Lanh là loại cây ưa ánh sáng nên mảnh đất trồng lanh phải được phát quang làm cho xung quanh thoáng đãng, không có cây to che bóng. Để lợi dụng những yếu tố thuận lợi và tránh những yếu tố tiêu cực của tự nhiên, người Mông ở Cát Cát đã căn cứ vào điều kiện địa hình thành các dạng đồi thoải lượn sóng hoặc phân bậc của địa hình mà lựa chọn địa điểm trồng lanh ở sát cạnh những sườn dốc chắn gió hướng Đông Bắc. Những mảnh đất ấy thường là tương đối bằng phẳng và không có đá nhô đầu, ít lẫn đá phong hoá.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6755 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cây lanh và quy trình chế biến lanh thành sợi của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế tự cấp tự túc, nghề trồng lanh dệt vải từ lâu đã góp phần tích cực vào hoạt động kinh tế của người Mông ở Cát Cát. Sự phân công lao động trong xã hội người Mông quy định phụ nữ là chủ thể sáng tạo trang phục cho mình và các thành viên trong gia đình. Vẻ đẹp và chất lượng của các bộ trang phục họ làm ra phản ánh sâu sắc kỹ năng lao động của mỗi người, là bằng chứng để đánh giá khả năng lao động và đức tính cần cù, xác định phẩm chất của người phụ nữ Mông.
Trong nền kinh tế chủ yếu là tự cấp tự túc nên việc làm lanh để có quần áo mặc và các đồ dùng sinh hoạt khác đã trở thành biểu tượng cho người phụ nữ đảm đang, tháo vát, khéo léo, là tiêu chuẩn để đánh giá người phụ nữ:
Lớn lên anh theo mẹ cha đi cày nương
Theo anh vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm in hoa trên váy mới
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.1)
Để răn dạy người con gái phải biết làm lanh cũng như người con trai phải biết làm nương, tục ngữ Mông có câu:
Con gái không biết làm lanh lấy được chồng vẫn rách
Con trai không biết làm nương lấy được vợ vẫn đói
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.2)
Để xác định phẩm chất của người phụ nữ, người Mông có câu:
Muốn biết người tốt xem gác bếp
Muốn hay người đẹp xem quần áo
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.3)
Hay:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh không biết cầm kim là hư
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.4)
Hoặc:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Trai khoẻ không biết làm nương cũng hèn
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.5)
Nếu người phụ nữ vụng đường làm lanh thì sẽ trở nên vô cùng xấu xa. Đây là lợi chê vợ của một ông chồng trong dân ca giao duyên của người Mông ở Cát Cát:
Vợ ta không mặc mà cũng không làm
Nó lấy cuộn lanh quẳng bừa lên hòm
Cuộn lanh của nó nhom nhem, lăn lóc
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.6)
Vì vậy, người con gái Mông ngay từ nhỏ đã phải học làm lanh, thêu lanh. Công việc đó gắn bó với họ từng ngày. Khi hát giao duyên, áo lanh, khăn lanh, dây lưng lanh… trở thành cái cớ để giãi bày tình cảm và là biểu tượng của tình yêu đắm say:
Em có gì tặng ta để ghi nhớ tình em
Em hãy tặng ta chiếc dây lưng làm vật ghi nhớ
Chiếc dây lưng lanh thêu hoa hình con ốc
Sợi to, sợi nhỏ đều do bàn tay em xe
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.7)
Khi hát giao duyên, trai gái nói nhiều về việc làm lanh và công việc đó trở thành tiêu chuẩn kén vợ của các chàng trai, tiêu chuẩn đẹp người, đẹp nết của các cô gái:
Trước cửa nhà em có cây lanh mọc
Ong mới tìm về đậu
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.8)
Hay:
Em khéo quay xa
Ngón tay quay tít như vòng tròn miệng chén
Sợi lanh cũng do em xe
Đôi ta kết đường tình duyên
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.9)
Hoặc:
Tay em biết cầm kim khâu áo
Anh yêu em
Em yêu anh
Em không có lòng thì thôi!
Có lòng thì về, ta ở với nhau một đêm
Tay em biết se sợi chỉ đen
Em không có lòng thì thôi
Có lòng thì về, ta ở với nhau một ngày
…
Guồng xa xe chỉ lanh
Xe được sợi chỉ xoắn
Dù mình biết biến, ta biết hoá
Thì cũng như mặt trời ghẹo măt trăng trên đỉnh núi cao
Guồng xa xe chỉ tơ
Xe được sợi chỉ bện
Dù mình biết hoá, ta biết biến
Thì cũng như mặt trời trêu mặt trăng tít tận chân trời
…
Thôi mình đừng ngần ngại
Hãy cùng ta sánh đôi về nhà làm mặc
Xuân tới, tiếng dế réo rắt trong chảng cỏ xanh
Thôi mình đừng chần chừ
Hãy theo ta sánh đôi về nhà làm ăn
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.10)
Khi tình yêu đã sâu đậm, vải lanh lại trở thành biểu tượng của tình yêu chung thuỷ, đợi chờ qua hình tượng chiếc áo:
Chàng có lòng em xin tặng chiếc áo, áo này áo em may
Không thấy em chàng mặc chiếc áo
Như thấy dáng em đứng trước người yêu
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.11)
Với những người phụ nữ phải chịu nỗi đau bị ép duyên, người con gái Mông cũng mượn hình ảnh lanh để so sánh:
Em phải lấy chồng không xứng đôi
Như hạt lanh nương tra vào đám ruộng hạt lanh mới mục
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.12)
Với những cặp vợ chồng xứng lứa vừa đôi, hạnh phúc, niềm vui của mỗi gia đình được phản ánh ngay trong bức tranh sinh hoạt:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh thổi sáo, múa khèn
Em thêu váy mới không có sáp, anh ra chợ kiếm
Em in hoa mới không biết đường, anh cầm que vạch giúp
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.13)
+ Trong tín ngưỡng và lễ hội dân gian: cây lanh là biểu tượng của vật trung gian nối giữa trời và đất, nối giữa thế giới con người bình thường và thế giới thần linh, là sợi dây dẫn đường cho người Mông về với thế giới tổ tiên.
Trong bài hát chỉ đường cho người chết về với tổ tiên (Kruôz cê) kể rằng:
Bà Trày làm cho giống lanh sống lại
Bà Mông làm cho giống lanh tốt tươi…
Cây to đem về, dệt thành vuông, chống tàu lau, lá cỏ
Mà làm lụng nuôi con, nuôi cháu
Cây nhỏ đem về dệt thành thước đón rượu, đón cưới
Cây thẳng đem về dệt thành tấm chống đất đen, đất vàng của nhà trời
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.14)
Trong tang lễ của người Mông, khi mổ xúc vật hiến tế người chết, người ta phải nối sợi dây lanh từ ngón tay người chết vào con vật đó thì linh hồn người chết mới nhận được. Đồ khâm niệm, khăn lau mặt cho người chết phải là loại vải được dệt từ sợi lanh thì mới đưa được người chết trở về với thế giới tổ tiên.
Để khuyên người chết cách nói sao cho tổ tiên nhận ra con cháu, lời chỉ đường trong bài Kruôz cê cũng khuyên người chết phải nói với tổ tiên rằng mình là người Mông bằng cách chỉ ra chất liệu của trang phục là sợi lanh, sợi đay:
…
Ma cụ tổ ông, ma cụ tổ bà sẽ hỏi mình rằng do chú ruột chú gì gì đưa mình về
Mình nên đáp là mình không biết, không hiểu, chú ruột chú gì gì
Có đôi mắt to bằng cái chén, đôi tai to bằng cái quạt đưa mình về, mình không biết
Ma tổ tiên ma cụ tổ nói vậy thì thả chó săn đi bắt, thả chó dữ đi đuổi
Mình nên nói với ma tổ tiên rằng
Mình về mình đi giầy lanh, nó về nó không đi giầy lanh
Nó chỉ đi một bước trong cõi âm bước lật ngay sang cõi dương
Mình về mình đi giầy đay, nó về nó không đi giầy đay
Nó đi chỉ một bước đi trong cõi chết bước lật sang cõi sống ngay
Nó về cũng đã lâu mà nó đi cũng đã sớm rồi
Vết chân giẫm xuống nước đã trong, giẫm lên đất lá cây đã rụng phủ hết rồi
Lúc này nó đã về với gia đình người thân lâu rồi
Thả chó dữ đi đuổi cũng chẳng kịp, thả chó săn đi bắt cũng chẳng được nữa
…
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.15)
Ngoài ra, trong tang lễ của người Mông ở Cát Cát, tần số xuất hiện yếu tố sợi lanh còn khá đậm đặc. Cụ thể là:
Khi cử hành tang lễ, cáng của người chết treo gần ngang bàn thờ tổ tiên. Cáng tượng trưng cho con ngựa trời, phải dùng dây lanh buộc thi hài vào cáng. Người nào không có con trai thì chỉ dùng sợi lanh. Người nào có con trai thì con dâu phải dệt vải lanh trắng dài 4 – 5 sải (1 sải ≈ 1,5 m) làm dây buộc cáng nối với xà nhà. Dây lanh hoặc vải lanh buộc vào cáng tượng trưng cho dây dắt ngựa và là sợi dây dẫn đường người chết về với tổ tiên. Ngoài ra, do địa hình vùng cao chi phối, khi khiêng cáng người chết ra nghĩa địa, nếu không buộc chặt thi hài vào cáng thì thi hài có thể bị rơi ra khỏi cáng. Điều đó đồng nghĩa với việc rơi ra khỏi ngựa, hay còn gọi là ngã ngựa - một điều được kiêng tới mức cấm kỵ.
Trong toàn bộ diễn trình tang lễ cũng như các nghi lễ diễn ra sau đó: lễ đón về (tok siz), lễ ma khô (đăngz khuôx), lễ ma lợn (buô đăngx)… Khi trao gà, lợn, trâu cho người chết, người ta đều phải lấy một đoạn dây lanh buộc nối từ cổ con vật vào cổ tay người chết.
Trước kia, các gia đình người Mông đều thờ vuông vải lanh ở trước cửa, ở bàn thờ tổ tiên; mảnh vải này có thể là màu đỏ, màu trắng hay một màu nào khác tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi dòng họ. Người ta tin rằng, làm như vậy thì tổ tiên mới thường đi về thăm nom giúp đỡ gia đình, mọi người được mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt. Mặt khác, làm như vậy còn chống được ma dữ về quấy nhiễu gia đình.
Với một người muốn trở thành thầy cúng, người này phải đi mời một thầy cúng đang hành nghề đến lập cho mình một bàn thờ riêng (gọi là thàng nênhz) để mời thầy tổ sư nhập điện. Nhưng thầy tổ sư muốn nhập điện thì nhất thiết phải đi qua cầu dẫn đường – gồm 3 cây tre dài nhỏ như cần câu. Một cây buộc ở vị trí giáp giữa mái nhà và vách trước. Ba ngọn tre đều phải còn lá và hướng về phía bếp lò. Ba sợi dây lanh vắt qua 3 ngọn cây tre, nối chúng với bàn thờ của thầy saman. Ba sợi dây này tượng trưng cho đường đi của tổ sư saman và hồn của thầy saman. Sau này, khi thầy cúng đi hành nghề cũng phải bắc cầu như vậy. Qua 3 sợi lanh và 3 cây tre này, thầy cúng có khả năng “đi” từ “thế giới bên này” sang “thế giới bên kia”.
Trong lễ hội Gầu Tào (tiếng Quan Hoả là Sải Sán – có nghĩa là Đạp Núi), trên ngọn cây nêu – nơi trung tâm bãi hội, người ta treo mảnh vải lanh rộng 40 cm, dài khoảng 7 – 12 cm. Đó là một biểu tượng với nhiều tầng ý nghĩa. Trước hết, đó là dấu hiệu mời ma nhà (tổ tiên) về dự hội cùng vui với con cháu. Trường hợp này, mảnh vải lanh thường nhuộm màu đỏ. Có thể đây là biểu tượng của mặt trời, phản ánh tục thờ thần mặt trời của cư dân nông nghiệp xưa kia. Có ý kiến cho rằng, tuỳ theo từng dòng họ đăng cai mà người ta sẽ treo mảnh vải lanh có sắc màu tương ứng. Cũng có ý kiến cho rằng, khi mảnh vải lanh treo trên ngọn cây nêu có màu đen thì đó là biểu tượng để tập hợp lực lượng. Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận chiến với người Hán, người Mông bị thua trận, bị mất đất, bị chém giết rất nhiều. Thủ lĩnh người Mông đã treo cờ bằng vải lanh đen để tập hợp lực lượng, cố kết cộng đồng và đoàn kết dân tộc. Vì vậy, trong những lễ hội Gầu Tào có treo mảnh vải lanh màu đen trên ngọn cây nêu, người ta thường hát mở đầu khúc ca Đrux tangl, tức là hết đất trời rồi. Có lẽ đây là lớp văn hoá muộn gắn với lịch sử di cư của đồng bào. Như vậy, xuất phát từ tín ngưỡng, biểu tượng vải lanh đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc Mông với các thế lực chèn ép, xâm lược.
+ Trong y học cổ truyền: cây lanh được người Mông ở Cát Cát sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Khi bị các bệnh đau đầu, họ thường lấy lá lanh (blôngx mangx) và lá cây ngải cứu (sur) gói vào một miếng lá chuối (blôngx txir tsơưz) ủ dưới tro nóng rồi đem trườm lên chỗ đau. Trẻ em mắc các chứng bệnh ho gà (guz), lên sởi (gtôz), người ta có thể chữa bằng cách dùng hạt cây lanh đem rang vàng để sắc làm nước uống. Vải lanh có độ bền cao, mặc mùa hè thì ấm mà mùa đông thì mát. Khi mặc ít bị cảm cúm và ốm đau.
Tri thức dân gian về thuốc chữa bệnh của người Mông đã được y học kiểm chứng và xác nhận. Theo cuốn Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi, cây lanh là loại cây có vị ngọt, tính bình, có tác dụng nhuận tràng, thông tiện, dùng trị huyết hư, tân khuy trường táo tiện bí, dùng tốt cho chứng táo bón kéo dài ở người già, phụ nữ bị đái rắt sau khi sinh nở hay khi có thai mà thai bị tổn thương sinh ra chứng đau bụng, chữa chứng phong độc, xương tuỷ đau nhức…
* Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài, cây lanh cho đến nay đã trở thành một biểu tượng văn hoá của người Mông ở Cát Cát và mang tính xã hội cao. Ngoài giá trị vật chất phù hợp với môi trường cảnh quan và điều kiện sống, nó còn là vật phản ánh sâu sắc những giá trị văn hoá, xã hội truyền thống mang những đặc trưng văn hoá tộc người. Nó thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm thẩm mỹ, niềm tin tôn giáo và đạo đức của cộng đồng. Đồng thời, nó cũng phần nào cho chúng ta thấy quan niệm của người Mông nơi đây về thế giới quan, tư duy, quan niệm và ước vọng về cuộc sống. Môi trường xã hội ấy, những niềm tin tôn giáo ấy, những quan niệm về thẩm mĩ, đạo đức ấy… đã góp phần bảo tồn và phát triển cây lanh và “văn hoá lanh” trong dòng chảy văn hoá qua nhiều thế hệ người Mông nơi đây.
3. TRỒNG LANH VÀ CHẾ BIẾN LANH THÀNH SỢI
3.1. Kỹ thuật trồng lanh
3.1.1. Chọn đất trồng lanh
Nương theo cách gọi của người Mông ở Cát Cát là Têz. Theo quan niệm của đồng bào: nương là một khoảnh đất được phát - đốt, dọn cỏ cây tự nhiên rồi trồng lên đó một loại cây phục vụ cuộc sống của con người thì được gọi là nương (Giải thích của ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại Đội I, thôn Cát Cát). Điều đó có nghĩa là chỉ cần phát được một khóm nhỏ chưa phải là một khoảnh rừng, thậm trí chỉ cần tra được một hốc ngô xuống cũng được gọi là nương.
Nương lanh, tiếng Mông gọi là Têz mangx. Theo kinh nghiệm dân gian của người Mông ở Cát Cát, muốn cho cây lanh mọc khoẻ, đồng bào thường chọn những chỗ đất màu mỡ, thích hợp cho việc canh tác (têz viêngx). Đó thường là những khu đất bằng phẳng, ít đá (blăngs têz), ở những nơi cao ráo (têz taox phiênx) nên đó thường là những đám nương dưới chân núi hay gần khu vực chân núi (têz tơư taox), hoặc cũng có thể là nương ở sườn núi hoặc ven sườn núi (têz tăng taox), ưu tiên cho cây lanh được trồng những mảnh nương mới phát, mới gieo trồng vụ đầu tiên (têz krao luôx). Trước đây, do cuộc sống du cư nên đồng bào canh tác lanh trên những mảnh nương du canh (têz phax). Đây là loại nương không được sử dụng thường xuyên, liên tục. Theo tập quán truyền thống, đồng bào thường gieo trồng trên những mảnh nương này từ 3 đến 5 vụ. Khi đất quá bạc màu, họ chuyển sang khai phá mảnh nương mới, nương cũ được bỏ hoá cho cây cỏ tái phát triển, sau 5 – 10 năm đồng bào mới quay lại canh tác và chu kỳ gieo trồng mới lại được tiếp tục. Đặc điểm nổi bật của nương du canh là kỹ thuật canh tác đơn giản, đất không được cày sới, đồng bào thường dùng gậy chọc lỗ tra hạt hoặc gieo vãi; năng xuất cây trồng thấp, không ổn định.Nay, cuộc sống đã ổn định, tình trạng du cư không còn, đồng bào chuyển sang canh tác lanh trên những mảnh nương định canh (têz lâuz). Đó là loại đất canh tác cố định. Đất trồng đó được họ sử dụng liên tục từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác. Gắn liền với loại hình nương này là kỹ thuật canh tác dùng cày, sử dụng phân bón, thâm canh, luân canh, xen canh; năng xuất khá hơn và ổn định hơn.
Lanh là loại cây ưa ánh sáng nên mảnh đất trồng lanh phải được phát quang làm cho xung quanh thoáng đãng, không có cây to che bóng. Để lợi dụng những yếu tố thuận lợi và tránh những yếu tố tiêu cực của tự nhiên, người Mông ở Cát Cát đã căn cứ vào điều kiện địa hình thành các dạng đồi thoải lượn sóng hoặc phân bậc của địa hình mà lựa chọn địa điểm trồng lanh ở sát cạnh những sườn dốc chắn gió hướng Đông Bắc. Những mảnh đất ấy thường là tương đối bằng phẳng và không có đá nhô đầu, ít lẫn đá phong hoá.
Để đảm bảo đủ sợi dệt, tuỳ gia đình nhiều hay ít người mà nương lanh lớn hay nhỏ. Thông thường, trước đây mỗi người phụ nữ thạo việc làm lanh thường gieo trồng 1,5 ống hạt giống ≈ 1,5 kg hạt giống/vụ ≈ 11 m2, sau khi thu hoạch, nếu thuận lợi có thể dệt khoảng 10 bộ quần áo. Có những gia đình đông người có khi gieo tới 15 ống hạt giống/năm. Ngày nay, số gia đình hạt nhân với lượng nhân khẩu trung bình 5 – 6 người/hộ đã trở lên phổ biến, vải mặc đã được thay thế một phần bằng vải mua ở chợ nên diện tích nương lanh tính theo hộ giảm đáng kể, thậm chí nhiều gia đình đã không còn trồng lanh (Xem phần thống kê diện tích nương lanh của từng hộ gia đình thôn Cát Cát trong Phụ lục 2).
3.1.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh
- Thời vụ trồng lanh:
Để tránh mưa nhiều, gió rét và các hiện tượng thời tiết đặc biệt sảy ra theo chu kỳ đều đặn hàng năm ở đây như dông, mưa đá, mưa phùn, sương mù và sương muối… gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sợi lanh, người Mông ở Cát Cát thường trồng lanh từ giữa tháng 2 đến tháng 3 âm lịch, tuỳ theo thời tiết hàng năm, sau khi gieo ngô xong.
- Lựa chọn và bảo quản hạt giống:
Hạt lanh giống phải chắc và mẩy. Để lấy hạt làm giống, người Mông thường để lại các cây lanh cao to mọc xung quanh các đám nương lanh, hay xung quanh các đám nương ngô, hoặc trồng riêng ở những nơi sườn đồi có độ dốc cao nhưng phải gieo thật thưa để cho cây phát triển to nhiều nhánh mới cho nhiều hạt… Những cây lanh ấy do không bị chen lấn, đất nhiều chất dinh dưỡng nuôi cây, quả, nên thường to lớn lại có nhiều cành, nhánh, không dùng để tước sợi mà chỉ để lấy quả, hạt làm giống. Lượng hạt giống cho một nương lanh rộng khoảng 100 m2 là 5 ống, tương đương 5 kg.
Khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, sau khi thu hoạch ngô 1 tháng là thời điểm người Mông ở Cát Cát thu lấy hạt lanh giống. Người ta chặt bỏ những cành có hạt, đập lấy hạt lanh ngay tại nương, đem về cho vào bao tải treo trên gác bếp hoặc bất cứ chỗ nào khô ráo cũng được, vì hạt lanh có nhiều dầu nên không sợ bị mọt. Thân cây lanh được phơi khô đốt lấy tro, hoà cùng một số chất khác có thể làm thuốc súng, hoặc để lại nương làm phân xanh, hoặc cũng có thể đem làm giấy. Để giữ cho hạt giống được tốt, người Mông thường giữ riêng, không để hạt giống tiếp xúc lẫn với bất cứ thứ gì. Xưa nay, hạt lanh giống chỉ để dùng cho vụ sau, tức là chỉ bảo quản trong vòng một năm là phải sử dụng hết, không để tới vụ thứ hai nếu không khả năng nảy mầm của hạt sẽ kém và chất lượng cây trồng cũng không cao.
- Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh:
Do đặc điểm bề mặt địa chất ở Cát Cát là đất mùn lẫn dăm sạn, trơ sỏi đá và vỏ phong hoá vụn bở nên để tăng độ phì cho đất, trên những khoảnh đất trồng lanh, người ta bao giờ cũng phải làm đất rất kỹ. Đất trồng lanh sau khi đã được cày sới, phơi ải và bừa qua, người ta dùng cuốc đập đất cho tơi nhỏ và nhặt sạch cỏ. Công việc này được tiến hành trong 1 – 2 ngày đối với nương cũ (têz fêu) và 3 – 4 ngày đối với nương mới (têz krao luôx). Sau đó, người ta đánh luống để gieo trồng. Trước khi gieo hạt, người Mông ở Cát Cát thường không chọn ngày tốt như khi làm nương ngô, nương lúa. Tuy nhiên, một số người cẩn thận thì vẫn chọn ngày để mong cho cây mau lớn và khoẻ mạnh, chống chịu được những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Theo đó, ngày được chọn để trồng lanh thường vào ngày con rồng (blungz jăngz), ngày con mèo (blungz mir) bởi theo quan niệm của họ thì đó là những ngày tốt, trồng vào những ngày này cây sẽ lớn khoẻ, lớn nhanh, cho nhiều sợi.
Trước khi gieo hạt, người ta phải ủ phân một tuần, sau đó mới dùng phân này để bón lót cho lanh.
Khi gieo hạt, người đàn ông cầm cuốc đi trước cuốc một lần nữa cho đất tơi xốp và tạo thành luống, người phụ nữ đi sau đeo gùi rải phân đã ủ đều khắp luống. Sau đó, họ lại rải một lớp đất mỏng lên trên rồi mới gieo hạt. Gieo hạt xong, người ta dùng cuốc cào một lớp đất dầy khoảng 0,5 – 1 cm phủ lên trên hạt giống để giữ độ ẩm đủ cho hạt nảy mầm.
Hạt lanh thường nảy mầm trong điều kiện thời tiết thuận lợi chỉ sau ba ngày những lá mầm đầu tiên đã nhô khỏi mặt đất. Vì thế, người Mông ở Cát Cát có câu thành ngữ mang tính chất là một sự đúc kết kinh nghiệm thường được những người già dùng để răn dạy lớp trẻ như sau:
Ba ngày không mọc không phải cây lanh,
Ba ngày không thối không phải con gấu
(Pêz hnungz tsi tuôx tsi zaos mangx
Pêz hnungz tsi lưx tsi zaos đêis)
Kỹ thuật gieo lanh của người Mông ở Cát Cát là kỹ thuật gieo vãi hạt. Khi gieo, người ta vãy hạt lanh khá dày, như thế các cây lanh mọc xen khít vào nhau, không có cành nhánh, nên vỏ lanh khi thu hoạch sẽ không có mấu, chạc, thuận lợi cho việc se sợi, dệt vải. Tuy nhiên, nếu gieo dầy quá cây lanh sẽ còi, sợi mỏng, còn nếu gieo thưa quá cây lanh sẽ mọc nhiều cành phụ không dùng để làm sợi được, nên thông thường mỗi gốc lanh cách nhau một chiều khoảng 1,4 – 1,6 cm và chiều kia khoảng từ 1,5 – 1,8 cm để cây thoáng và dễ hấp thu ánh sáng mặt trời.
Sau khi gieo hạt xong, người gieo hạt đứng ở một góc nương lanh, mặt hướng vào nương lanh và nói:
Mangx ơ! Tuôx ơ!
Muôz mangx lêil ruôz luôx sơưr tsênhl tuôx
Muôz mangx lêil ruôz angr sơưr tsênhl langr
Hluz lux cak pêz lếi traor lul tsêr
Tạm dịch là:
Lanh ơi! Sợi ơi!
Lấy lanh gieo xuống đất cho thành sợi
Lấy lanh gieo xuống đất cho dây
Mọc nhanh ba ngày lên nhé
Từ khi bắt đầu gieo hạt cho đến lúc thu hoạch, người ta gần như không làm cỏ, bón phân, tưới nước cho lanh lần nào. Chỉ trừ những trường hợp cây lanh quá còi cọc họ mới dùng nước giải trộn với tro để tưới, hoặc những khi quá khô hạn người ta mới gánh nước lên tưới cho lanh. Mỗi nương lanh gần nhà đều được rào cẩn thận để tránh không cho gia súc, gia cầm phá hoại. Với những mảnh nương lanh xa nhà thì người ta chỉ cần rào chặn những lối đi lại của gia súc là được. Đến khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch là thời điểm cây lanh đang trong thời kỳ phát triển tốt nhất, chất lượng lanh khoẻ nhất; và đây cũng chính là thời điểm thu hoạch lanh.
Chất lượng vải lanh phụ thuộc nhiều vào chất lượng sợi; đồng thời tính đồng bộ của sợi lanh cũng là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chất lượng vải. Tính đồng bộ đó được thể hiện ở chiều cao cũng như độ mập của thân cây và độ dầy của vỏ cây. Vì vậy, người ta thường phân loại lanh ngay từ khâu thu hoạch Theo kinh nghiệm dân gian, các cây lanh to (cao trên dưới 2m; chu vi gốc khoảng 4,4 – 5 cm) được gọi là lax mangx (tức lanh bố) được bó riêng. Sợi của loại lanh này được dùng để bện dây buộc hoặc dệt vỏ bao đựng. Các cây lanh nhỏ (cao 1,3 – 1,6 m; chu vi gốc khoảng 3 – 3,5 cm) được gọi là nhôk mangx (tức lanh con) dùng để dệt may trang phục và các sản phẩm may mặc khác. Lanh nhỏ sau đó lại được phân chia thành các loại có độ dài ngắn bằng nhau để các sợi lanh có chiều dài tương đối bằng nhau rồi mới bó lại, mỗi bó khoảng 100 cây trở lên.
Sau khi đã róc bỏ hết lá, người ta phơi nắng 3 – 4 ngày theo cách ngày phơi, tối cất. Sau đó, cây lanh lại được phơi sương 2 đêm theo cách ngày cất, đêm phơi và cuối cùng phơi thêm 1 ngày nắng nữa; lúc này lanh có thể tước lấy sợi.
3.1.3. Kỹ thuật và các công đoạn chế biến lanh thành sợi
Trong toàn bộ quy trình dệt thì việc làm sợi là mất thời gian nhất và tốn khá nhiều công sức. Việc phân công lao động trong quá trình tạo nguyên liệu cho nghề dệt của người Mông ở Cát Cát diễn ra theo giới tính và lứa tuổi. Thông thường, người đàn ông tham gia làm đất, gieo trồng và thu hoạch lanh, còn tất cả quá trình tạo sợi đều do những người phụ nữ trong gia đình đảm nhiệm.
- Tước vỏ lanh:
Sau khi thân cây lanh đã được phơi nắng, phơi sương đủ độ, lanh được tước lấy vỏ - tiếng Mông gọi là lêiv mangx. Công việc này phải làm xong trước khi có các đợt gió mùa đông bắc tràn về nếu không lanh sẽ bị khô sợi, giảm độ bền, sợi nát, khó nối. Công thức tước vỏ lanh áp dụng cho cả lanh bố và lanh nhỏ được thực hiện như sau:
Vị trí tước vỏ đầu tiên được thực hiện bắt đầu từ giữa thân về phía ngọn. Sau đó, sợi lại tiếp tục được tước từ giữa thân cây về phía gốc. Theo công thức đó, người phụ nữ Mông dùng hai đầu ngón tay trỏ và ngón tay cái của cả hai bàn tay vê và lắc nhẹ đoạn giữa thân cây cho dập rồi luồn móng tay cái của một bàn tay bất kỳ (với những người mới làm thì người ta thường dùng bên bàn tay thuận) luồn vào giữa lớp vỏ và thân cây để tách sợi. Và vẫn với móng tay ấy, người ta sẽ tước đều theo dọc thân lanh vỏ sau khi tước ra phải to đều, không bị rách, không bị sơ, chạy đều suốt từ đầu đến cuối là được. Thông thường, với một cây lanh, người ta có thể tước được 4 sợi, mỗi sợi sau đó lại được tước làm 2 – 3 phần cho kết quả cuối cùng là 8 – 12 sợi/cây. Chiều dài của sợi lanh phụ thuộc vào chiều cao của thân cây lanh cho sợi. Thời gian tước sợi của mỗi gia đình thường vào khoảng 20 ngày.
- Giã sợi (ntuôs tôx):
Vỏ lanh sau khi tước được gọi là ntuôs được bó thành từng bó đều nhau cho vào cối giã khoảng nửa giờ cho mềm sẽ dễ nối hơn và không để lại mối nối. Công đoạn giã sợi thường phải thực hiện từ 4 – 5 ngày.
- Nối sợi:
Nối sợi - tiếng Mông gọi là sơư ntuôs. Đây là công đoạn chiếm nhiều thời gian nhất được tiến hành sau đó. Những sợi lanh sau khi đã tước tương đối đều nhau được nối với nhau một cách rất đặc biệt: Người ta tách đôi một sợi lanh ở vị trí cách đầu sợi khoảng 10 cm rồi luồn một sợi khác vào giữa, xoắn lại, sai đó lại tách đôi sợi này và luồn sợi thứ nhất vào. Bằng cách này, sợi lanh vẫn đều, nuột, không rõ mối nối. Người phụ nữ thường bó sợi lanh thành từng chùm nhỏ, quấn quanh bụng, sau đó rút lấy từng sợi, từng sợi… nối lại với nhau, nối được đến đâu người nối lại cuốn vào bàn tay đến đấy (thường cuốn vào tay chiêu); hoặc người ta cũng có thể cuốn sợi lanh vào một vòng mây gắn vào một que tre nhỏ. Khi nối sợi, người ta phải tuân thủ nguyên tắc nối đầu ngọn với đầu ngọn, nối đầu gốc với đầu gốc và các đoạn nối phải to đều, sợi nào bé thì bổ sung thêm sợi, sợi nào to quá thì phải tước bớt đi để khi lên vải các thớ sợi mới đều, vải dệt mới phẳng, mịn. Người phụ nữ Mông thường tranh thủ chắp, nối sợi lanh vào bất kỳ lúc nào đôi tay họ rảnh. Với một cuộn lanh thô bên thắt lưng, trên đường đi nương, đi chợ… thậm chí ngay cả khi tiếp khách bên bếp lửa, họ cũng luôn tay chắp nối sợi.
- Xe sợi (yuôz ntuôs):
Sau khi xe và nối sợi bằng tay, sợi được đưa lên guồng (yuôz) xe tiếp một lần nữa. Để khỏi bị đứt, các cuộn sợi này được nhúng vào nước từ 15 đến 20 phút trước khi xe cho mềm, tăng độ dẻo dai.
Cấu tạo guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát cho phép mỗi lần xe sợi, người ta sẽ đưa đồng thời được sợi từ 4 cuộn sợi vào 4 con suốt chỉ. Khi xe sợi, người ta đặt 4 cuộn sợi nằm dàn hàng ngang trên một miếng gỗ phẳng (hoặc cũng có thể đặt vào thùng hay chậu), cách trục đỡ 1,2 m. Sợi được đưa lên vắt ngang một thanh tre cao cách mặt đất 1,5 m. Từ đây, sợi được dẫn thẳng đến suốt cuốn sợi. Người ta sẽ dùng tay cuộn mồi một đoạn khoảng 50 – 60 cm vào con suốt (đầu mỗi cuộn sợi cuốn vào 1 con suốt). Mỗi con suốt được cắm vào một lỗ cắm suốt trên giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cây lanh và quy trình chế biến lanh thành sợi của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.doc