Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tếhiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của
VND có ý nghĩa quan trọng đối với sựnghiệp phát triển kinh tếvà quá trình hội nhập
Quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽliên kết kinh tếtrong nước với Quốc Tế,
thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút mạnh mẽcác nguồn vốn nước ngoài, tạo vị
thếQuốc Gia trên thịtrường Quốc Tế.
Trong quá trình hội nhập, Chính Phủcũng đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực
đểtăng tính chuyển đổi của VND. Điển hình là Quyết Định số98/2007/QĐ-TTg ngày
04/07/2007 của ThủTướng Chính Phủphê duyệt “ĐềÁn nâng cao tính chuyển đổi của
VND , khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế”.Theo đó đến năm 2010, mục tiêu
đềra là : “ xây dựng cơchế đểViệt Nam tham gia thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao
hiệu lực pháp lý của các quy định vềquản lý ngoại hối, thu hẹp tiến tới xoá bỏviệc niêm
yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệvà kinh doanh ngoại tệtrái phép, xoá bỏchế độ
thanh toán ngoại tệtrong nước, thu hút sốngoại tệtrôi nổi vào hệthống Ngân Hàng,
.Bên cạnh đó, BộKếHoạch và Đầu Tưcho phép nhà đầu tưnước ngoài sửdụng VND
tham gia góp vốn đầu tưtrực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xoá bỏcác quy định về
cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngoài ”
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cải cách tài chính Việt Nam theo hướng tư do hóa trong thời hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài và 5 NH liên doanh. Trong
đó, quan trọng nhất là hệ thống NHTM quốc doanh và NHTMCP.
1991 1993 1995 1997 1999 2001 2005 2006
Ngân hàng TMQD 4 4 4 5 5 5 5 5
Ngân hàng TMCP 4 41 48 51 48 39 37 37
Chi nhánh NHNN 0 8 18 24 26 26 29 31
Ngân hàng LD 1 3 4 4 4 4 4 5
Tổng số 9 56 74 84 83 74 75 78
Bên cạnh sự tăng trưởng về số lượng, quy mô của các ngân hàng cũng tăng trưởng
khá mạnh mẽ. Sự tăng trưởng tập trung vào 2 mảng hoạt động truyền thống là cho vay và
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
10 | P a g e
December 24, 2009
huy động. Tốc độ tăng trưởng hoạt động tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất cao, đạt
trung bình khoảng 30% trong suốt giai đoạn 2002 – 2006.
Bảng 1: Tăng trưởng tín dụng và tiền gửi giai đoạn 2002 – 2006.
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
40.00%
45.00%
2002 2003 2004 2005 2006
Tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tiền gửi
Tăng trưởng GDP
Tuy nhiên, việc tăng trưởng nhanh của tín dụng khiến ngành ngân hàng có nguy
cơ đối mặt với rủi ro lớn hơn khi mà tỷ lệ tín dung/tiền gửi toàn ngành luôn ở mức trên
90%, cao hơn mức trung bình của khu vực (khoảng 83%).
Ngoài 2 mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, các mảng hoạt
động dịch vụ khác của các ngân hàng trong giai đoạn này chưa có sự phát triển mạnh và
đa dạng.
b. CPH NHTM nhà nước diễn ra chậm chạp :
Là những trụ cột của nền tài chính Việt Nam, hệ thống NHTM quốc doanh đã
đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, xu thế hội nhập của nền
kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng tạo ra sức ép cạnh tranh khá lớn, đòi
hỏi phải có những cải cách lớn đối với hệ thống ngân hàng quốc doanh. Vì thế chủ trương
Cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại nhà nước ra đời với nhằm tạo sức bật mới cho hệ
thống ngân hàng trước ngưỡng cửa gia nhập WTO. Nhưng tiến trình này diễn ra hết sức
chậm chạp. Đến trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2007, vẫn chưa
có NHTM nhà nước nào được cổ phần hóa, mặc dù chủ trưởng đã có từ nhiều năm trước
đó.
Giai đoạn 2: Từ sau ngày 07/11/2006 đến nay.
Từ ngày 01/04/2007, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chính thức cho phép
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngành ngân hàng là ngành có tính đặc thù và
được đánh giá là có mức độ cạnh tranh cao nên việc thành lập ngân hàng mới phải đáp
ứng những quy định khắt khe. Ngân hàng mới thành lập phải có vốn điều lệ tổi thiểu
1.000 tỷ đồng và phải đạt 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Room với các nhà đầu tư nước
ngoài vẫn hạn chế ở mức 30%. Các cổ đông chiến lược nước ngoài chỉ được nắm giữ tối
đa 20% vốn điều lệ và các tổ chức này phải có tổng tài sản tối thiểu là 20 tỷ USD. Tuy
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
11 | P a g e
December 24, 2009
nhiên, sức hấp dẫn về tiềm năng tăng trưởng và lợi nhuận của ngành ngân hàng đã khiến
nhiều tổ chức trong và ngoài nước tham gia thành lập ngân hàng mới.
Bảng 2: Số lượng các ngân hàng giai đoạn từ 2006 - 2009
2006 2007 2008 2009
Ngân hàng TMQD 5 5 3 3
Ngân hàng TMCP 37 37 39 39
Chi nhánh NHNN 31 33 39 40
Ngân hàng liên doanh 5 5 5 5
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 0 0 5 5
Tổng số ngân hàng 78 80 91 92
Tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này khá nhanh, đặc biệt vào năm 2007, khi
mà tăng trưởng tín dụng đã lên tới 54% do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng cao,
trong đó bao gồm cả nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản.
Ngoài 2 mảng hoạt động truyền thống, mảng hoạt động dịch vụ cũng có sự phát
triển mạnh mẽ. Các NHTM đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực quản
trị, điều hành trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh
nghiệp và từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi ro. Hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng được đưa vào vận hành năm 2002 và hạ tầng công nghệ thông tin của
ngành ngân hàng được hiện đại hoá một bước góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển
các dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt các dịch vụ thanh toán và ngân hàng điện tử (internet
banking, telephone banking, ATM, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,,,,). Các NHTM Việt Nam
ngày càng hoạt động mang tính chuyên nghiệp và có uy tín hơn với quốc tế. Điển hình là
các NH: ACB, Techcombank, Phương Nam,...
Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ tăng trưởng mạnh cùng với sự tăng
trưởng kinh tế. Theo IMF, số lượng tài khoản ngân hàng tại Việt Nam trong năm 2006
ước tính chỉ ở mức hơn 8 triệu tài khoản, chiếm khoảng 9,4% dân số và tập trung chủ yếu
vào các đối tượng có thu nhập cao tại các khu đô thị và các doanh nghiệp. Phương thức
thanh toán tiền măt vẫn là phương thức thanh toán khá phổ biến. Mặc dù tỷ lệ Tiền
mặt/Tổng phương tiện thanh toán (M2) có xu hướng giảm dần nhưng tỷ lệ này ở Việt
nam vẫn là cao nhất trong khu vực. Điều nay mở ra tiềm năng cho ngành ngân hàng khi
các sản phẩm dịch vụ đã hoàn thiện.
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
12 | P a g e
December 24, 2009
Theo cam kết với WTO về ngành ngân hàng, từ tháng 12/2007, Việt Nam đã chính
thức thực hiện việc cổ phần hóa Ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tiên là
Vietcombank. Tiếp sau đó là Vietinbank và sắp tới là BIDV. Việc đẩy mạnh cổ phần hóa
các ngân hàng thương mại quốc doanh đã góp phần vào việc nâng cao trình độ quản lý,
tinh gọn bộ máy nhân sự, đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng cải cách cơ chế của
hoạt động kinh doanh, giảm bớt sự phụ thuộc vào Nhà nước, đem lại những cơ hội mới
về huy động nguồn vốn dài hạn hiệu quả, nhanh chóng và thuận tiện từ thị trường chứng
khoán.
Cho vay chính sách được tách khỏi cho vay thương mại và chấm dứt tình trạng cơ
quan quản lý nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các TCTD để bảo đảm
các TCTD, kể cả các NHTMNN, thực hiện kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, tối đa
hoá lợi nhuận. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính và các rủi ro
ngày càng được thể chế hóa rõ ràng và thực hiện tương đối hiệu quả, nhất là khu vực
ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Tự do hoá lãi suất - lộ trình tự do hoá ở Việt nam
a. Giai đoạn trước tháng 6/1992 : NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp
vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi
suất âm và mang nặng tính chất bao cấp đựơc duy trì trong suốt thời kỳ này.
b. Giai đoạn từ tháng 6/1992 – 1995 : Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang
cơ chế lãi suất thực dương, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giưã các
thành phần kinh tế, quản lý lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi
và lãi suất tối đa về tiền vay. NHNN cho phép NHTM được thoả thuận lãi suất với khách
hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu –lãi suất huy
động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0.2%/tháng và cho vay cao hơn mức
trần 2.1%/tháng)
c. Giai đoạn từ năm 1996 - tháng 7/2000 : Chuyển quy định khung lãi suất tối
thiểu về tiền gửi – lãi suất tối đa về tiền vay thành quy định các mức lãi suất “trần” theo
thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lại suất cho vay và lãi suất huy động vốn
bình quân 0.35%/tháng. Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ quy định chênh lệch lãi
suất chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay. Tháng 11/1999, NHNN đưa vào sử dụng
nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được
quy định ở mức thấp hơn 0.05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn. Tháng 7/2000, NHNN đ ưa
vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các
phiên giao dịch.
d. Giai đoạn từ giữa năm 2000 đến nay (giai đoạn tiền tự do hoá lãi suất) :
Tháng 8/2000, NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo luật Ngân Hàng để thay thế cho cơ
chế lãi suất trần. Các ngân hàng không đựơc tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ
bản +0.3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung. Dài hạn. Tháng
11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xoá bỏ, từ đó cho phép người vay ngoại tệ
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
13 | P a g e
December 24, 2009
trong nước có thể thương lượng lãi suất với Ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài.
Quyết định số 546/2002 QĐ-NHNN về thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt
động tín dụng là một bước ngoặc lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự
do hoá lãi suất. Hiện nay NHNN đang thông qua việc thực hiện xoá bỏ hoàn toàn công bố
lãi suất cơ bản hàng tháng như hiện nay, tức là chính thức thực hiện tự do hoá lãi suất.
3. Chính sách tỷ giá ở Việt Nam :
Trong điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng điều tiết của tỷ
giá hối đoái bị hạn chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng Trong một thời gian
dài ở nước ta tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng quan
hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền nội
tệ. Có thể nói tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ chỉ là hệ số quy đổi để
các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch và tính toán nội bộ. Tất cả điều đó làm
cho nền kinh tế trong một thời gian dài bị khủng hoảng trầm trọng. Xuất hiện nhiều tỷ giá
khác nhau: tỷ giá chính thức do nhà nước quy định cao và các tỷ giá trên thị trường tự do
theo quan hệ cung cầu.
Trong xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế
thị trường mở, thể chế kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. NHNN Việt
Nam đã chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của
Nhà Nước, là một sự lựa chọn đúng đắn của Nhà Nước trong điều kiện quá trình hội nhập
Việt Nam với Thế giới. Việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết sẽ có các điều lợi
sau: Một là, nó phản ánh kịp thời mọi quan hệ cung cầu trên thị trường, tránh được tình
trạng xác định tỷ giá quá cố định, xa rời thực tế của nền kinh tế. Hai là, sự can thiệp kịp
thời của nhà nước đến tỷ giá sẽ tránh được những biến động không mong muốn có ảnh
hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế-xã hội. Ba là, giúp cho các doanh nghiệp thương mại
có cơ sở để quyết định chính sách kinh doanh của mình, bởi vì họ có thể dự đoán được
một cách tương đối các giá cả, chứ không phải luôn vật lộn với những biến động thất
thường của một chế độ tỷ giá linh hoạt hoàn toàn.
NHNN đã thực hiện việc công bố tỷ giá trên cơ sở tỷ giá bình quân chung trên thị
trường liên ngân hàng và kèm theo biên độ dao động cho phép. Các biên độ tỷ giá này
ngày càng được nới rộng ra : Ngày 1-7-2002, biên độ này được nới từ +/-0,1% lên +/-
0,25%; ngày 31-12-2006, tăng từ +/-0,25% lên +/-0,5% và ngày 7-3-2008, tăng từ +/-
0,75% lên +/-1% và 24-3-2009 biên độ tỷ giá là +/-5%.
III. Khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam
1. Vấn đề đô la hóa :
Đô la hóa (dollarization) được nhìn nhận là một hiện tượng trong đó ngoại tệ được
sử dụng rộng rãi để thay thế một hay nhiều chức năng của đồng nội tệ.
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
14 | P a g e
December 24, 2009
Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ
này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan,
Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010
sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%
Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa chủ yếu là do sự yếu kém của nền kinh tế,
đặc biệt là đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi (hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện,
kinh tế vĩ mô thiếu ổn định,…). Sự bất tiện khi sử dụng đồng nội tệ (về mệnh giá, về hệ
thống thanh toán, về khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ…) cũng là một nguyên nhân làm
suy giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, tạo tâm lý ưa thích ngoại tệ.
2. Nâng cao khả năng chuyển đổi của VND, khắc phục tình trạng đô la hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của
VND có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và quá trình hội nhập
Quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với Quốc Tế,
thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, tạo vị
thế Quốc Gia trên thị trường Quốc Tế.
Trong quá trình hội nhập, Chính Phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực
để tăng tính chuyển đổi của VND. Điển hình là Quyết Định số 98/2007/QĐ-TTg ngày
04/07/2007 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt “Đề Án nâng cao tính chuyển đổi của
VND , khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế”.Theo đó đến năm 2010, mục tiêu
đề ra là : “…xây dựng cơ chế để Việt Nam tham gia thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao
hiệu lực pháp lý của các quy định về quản lý ngoại hối, thu hẹp tiến tới xoá bỏ việc niêm
yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép, xoá bỏ chế độ
thanh toán ngoại tệ trong nước, thu hút số ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống Ngân Hàng,
...Bên cạnh đó, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND
tham gia góp vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về
cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…”
IV. Tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn :
1. Tự do hóa tài khoản vãng lai
Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân
hàng ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng...
Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội đất nước mà các giao dịch
vãng lai này từng bước được nới lỏng. Điều này được thể hiện qua các quy định của Nhà
Nước. Theo Nghị Định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính Phủ về quản lý
Ngoại Hối thì người cư trú là các Doanh Nghiệp, chi nhánh công ty nước ngoài, nhà thầu
nước ngoài , tồ chức tín dụng ở Việt nam,… được mua ngoại tệ bằng VND để thanh toán
cho các giao dịch vãng lai hay các giao dịch được phép khác. Ngoài ra, một số đối tượng
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
15 | P a g e
December 24, 2009
thuộc người không cư trú như cơ quan Ngoại Giao, cơ quan đại diện nước ngoài có
nguồn thu hợp pháp bằng VND có thể mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép ở Việt
Nam. Ngày 18/10/2005, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 131/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị Định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối. Trong đó, dỡ bỏ
những rào cản cuối cùng đối với các hoạt động thanh toán và chuyển tiền liên quan đến
giao dịch vãng lai. Tiếp đó, ngày 28/12/2006, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định số
160/2006/NĐ-CP, trong đó có nêu “Trên lãnh thổ VN, tất cả các giao dịch thanh toán và
chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người cư trú và người không cư trú được tự do
thực hiện”.Có thể nói, các văn bản này tạo ra một cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự
do hoá các giao dịch vãng lai, từng bước tự do hoá các giao dịch vốn.
2. Tự do hóa tài khoản vốn
Kết cấu tài khoản vốn :
Nguồn vốn FDI
Nguồn vốn FI (FII)
Vay nợ
Tự do hoá tức là tự do hoá các nguồn vốn kể trên, tháo dỡ những ràng buộc
Đối với người không cư trú đầu tư vào thị trường tài chính trong nước.
Đối với người cư trú đầu tư ra thị trường quốc tế
Lợi ích từ tự do hoá tài khoản vốn
Hiệu quả trong phân phối nguồn lực : Khi hàng rào tài khoản vốn về dòng
chảy tư bản bị loại bỏ thì dòng di chuyển vốn xuyên quốc gia sẽ đẩy mạnh (từ quốc gia
thừa vốn với tỷ suất sinh lời thấp sang quốc gia thiếu vốn với tỷ suất sinh lời cao)
Chi phí vốn thấp có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư và sản lượng (Fischer,
1998; Stulz, 1999; Mishkin,2001)
Sự hình thành và phát triển luật đầu tư nước ngoài trong quá trình tự do hoá các tài
khoản vốn :
Văn bản pháp quy đầu tiên quy định về đầu tư nước ngoài đó là Nghị định
số 115/CP ngày 18/4/1977 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài
tại Việt nam
+ Hình thức đầu tư : Hình thức Hợp tác sản xuất chia sản phẩm, Hình thức xí
nghiệp hoặc công ty hỗn hợp; Hình thức xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất
khẩu
+ Thời hạn đầu tư: từ 10-15 năm trừ những trường hợp đ ặc biệt
+ Thuế lợi tức : 30%, 40%,50%
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
16 | P a g e
December 24, 2009
+ Thủ tục đầu tư : chưa quy định quy trình thẩm định và các hồ sơ, tuy nhiên quy
định đầu mối nhận hồ sơ v à cấp phép là bộ Ngoại Thương (Bộ Thương mại)
Sau đó được nâng cấp lên thành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm
1987, tiếp đó qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1990 và năm 1992; và đến năm 1996
Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam mới, sau đó đã lại được sửa
đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư 2005 mới áp
dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài (đang áp dụng hiện nay). So với các
đạo luật khác thì gần như trong cùng thời gian ngắn.
Đây là đạo luật mà có nhiều thay đổi nhất, đã luôn luôn được hoàn thiện, tạo
dựng một khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quán
triệt quan điểm mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, phù hợp với thực tiễn và
thông lệ quốc tế thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở
thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
a) Đối với FDI :
Đối với FDI vào :
- FDI do người không cư trú chuyển vào, VN hầu như không có cản trở nào trừ quy
định phần vốn góp không quá 49% đối với một số ngành dịch vụ
- FDI do người cư trú chuyển ra, VN không có văn bản nào giới hạn thời gian, số
tiền chuyển ra liên quan đến FDI vào
Đối với FDI ra : VN chính thức cho phép các DN đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài từ năm 1999.
- Các DN phải chuyển lợi nhuận về nước
- Mở rộng các nguồn ngoại tệ mà DNVN được phép sử dụng để chuyển ra nước
ngoài góp vốn và thực hiện dự án đầu tư
Và hiệu ứng từ gia nhập WTO đã đẩy làn sóng FDI vào Việt Nam lên cao, thế
nhưng Việt Nam còn có tiềm năng lớn để thu hút FDI ở mức độ cao hơn nhiều. Điều này
đã được minh chứng trong khảo sát triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD 2007-2009,
trong đó Việt Nam được xếp thứ 6 trong số nền kinh tế hấp dẫn nhất để đưa FDI vào
Tiềm năng này có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam tiếp tục có những khuôn
khổ và chính sách thích hợp trong thu hút FDI. Có nhiều biểu hiện cho thấy rằng Việt
Nam hiện đang đi theo hướng đó với việc nghiêm túc thực hiện các cam kết gia nhập
WTO. Điều này được thể hiện qua việc Vốn FDI đã tập trung vào lĩnh vực cần thiết :
• Năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, thu hút nguồn vốn FDI đạt
20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức FDI trong 20 năm qua,
kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 đến nay.
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
17 | P a g e
December 24, 2009
• Nổi bật trong thu hút nguồn vốn FDI năm 2007 là các dự án đầu tư đã tập
trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài để phục vụ quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các dự án công nghệ cao, khu đô thị
mới, hiện đại... Điều này phù hợp với định hướng thu hút FDI của Việt Nam trong giai
đoạn 2006-2010.
Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
tiếp tục có tác động lớn làm cho dòng vốn FDI tăng cao trong năm 2007 và sẽ tiếp tục
tăng trưởng. Bên cạnh sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng dự án đầu tư nước ngoài cũng
như về vốn đăng ký mới, các dự án đầu tư mới trong thời gian tới sẽ hướng dần đến
những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm,
các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu
hạ tầng.
Hiện Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu
hút ở mức cao nhất và sử dụng có hiệu quả nhất dòng vốn FDI đang tăng mạnh tại Việt
Nam, trong đó có việc thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và
đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải
cách thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân
lực, khắc phục các yếu kém về kết cấu hạ tầng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ."
Ngày 7-4-2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP, về định hướng, giải
pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian tới.
Nghị quyết nêu rõ, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang và sẽ làm cho vốn đầu tư
nước ngoài (ĐTNN) toàn cầu bị thu hẹp và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong thời
gian tới. Để tiếp tục thu hút và quản lý vốn ĐTNN, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương tổ chức triển khai một số nhóm giải pháp cấp bách sau đây: Thứ nhất, về nhóm
giải pháp liên quan tới chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục rà soát, sửa
đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư
vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân...
b) Đầu tư gián tiếp (FII)
• VN chưa cho phép người cư trú ĐTGT ra nước ngoài
• Người không cư trú được thực hiện ĐTGT vào TTCK VN (mua CP, TP được
nắm giữ ở VN và ở nước ngoài). VN không giới hạn dòng vốn gián tiếp vào cũng như ra .
Thị trường đầu tư gián tiếp (FII) của VN đang rất hấp dẫn và theo đánh giá của các
nhà đầu tư, độ hấp dẫn của thị trường tài chính VN đã vươn lên đứng thứ 3 thế giới sau
Trung Quốc và Ấn Độ
Những tháng năm đầu của TTCKVN, số quỹ nước ngoài hoạt động tại VN chỉ
đếm trên đầu ngón tay, với tổng số vốn ít ỏi không đến 100 triệu USD, vốn huy động cho
mỗi quỹ không quá 10 triệu USD, nhưng cho đến ngày hôm nay, dòng vốn FII đã giải
ngân trong việc đầu tư cổ phiếu lên tới khoảng 5 tỷ USD (con số 5 tỷ USD do VAFI ước
tính sơ bộ).
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
18 | P a g e
December 24, 2009
Dòng vốn FII dần dần gia tăng như quý 1/2008 thừa USD tại hệ thống ngân hàng
thương mại và dẫn tới thiếu tiền đồng, gây áp lực làm VND lên giá. Đây cũng là cơ hội
để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua USD tăng dự trữ ngoại tệ
Nhà ĐTNN tham gia vào tiến trình đầu tư chứng khoán đã làm thay đổi cách định
giá cổ phiếu của nhà đầu tư trong nước, phong đòi hỏi sự minh bạch tối đa trong việc đầu
tư vào TTCK
Nếu thực tế không có nhiều vốn FII trong các năm 2006, 2007, 2008 thì có lẽ hệ
thống ngân hàng VN không thể có qui mô như ngày hôm nay. Hệ thống ngân hàng đã có
điều kiện huy động được hàng chục tỷ đô la , số vốn huy động được chủ yếu là NĐTTN,
tuy nhiên nhân tố FII là nhân tố kích thích.
Dòng vốn FII cũng làm thay đổi cơ bản thị trường trái phiếu VN, nhân tố FII đã
làm cho NĐTTN tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và đã trưởng thành hơn trước rất nhiều
Mặt hạn chế : FII và nguy cơ khủng hoảng tài chính
"Từ thực trạng vốn FII vào rất lớn từ quý IV-2006 đến quý I-2007 đã đặt ra vấn đề
rõ ràng chúng ta không kiểm soát được và đặt ra thách thức điều hành vĩ mô như rủi ro
lạm phát, đồng VN tăng giá bất lợi cho định hướng xuất khẩu..."
Từ đầu năm 2009 đến 17/11/2009, lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã
rút ra khoảng 500 triệu USD. Và cả năm dự kiến cũng “nằm ở khoảng này”. Trong năm
2008, con số này là 578 triệu USD. đó cũng là một yếu tố tác động đến thị trường ngoại
hối với những diễn biến phức tạp từ đầu năm đến nay. bên cạnh sự sụt giảm của FDI,
xuất khẩu và du lịch. Đây là diễn biến ngược với những thuận lợi trong năm 2007. Cụ
thể, trong năm 2007, nguồn vốn FII chảy vào lên tới 6,3 tỷ USD
Khi dòng vốn FII vào ồ ạt với quy mô lớn sẽ gây mất cân bằng về mặt vĩ mô, hoặc
nhà đầu tư có thể rút vốn quy mô lớn và đột ngột gây ra sự khủng hoảng và sụp đổ của thị
trường tài chính trong nước.
c) Vay, trả nợ nước ngoài
• Người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, cá nhân được vay theo nguyên
tắc tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ theo quy định của NHNN
• Chính phủ vay nợ và cho vay nợ nước ngoài: chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ
quốc gia
• Cơ cấu tiền vay nợ: (1) USD; (2) Yên Nhật; (3) Euro
Tình hình giải ngân ODA ở nước ta thời gian qua thể hiện ở bảng số liệu dưới đây:
Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4
19 | P a g e
December 24, 2009
ODA cam kết và giải ngân thời kỳ 1993-2009
0
1
2
3
4
5
6
19
93
19
95
19
97
19
99
20
01
20
03
20
05
20
07
Năm
Tỷ
US
D ODA Cam kết
ODA Giải ngân
Hình 1 cho thấy dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng không
phải luôn luôn tăng. Vốn cam kết năm 1997 và 1998 giảm sút là do tác động của khủng
hoảng tiền tệ châu Á. Trong thời kỳ 1993-2008, Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn
tượng trong thu hút và sử dụng ODA. Tổng cộng 42,2 tỷ USD đã được các nhà tài trợ
cam kết cho Việt Nam, chiếm khoảng 2% tổng ODA toàn cầu. Trong số vốn cam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cải cách tài chính Việt Nam theo hướng tư do hóa trong thời hội nhập.pdf