MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 3
I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT 3
1. Khái niệm và các phép đo về lãi suất 3
1.1. Khái niệm về lãi suất 3
1.2. Các phép đo về lãi suất 4
2. Phân loại lãi suất 5
2.1. Căn cứ vào giá trị thực tê của tài sản 5
2.2. Căn cứ vào cách thức NHNN cấp vốn cho các NHTM 5
2.3. Căn cứ vào đối tượng sử dụng 5
2.4. Căn cứ vào thời hạn của các khoản vay 5
2.5. Căn cứ vào cách thức trả lãi 5
2.6. Căn cứ vào cơ chế quản lý lãi suất 6
3. Hình thái diễn biến của lãi suất 6
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 10
4.1. Cấu trúc rủi ro của lãi suất 10
4.2. Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất 10
4.3. Các yếu tố khác . 12
II. VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT. 16
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. 16
2. Lãi suất với quá trình đầu tư 17
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. 17
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu 18
5. Lãi suất với lạm phát. 18
6. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực. 19
7. Lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. 19
CHƯƠNG II - DIỄN BIẾN LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ VIỆC VẬN
DỤNG VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI .21
I. DIỄN BIẾN LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM TỪ 1988 ĐẾN NAY 21
1. Giai đoạn từ 1988 - 1990 21
2. Diễn biễn điều chỉnh lãi suất từ 3/1990 - 11/1993 25
3. Giai đoạn 1993 - 1997 29
3.1. Diễn biến và các kết quả đạt được 29
3.2. Những hạn chế và tồn tại 33
4. Chính sách lãi suất giai đoạn từ 1998 đến nay 34
4.1. Diễn biến và các kết quả đạt được 34
4.2. Những hạn chế và tồn tại 37
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG 38
1. Một số đóng góp cơ bản của chính sách lãi suất đối với thành tựu kinh tế
xã hội 38
2. Những hạn chế và nguyên nhân 40
III. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀO
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHÂN QUÂN
ĐỘI 42
1. Giới thiệu chung về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội 42
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển. 42
1.2 Tính chất hoạt động 44
1.3 Cơ cấu tổ chức và chức năng hoạt động của NHTMCPQĐ 46
2. Thực trạng vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội trong thời gian qua 48
2.1 Diễn biến việc vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ. 48
2.2 Những kết quả đạt được 51
2.3 Những mặt tồn tại và nguyên nhân 60
CHƯƠNG III - CÁC GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNGCÓ HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH LÃI
SUẤT CỦA NHNN VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NHTMCPQĐ 63
I. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHNN VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTMCPQĐ TRONG THỜI GIAN TỚI. 63
1. Định hướng chính sách lãi suất của NHNN 63
1.1 Nguyên tắc hình thành lãi suất 63
1.2 Xu hướng tự do hoá lãi suất 64
2. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ trong thời gian tới 66
II. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHNN VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTMCPQĐ 68
1. Sử dụng công cụ lãi suất linh hoạt 68
1.1 Áp dụng mức lãi suất trên cơ sở phân loại khách hàng 69
1.2 Áp dụng chính sách lãi suất biến đổi 70
1.3 Sử dụng kỹ thuật kéo dài thời hạn của các nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn 70
1.4 Tăng quy mô hoạt động để giảm lãi suất 72
1.5 Kỹ thuật vượt trần lãi suất 73
2. Quản lý mức chênh lệch/khoảng cách lãi suất (hay rủi ro lãi suất) 74
2.1 Sử dụng kỹ thuật trao đổi lãi suất (swap lãi suất) 75
2.2 Sử dụng công cụ hợp đồng tài chính kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn 76
3. Lãi suất điều hoà vốn trong nội bộ Ngân hàng 78
4. Hoàn thiện hệ thống của Ngân hàng 79
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 80
1. Kiến nghị đối với NHNN 80
2. Kiến nghị đối với NHTMCPQĐ 82
Kết luận 84
Tài liệu tham khảo 85
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chính sách lãi suất của Nhà nước và việc vận dụng vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại các tổ chức tính dụng, NHNN vẫn qui định khống chế ở mức thấp để hạn chế găm giữ USD trên tài khoản, hạn chế đô la hoá trong điều kiện tỷ lệ kết hối giảm xuống mức 40%. Ngoài ra, phù hợp với xu hướng giảm lãi xuất trên thị trường quốc tế. Tháng 12 năm 2001, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn của tổ chức tín dụng và kho bạc nhà nước tại NHNN xuống 1,7%/năm.
Quyết định 546/2002/QD-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN VN viết: "TCTD xỏc định lói suất cho vay bằng VND trờn cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tớn nhiệm của khỏch hàng vay là phỏp nhõn và cỏ nhõn VN; phỏp nhõn và cỏ nhõn nước ngoài hoạt động tại VN". Như vậy, từ ngày 1/6/2002, lói suất cho vay bằng VND của cỏc TCTD chỉ dựa vào hai yếu tố: một là cung cầu vốn tớn dụng ngõn hàng và sự tớn nhiệm của bờn vay đối với TCTD.
Từ tháng 6/2002 đến nay, NHNN duy trì chính sách tự do hoá lãi suất tiền gửi nội tệ, tự do hoá lãi suất cho vay bằng đồng USD, duy trì chích sách lãi suất cơ bản và ấn định trần lãi suất tiền gủi ngoại tệ tại các TCTD.
4.2. Những mặt hạn chế và tồn tại
Tuy nhiên cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng ngoại tệ như trên vẫn còn một số hạn chế như chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, biên độ lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ, nhất là cho vay ngắn hạn còn tương đối hẹp, không còn phù hợp với điều kiện thị trường tiền tệ trong và ngoài nước. Nên từ tháng 6/2001, NHNN đã bỏ cơ chế khống chế theo biên độ trước đó (lãi suất SIBOR 3 tháng = 1% đối với cho vay ngắn hạn, lãi suất SIBOR 6 tháng + 2,5%/ năm đối với cho vay trung, dài hạn) chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo đó, các TCTD được tự do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sỏ lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng ngoại tệ trong nước
Năm 2001, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm 11 lần lãi suất chỉ đạo, từ 6,5%/năm xuống còn 1,75%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 6,0%/năm xuống còn 1,25%/năm, vì vậy, lãi suất tiền gửi và cho vay bằng đồng đô la Mỹ của các TCTD Việt Nam cũng giảm mức đáng kể trong năm qua. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đô la Mỹ vào thời điểm cuối năm 2001 của các Ngân hàng trong nước phổ biến ở mức 3,5%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn là 4,75%/năm.
II/ Đánh giá chung:
Qua việc phân tích của chính sách lãi suất trong giai đoạn 1988 đến nay chúng ta thấy nổi lên một số mặt tích cực cũng như mặt hạn chế như sau:
1. Một số đóng góp cơ bản của chính sách lãi suất đối với thành tựu kinh tế xã hội
Chúng ta biết rằng lạm phát từ lâu đã là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế sử dụng tiền tệ. ở nước ta từ thời còn bao cấp lạm phát đã từng hoành hành và tàn phá các lực lượng sản xuất xã hội trong một thời gian dài. Có giai đoạn lạm phát ở vào mức phi mã (năm 1988 lạm phát đã ở mức 734%)
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước với đường lối đổi mới đã coi lãi suất là một công cụ hữu hiệu để chống lạm phát và được các nhà kinh tế nước ngoài đánh giá cao.
Lần đầu tiên vào năm 1991, đứng trước tình thế lạm phát cao ở mức phi mã kéo dài từ năm 1988 đến năm 1991, tháng 3 năm 1991 Ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định số 29/QĐNH. Theo đó nâng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lên 9-12%/tháng đồng thời nâng lãi suất cho vay lên 6,0%/tháng ngay lập tức Quyết định này đã tạo ra một tâm lý thích gửi tiền vào các Ngân hàng của dân chúng. Sau đó không lâu Ngân hàng đã thu hút được nguồn tiết kiệm lớn từ dân cư, khoảng hơn 300 tỉ đồng, trong vòng hơn 10 ngày, từ lưu thông đã chuyển về Ngân hàng. Cùng với sự đổ xô gửi tiền vào Ngân hàng, tiền gửi không còn đơn thuần là tiền nhàn rỗi trong dân cư nữa mà còn có cả tiền bán tài sản. Nếu như trước đây người ta chỉ lo mua vàng, tài sản để tích luỹ thì năm 1991 thì người ta lại nhanh chóng bán chúng đi để gửi tiền vào Ngân hàng nhưng lãi suất cho vay của Ngân hàng còn cao 6,0%/tháng đã không khuyến khích được các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất. các yếu tố trên đây đã tạo ra sự bội thu về tiền mặt trong các Ngân hàng Thương mại. Kết quả là lượng tiền trong lưu thông giảm hẳn thậm chí còn gây lên hiện tượng khan hiếm về tiền mặt, cũng vì vậy mà sức mua sắm trong nền kinh tế giảm hẳn, giá cả thị trường hàng hoá hạ thấp và lạm phát phi mã đã được chặn đứng từ 734%/năm vào năm 1988 đến năm 1991 lạm phát đã giảm xuống mức hai con số 34,8%/năm và lạm phát được kiềm chế ở mức thấp nhất từ trước đến nay vào năm 1999 (3,6%/năm).
Do lạm phát được đẩy lùi và giá cả ổn định hơn, giá trị đồng tiền đã dần được khôi phục, lòng tin của dân chúng vào công cuộc chống lạm phát tăng lên. Đây thực sự là thành công đầu tiên của Nhà nước ta trong công cuộc chuyển đổi giá cả, điều đó chứng tỏ bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách kinh tế. Tuy nhiên giải pháp trên đây chỉ là giải pháp tình thế thông qua sự bao cấp tín dụng của Nhà nước có nghĩa là Ngân hàng phải chịu lỗ để giảm lạm phát cho nên giải pháp này không thể áp dụng lâu. Thực tế trong thời gian dài từ tháng 3 năm 1992 đến tháng 7 năm 1993 các Ngân hàng vẫn duy trì mức lãi suất có kỳ hạn 3 tháng là 4% do mức tăng trưởng chậm của kinh tế, Ngân sách Nhà nước thâm hụt lớn...sự bao cấp tín dụng không còn hữu hiệu nữa mà lại trở thành hiện tượng không bình thường trong nền kinh tế. Trước tình hình đó, Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra giải pháp lãi suất mới để xóa bỏ sự bao cấp tín dụng đó là chính sách lãi suất thực dương gắn vai trò kinh doanh tiền tệ của các Ngân hàng Thương mại với cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, từng bước Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất nâng lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi...kết quả lạm phát giảm từ 67% trong năm 1993 xuống còn 17,5% năm 1994. Năm 1995 lạm phát tiếp tục giảm mạnh xuống còn 5,2%/ năm sang năm 1996 - 1997 lạm phát tăng lên mức 2 con số là 14,4% - 12,7% nhưng chủ yếu là do các yếu tố khách quan như giá nguyên liệu nhập tăng, Nhà nước điều chỉnh giá một số mặt hàng thiết yếu và phát hành thêm tiền mới vào lưu thông...năm 1997 lãi suất được đánh giá là không gây ra hiện tượng lạm phát, năm 1998 - 1999 lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1 con số (4,5% - 3,6%/năm) và đến năm 2002 lạm phát giảm đáng kể xuống còn 0,6%.
Trong những năm qua lãi suất thực đã thực sự góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo điều kiện cho việc mở rộng sản xuất và hoạt động của ngành Ngân hàng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước như việc đẩy mạnh xuất khẩu, thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn mà Đảng đã đề ra (đó là đẩy mạnh xuất khẩu, sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng) nhằm giải quyết nhu cầu về vốn, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của đất nước, chúng ta có thể thấy điều này qua bảng số liệu sau:
Biểu 7: Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế qua các năm
Năm
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
02
Tỉ lệ lạm phát
34,7
67,1
67,5
17,5
5,2
14,4
12,7
4,5
3,6
9,2
0,8
0,6
Tăng trưởng kinh tế
6,8
5,1
6,0
8,3
8,0
8,8
9,5
9,3
9,0
5,8
6,0
6,8
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Như vậy chúng ta thấy lãi suất có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định tiền tệ và tăng trưởng kinh tế. Mỗi sự thay đổi của lãi suất đều có tác động đến hoạt động của nền kinh tế, và do đó làm thay đổi các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Chính vì vậy công cụ lãi suất trở thành một công cụ hết sức lợi hại cần phải khai thác và sử dụng một cách hợp lý.
Những hạn chế và nguyên nhân
Cơ chế trần lãi suất tín dụng dường như không thích hợp với môi trường kinh tế vĩ mô thay đổi thường xuyên. Nền kinh tế vĩ mô mặc dù đã có những cải thiện đáng ghi nhận, nhưng chưa thực sự đi vào ổn định.
Những lần điều chỉnh trần lãi suất tín dụng của NHNN đã tạo ra tình trạng thay đổi có tính chất thang bậc về mức lãi suất kinh doanh của các TCTD. Do bậc thang chênh lệch lãi suất (mức độ điều chỉnh lãi suất từng lần của NHNN tương đối lớn) và tần suất điều tiết của NHNN lớn nên thị trường dư nợ tín dụng không có động cơ tăng (mặc dù lãi suất đã giảm mạnh) vì khách hàng hy vọng lãi suất sẽ tiếp tục giảm, và chính các TCTD cũng tạm ngừng huy động nguồn vốn vỡi kì hạn (6 tháng và 9 tháng) với lý do tưong tự.
Thời điểm tự do hoá lãi suất tiền gửi không hợp lý. Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục vào tình trạng trì trệ, đặc biệt là nền kinh tế thiếu các dự án khả thi, giảm phát kéo dài, thì việc hạ lãi suất là hoàn toàn đúng dắn. Vấn đề là ở chỗ các TCTD không chủ động giảm lãi suất như một biện pháp để cứu cánh cho chính mình (trừ một vài Ngân hàng) mà lại coi đó chỉ đơn thuần là biện pháp hỗ trợ nền kinh té. Chính vì thế nên mặc dù trần lãi suất tín dụng đã được điều chỉnh giảm liên tục vào năm 99, nhưng các TCTD hầu như không có phản ứng phía lãi suất đầu vào mặc dù ứ đọng vốn đã phổ biến. Phải tới lần điều chỉnh lãi suất thứ 3 của NHNN-tháng 9/99, các TCTD mới thực sự bước vào chiến dịch hạ lãi suất đầu vào. Điều này đã lãm xấu thêm tình trạng tài chính của các TTCK. Không dừng lại ở đó, nguồn vốn huy động đã tăng mạnh như là kết quả của việc duy trì mức lãi suất tiền gửi trong khi lạm phát liên tục âm, làm trầm trọng hơn tình trạng ứ đọng vốn của hệ thống Ngân hàng và chủ trương kích cầu cũng bị hạn chế. ở đây việc tự do hoá lãi suất đầu vào của NHNN có lẽ tiến hành quá sớm.
Việc tự do hoá lãi suất đầu vào còn là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lãi suất tiền gửi nội tệ thấp hơn lãi suất tiền gửi ngoại tệ, làm tăng các áp lực dịch chuyển tiền tệ vào năm 99.
Trong cơ chế điều hành lãi suất mới (8-2000) đã nảy sinh một số bất hợp lý. Biên độ lãi suất quá rộng, gây ra sự chênh lệch lãi suất quá lớn giữa các đối tượng khách hàng. Các DNNN có qui mô lớn, được hưởng nhiều ưu đãi, lại được nhà nước bảo hộ, nên được các NHTM cạnh tranh với nhau tìm mọi cách thu hút, đưa ra các mức lãi suất cho vay thấp, thậm chí dưới 0,6%/tháng. Còn các lọai hình doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp tư nhân phải vay với lãi suất cao, tới 0,75%/tháng, hặc 0,85%/tháng.
Việc tự do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ vào tháng 2- 2000 cũng có vẻ không đúng thời điểm, nó mở đường cho một dòng dịch chuyển tiền tệ với tốc độ nhanh hơn. Việc tự do hoá lãi suất tiết kiệm ngoại tệ trong bối cảnh lãi suất quốc tế tăng, lãi suất đồng nội tệ đang ở mức thấp và thị trường tín dụng rất trầm lắng đã dẫn đến một cuộc chạy đua kinh doanh ngoại tệ bằng cách tăng lãi suất huy động kể từ tháng 4-2000. Xảy ra tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Thị trường ngoại hối, trong bối cảnh đó, trở nên rất căng thẳng và thực tế, đã có lúc các TCTD không thể đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của các tổ chức kinh tế nhằm phục vụ hoạt động ngoại thương.
Cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản chưa có tác dụng tích cực thực sự vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Còn có tình trạng lúc thừa vốn lúc thiếu vốn của các NHTM, trong mỗi hệ thống TCTD và giữa các vùng. Do việc khống chế biên độ làm cho các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất trên thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng. Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác vốn nội lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước, vì với tư cách là “hàng hoá”, nó vận hành theo quan hệ cung cầu, nếu lãi suất thấp, việc huy động vốn sẽ khó khăn.
III. Thực trạng vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ
1. Giới thiệu chung về NHTMCPQĐ
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển:
Ngân hàng thương mại cổ phẩn quân đội ra đời tháng 11 năm 1996 cho đến nay đã trải qua hơn 6 năm hoạt động. Trong suốt thời gian này Ngân hàng đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách của thị trường, tự khẳng định mình, kinh doanh có hiệu quả. Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội được hình thành là kết quả sự hỗ trợ của các cơ quan bộ ngành hữu quan, sự nỗ lực của cán bộ trong và ngoài quân đội cũng như nhiều điều kiện khách quan thuận lợi khác.
Điều kiện cần cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại cổ phẩn quân đội đó là nhu cầu về một Ngân hàng phục vụ cho riêng quân đội, ý tưởng này đã có từ những năm chiến tranh, khi các cán bộ quân đội sang công tác và học tập tại Liên Xô (cũ), tại đây họ đã tìm hiểu các Ngân hàng dã chiến làm nhiệm vụ cấp phát cho quân đội tại các khu vực vì nhiều lý do khác nhau, ý tưởng này đến cuối những năm 1980 vẫn chưa thực hiện được. Trên cơ sở pháp lệnh Ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời năm 1992, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã được thành lập. Ngân hàng này có nhiều điểm khác biệt so với các Ngân hàng dã chiến của Liên Xô (cũ) trước kia, nhưng nhiệm vụ chính nhìn chung không mấy khác biệt, đó là phục vụ các doanh nghiệp quân đội.
Nhiệm vụ của quân đội thời bình là bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước. Các doanh nghiệp quân đội trước đây làm công tác quốc phòng nay chuyển sang làm kinh tế, họ có mặt trên khắp các địa bàn từ cà phê Tây nguyên, đánh bắt thuỷ hải sản trên biển đến Bay dịch vụ, than Đông bắc. Đây là lực lượng lớn hoạt động khá hiệu quả, có tiềm lực lớn về vật tư lao động, khai thác một thị trường rộng, có mức tăng trưởng cao và ổn định. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp quân đội là thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Nếu như nguyên nhân là không vay được vốn của các Ngân hàng thương mại vào giai đoạn trước năm 1992 thì thực tế đến nay là các Ngân hàng thương mại không đáp ứng nổi nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp quân đội. Lấy ví dụ năm 1999, tổng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp quân đội là 2000 tỷ đồng trong đó nguồn từ các Ngân hàng Thương mại chỉ đáp ứng được 1/10. Hơn nữa, bên cạnh nguồn vốn do Ngân sách nhà nước cấp, rất nhiều doanh nghiệp thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh trong khi đó doanh nghiệp còn một lượng vốn nhàn rỗi lớn. Nhu cầu có một trung gian tài chính để điều hoà vốn trở nên ngày một bức xúc.
Xét về điều kiện đủ, đó là sự ra đời của một số luật và văn bản dưới luật như Pháp lệnh Ngân hàng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Công ty...Từ năm 2000 đến nay hệ thống Ngân hàng một cấp đã chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, tách riêng chức năng quản lý và chức năng kinh doanh tiền tệ, với bốn Ngân hàng Thương mại quốc doanh (Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng công thương và Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam), tiếp đó là sự ra đời của hàng loạt các Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng nước ngoài và các Công ty tài chính. Như vậy trên cơ sở sự cho phép của pháp luật cũng như kinh nghiệm trong kinh doanh hoạt động và quản lý của các Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã được thành lập.
Với số vốn ban đầu là 20 tỷ đồng, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã lựa chọn thị trường quân đội là thị trường chính ngay từ buổi đầu lấy trọng điểm là thị trường quân đội nhưng Ngân hàng vẫn theo đuổi mục tiêu phục vụ mọi đối tượng khách hàng trong nền kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, là một Ngân hàng đa năng.
1.2 Tính chất hoạt động
Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội là một loại hình Ngân hàng Thương mại do đó xét về mặt chức năng kinh doanh tiền tệ nó giống với các Ngân hàng Thương mại quốc doanh và các loại hình Ngân hàng khác, chịu sự điều tiết của Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tuy nhiên nó còn mang tính chất của một Công ty cổ phần, do đó cũng chịu sự điều tiết của luật Công ty. So với các Ngân hàng Thương mại quốc doanh nó có một số điểm khác biệt cơ bản đó là:
Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội là một Ngân hàng Thương mại được tổ chức dưới dạng Công ty cổ phần. Cổ đông của Ngân hàng phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước. Vốn đóng góp của họ không phải lấy từ vốn ngân sách nhà nước mà lấy từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng do Đại hội cổ đông Quyết định chứ không phải do Thống đốc Quyết định như đối với các Ngân hàng Thương mại quốc doanh khác.
Đại hội cổ đông của Ngân hàng cổ phần sẽ bầu ra một Hội đồng quản trị có nhiệm kỳ thường là từ 4 đến 5 năm. Hội đồng quản trị sẽ bầu ra Tổng giám đốc Ngân hàng và phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thông qua. Đối với Ngân hàng Thương mại quốc doanh thì Tổng giám đốc (hoặc giám đốc) được chính Thông đốc bổ nhiệm.
Về khả năng tăng vốn của Ngân hàng. ở các Ngân hàng Thương mại quốc doanh việc tăng vốn do Thông dốc Ngân hàng Nhà nước Quyết định và vốn của các Ngân hàng Thương mại này đưọc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước. Còn ở các Ngân hàng cổ phần, việc tăng vốn được thực hiện bằng cách gọi vốn từ các cổ đông và do Đại hội cổ đông Quyết định, được sự thông qua của Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội chịu sự tác động của các luật, qui chế hoạt động của Ngân hàng Nhà nước như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tối đa bên cạnh các điều lệ, qui chế hoạt động trong nội bộ Ngân hàng do Đại hội cổ đông thông qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. Đây cũng là yếu tố khac biệt so với Ngân hàng Thương mại quốc doanh.
1.3 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội
1.3.1. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Đại hội đồng
cổ đông
Hội đồng quản trị
Phòng quản lý nguồn vốn
Phòng kế hoạch tổng hợp
Chi nhánh TP.HCM
Chi nhánh
Hải Phòng
Ban Giám đốc
Phòng Quản lý
dự án
Phòng Hành chính
Phòng Tín dụng
Phòng Kế toán
Phòng Thanh toán quốc tế
Về cơ cấu tổ chức, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội gồm: Về công tác quản trị có Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra, về quản lý điều hành có Ban giám đốc đứng đầu là Tổng giám đốc và 3 Phó tổng giám đốc (ở các chi nhánh là Giám đốc và các Phó Giám đốc) phụ trách các phòng ban sau: Phòng Quản lý nguồn vốn, phòng thanh toán quốc tế, phòng kế toán, phòng tín dụng, phòng hành chính, phòng quản lý dự án, phòng kế hoạch tổng hợp, với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ hoạt động của các phòng ban có mối quan hệ qua lại hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện các chủ trương kế hoạch đã được đặt ra trong từng giai đoạn thời kỳ nhất định.
1.3.2. Chức năng hoạt động:
Do tính đặc thù của từng lĩnh vực mỗi một phòng ban thực hiện một số chức năng nhất định.
Phòng Quản lý nguồn vốn: Huy động vốn cho Ngân hàng, kinh doanh tiền tệ và ngoại hối, thực hiện việc điều tiết hàng ngày các rủi ro thanh khoản, lãi suất và ngoại hối trên cơ sở các giới hạn đã được xác lập.
Phòng Thanh toán quốc tế: Thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh giao dịch ngoại tệ.
Phòng Kế toán: Xử lý, kiểm tra, kiểm soát chứng từ, giao dịch tiết kiệm, cân đối nguồn vốn….
Phòng Tín dụng: Cho vay, bảo lãnh, đảm bảo mức tăng tổng dư nợ hợp lý.
Phòng Hành chính: Quản lý, tổ chức, đào tạo nhân sự….
Phòng Quản lý dự án: Thực hiện và quản lý các dự án cho vay đối với các TCTD…
Phòng kế hoạch tổng hợp: Lập kế hoạch phát triển các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Phân tích, đánh giá trạng thái và ảnh hưởng của các mức độ rủi ro đối với kết quả hoạt động của Ngân hàng trong việc thực hiện các mục tiêu và chiến lược kinh doanh.
2. Thực trạng vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ trong thời gian qua
2.1 Diễn biến việc vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ
Được cấp giấp phép thành lập vào tháng 9 năm 1996 và chính thức đi vào hoạt động từ thàng 11 năm 1997. Cho đến nay đã được hơn 6 năm, kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động, chính sách lãi suất luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng. Nhận thức được điều này ban lãnh đạo Ngân hàng (gồm lãnh đạo điều hành và Hội đồng quản trị) đã dành sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát xao, luôn theo dõi mọi diễn biến của thị trường để có sự điều chỉnh thích hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của Ngân hàng. Điều đó được thể hiện rõ nét qua các Quyết định điều chỉnh và thay đổi lãi suất của Ngân hàng (xem các biểu IX, X, XI).
Theo dõi diễn biến tình hình lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội thời gian qua, chúng ta thấy mọi qui định lãi suất của Ngân hàng đều đảm bảo chấp hành mọi Quyết định về quản lý lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước kể từ khi Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đi vào hoạt động cho đến nay, đã có nhiều thay đổi đáng kể theo hướng tự do hoá. Việc quản lý bằng lãi suất trần và chênh lệch lãi suất (kể từ Quyết định 381/QĐ-NHNN1 tháng 12 năm 1997) đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại trong đó có Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội tự chủ và linh hoạt hơn trong việc đưa ra các mức lãi suất của mình. Trong phạm vi lãi suất trần và chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu ra và đầu vào do Ngân hàng Nhà nước qui định, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội xác định các mức lãi suất cụ thể như sau:
Bảng IX: Diễn biễn lãi suất cho vay bằng VNĐ (% tháng) của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
điều chỉnh
Lãi suất cho vay ngắn hạn
Lãi suất trung dài hạn
Loại 1
Loại 2
Loại 3
Trung hạn
Dài hạn
QĐ32/NHQĐ
TB/NHQĐ
TB/NHQĐ
QĐ250/NHQĐ
QĐ285/NHQĐ
QĐ482/NHQĐ
QĐ696/NHQĐ
QD678/NHQĐ
QD690/NHQĐ
QD701/NHQĐ
1.2.1997
8.1.1998
15.4.1998
1.9.1998
1.10.1998
1.7.1999
1.2.2000
1.5.2000
1.6.2001
7.4.2002
1,40
1,70
1,6 - 1,7
1,3 - 1,5
1,15-1,25
1,00
1,00
1,2
1,2
1,2
1,80
1,70
1,6-1,7
1,4-1,5
1,2-1,25
1,00
1,15
1,2
1,2
1,25
2,1
1,75
1,6-1,75
1,5
1,25
1,00
1,2
1,2
1,2
1,2
x
1,70
1,70
1,45
1,25
1,10
1,10
1,25
1,25
1,2
x
1,70
1,70
1,45
1,25
1,10
1,10
x
x
x
Nguồn: NHTMCPQĐ
Ghi chú: (x) : không có qui định
Biểu X: Diễn biễn lãi suất huy động của Ngân hàng Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội (%/tháng)
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
điều chỉnh
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
Lãi suất tiền gửi của các TCKT
KKH
KH1T
KH2T
KH3T
KH6T
KH12T
KKH
KH1T
KH2T
KH3T
KH6T
KH12T
QĐ32/NHQĐ
TB/NHQĐ
TB/NHQĐ
QĐ247/NHQĐ
QĐ482/NHQĐ
QĐ678/NHQĐ
TB758/NHQĐ
TB346/NHQĐ
TB243/NHQĐ
TB60/NHQĐ
TB859/NHQĐ
1.2.97
8.1.98
6.5.98
1.9.98
1.7.99
1.5.00
1.9.00
30.10.00
11.7.01
6.2.02
18.11.02
0,70
0,70
0,70
x
x
0,50
0,50
0,20
0,20
0,20
0,20
x
0,90
0,90
x
x
x
x
0,30
0,25
0,35
0,40
x
1,10
1,10
x
x
x
x
0,40
0,35
0,45
0,50
1,60
1,30
1,20
0,80
0,70
0,90
0,90
0,45
0,45
0,50
0,55
1,70
1,70
1,70
x
0,80
1,00
1,00
0,55
0,52
0,55
0,65
x
-
-
x
x
x
1,05
0,60
0,55
0,60
0,67
0,20
0,70
0,70
0,50
0,50
0,50
0,50
0,20
0,20
x
x
x
0,90
0,80
x
x
x
x
0,30
0,25
x
x
X
1,10
1,00
x
x
x
x
0,40
0,35
x
x
1,50
1,30
1,20
0,80
0,70
0,90
-
0,45
0,45
0,50
x
1,60
-
-
x
0,80
1,00
-
0,55
0,52
x
0,65
x
-
-
x
x
x
x
0,60
0,55
x
x
Nguồn: NHTMCPQĐ
(x) không có qui định (không huy động loại kỳ hạn đó)
(-) qui định giống kỳ trước
2.2. Những kết quả đạt được:
Theo dõi diễn biến lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội thời gian qua chúng ta thấy nổi lên một số điểm đáng chú ý là:
- Từ khi đi vào hoạt động cho đến nay, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội luôn chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi chính sách tiền tệ nói chung và chính sách quản lý lãi suất nói riêng, đóng góp một phần không nhỏ cùng với hệ thống các Ngân hàng Thương mại, thực hiện một số mục tiêu như ổn định giá trị đồng tiền kiềm chế lạm phát, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quân đội nói riêng, doanh nghiệp Nhà nước nói chung, qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
- Các mức lãi suất của Ngân hàng, kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều được phân chia làm nhiều loại kỳ hạn khác nhau, phù hợp với từng nhóm đối tượng khách hàng. Điều đó thể hiện Ngân hàng có một chính sách khách hàng rất tốt, trên cơ sở phân loại các đối tượng khách hàng để có cách ứng xử đúng đắn thông qua các mức lãi suất. Cũng thông qua chính sách lãi suất mà Ngân hàng áp dụng chúng ta có thể biết được thị trường mục tiêu của Ngân hàng là các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế. Đây không chỉ là khách hàng thường xuyên, chủ yếu là đối tượng chính mà Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội phục vụ, họ còn là những cổ đông chính đóng góp cho sự hoạt động và phát triển của Ngân hàng. Ngoài ra, với chủ trương đa dạng hoá hoạt động và không ngừng mở rộng thị trường, các đối tượng khách hàng khác ngoài quân đội cũng rất được Ngân hàng quan tâm chú ý và có chính sách thu hút thông qua lãi suất huy động và cho vay. Chẳng hạn như một số doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên có tổng dư nợ lớn, và một số khách hàng mà doanh nghiệp cần tranh thủ đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có xu hướng phát triển mạnh trong tương lai như giao thông, bưu điện, xuất khẩu gạo.
2.2.1. Trong việc huy động vốn:
Ngoài ra các mức lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ cũng được điều chỉnh trên cơ sở các qui định quản lý của Ngân hàng Nhà nước và khả năng huy động, cho vay của Ngân hàng dẫn đến quá trình điều chỉnh được thể hiện rõ ràng trong