tiêu hàng đầu cần
thay đổi. Theo đề xuất mới này, mức thuế khởi điểm sẽ được hạ thấp nhằm
mục đích mở rộng diện chịu thuế (tăng số lượng người đóng thuế), giảm
thuế suất tối đa từ mức 75% xuống còn 70%. Trước đây, nhiều gia đình
Nhật Bản không phải đóng thuế vì mức khởi điểm phải đóng thuế thu nhập
còn cao. Ngoài ra, sẽ đánh thuế tài sản nặng hơn, đặc biệt là những vụ mua
bán bất động sản lớn nhằm làm dịu đi sự bất ổn trong thị trường bất động
sản. Thuế đánh vào tài sản thừa kế và quà tặng sẽ giảm nhăm kích thích
tiêu dùng, hiện đang ở mức 5%. Mặc dù đây là cải cách hợp lý nhất nhưng
nó có thể ảnh hưởng xấu đến tiêu dùng như đã xảy ra vào năm 1997, khi tỷ
lệ thuế tiêu dùng tăng từ 3 lên 5%. Các nhà phân tích cho rằng năm nay là
năm thuận lợi nhất để Chính phủ đẩy mạnh cải cách thuế – một hành động
mất lòng dân, vì là năm không có tổng tuyển cử (Tin Kinh tế 25-04-2002).
Chính sách giảm thuế thu nhập có tác động tích cực nếu đó là sự cắt
giảm lâu dài vì đối với người tiêu dùng, một mức thuế thu nhập thấp hơn sẽ
35
kích thích chi tiêu, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp. Nhưng sự cắt
giảm lâu dài lại tiềm ẩn nguy cơ chin ép đầu tư bởi vì lợi tức trái phiếu dài
hạn sẽ gia tăng – hậu quả của gia tăng nợ chính phủ. Ngược lại, một mức
thuế công ty thấp hơn chỉ kích thích đầu tư khi đó là sự cắt giảm tạm thời
bởi vì đầu tư phụ thuộc nhiều vào lợi nhuận, đầu tư quá mức và lòng tin.
Thu thuế ở Nhật Bản tính đến tháng 3/2003 giảm 5,5% xuống còn
47,9 nghìn tỷ Yên, thấp hơn so với dự toán 1,7 nghìn tỷ Yên. Thuế thu từ
các công ty giảm 12,7% so với năm tài chính trước, xuống còn 10,3 nghìn
tỷ Yên, giảm 935 tỷ Yên so với dự toán.
Trong năm tài chính 2002, Nhật Bản dự tính sẽ cắt giảm 1.000 tỷ
Yên thuế công ty và ngày 5/8/2002 Thủ tướng Koizumi đã cắt giảm thêm
1.000 tỷ Yên thuế công ty thêm một năm nữa, nghĩa là năm tài chính 2003
kết thúc vào tháng 3/2004 tạo ra sự cạnh tranh bình dẳng cho các công ty.
Giảm thuế tập trung vào các công ty trong việc tăng cường sử dụng
vốn và nghiên cứu. Thuế công ty của Nhật Bản hiện nay là 40,87% so với
thu nhập, cao hơn chút ít so với Mỹ (40,75%). Nhưng mức này cao hơn
10,84% mức thuế của Anh và 6,54% của Pháp, và cao hơn các nước châu
Á khác 10 đến 15% (Việt Nam News, 12/8/2002).
b. Về thu chi ngân sách của Chính phủ
Mặc dù trong những năm 1990 Nhật Bản đã nhiều lần tiến hành cải
cách thu chi ngân sách, song, đây vẫn là lĩnh vực khó khăn và gay gắt nhất.
Trong khi các nước châu Âu và Mỹ liên tục duy trì những nguyên tắc tài
chính ở trung ương và địa phương để cải thiện thu chi ngân sách, Nhật Bản
trái lại thâm hụt ngân sáchkhông ngừng tăng. Hai nhân tố chính khiến thâm
hụt ngân sách tăng là sử dụng qua mức chính sách tài chính để kích thích
phát triển kinh tế và sự cách biệt giữa lợi ích và chi phí.
Về chi tiêu ngân sách: Trong năm tài chính 2001, Nhật Bản vẫn duy
trì chính sách tăng chi tiêu để kích thích nền kinh tế. Trong tháng 11/2002,
chỉ chưa đến 1 tuần, Chính phủ đã phê chuẩn2 đợt chi ngân sách bổ sung trị
giá 5,5 nghìn tỷ Yên cho năm tài chính 2001 kết thúc vào tháng 3/2002.
36
Trong đó 3 nghìn tỷ Yên được chi cho chương trình việc làm và 2,5 nghìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản.pdf