NỘI DUNG BÁO CÁO
Chương 1: Các loại chính sách tiền tệ
Chương 2: Các công cụ của chính sách tiền tệ.Mối quan hệ giữa các công cụ với nhau
Chương 3: Việc vận dụng các công cụ này vào tình hình thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay
Chương 4: Sự liên quan giữa các chính sách tiền tệ quốc gia với đồng bản tệ và các đồng tiền khác
Chương 5:Vai trò của Ngoại hối trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
Chương 6: Tìm hiểu cõ chế điều hành tỷ giá của Trung Quốc hiện nay
29 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4662 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ chứ không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được - nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ngược lại, định giá thấp xuống để bán cho được - nếu muốn hút tiền từ lưu thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá cao và bán giá thấp - đó là một loại chi phí buộc phải trả.
J Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. Ngoại tệ cần phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên dù không hành chính hoá vấn đề này, song, nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng không được từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về - sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất... Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN - đại diện cho Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
CHƯƠNG 3
VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ NÀY VÀO TÌNH HÌNH THỰC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA VÀ HIỆN NAY
1. Chính sách tiền tệ của NHTW trong thời gian qua:
Giai đoạn từ 1998 đến 2007: để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 - 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ… Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng - nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây).
Biều đồ: Tốc độ tăng cung tiền và GDP của 3 nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%, cung tiền đo bằng M2
Nguồn: Website của NHNN
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở Thái Lan hầu như không đáng kể.
Hai quý đầu của năm 2008: cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở nên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở nên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.
@ Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008:
- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN).
- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).
- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).
Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm.
Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 - đến tháng 6/2008
Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008
12%/năm
1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008
19/05/2008
8.75%/năm
305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008
01/02/2008
8,25%/năm
1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005
01/12/2005
Nguồn: Website của NHNN
Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền và qua đó mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm... Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm.
Bảng 2: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản 6 tháng cuối năm 2008
Lãi suất CB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%
3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
10%
2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
05/12/2008
11%/năm
2808/QĐ--NHNN ngày 20/11/2008
21/11/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008
05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008
Nguồn: Website của NHNN
- Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm.
Bảng 3: Những dấu mốc thay đổi lãi suất DTBB năm 2008
Lãi suất DTBB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%/năm
3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
9%/năm
2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008
5/12/2008
10%/năm
2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
5,0%/năm
2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008
01/10/2008
3,5%/năm
1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008
01/9/2008
Nguồn: Website của NHNN
- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra…
Tất cả những quyết định trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các NHTM trong việc mở rộng “hầu bao” cho vay đối với nền kinh tế. Ngay sau đó, mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Ngày 01/12, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thiết lập mặt bằng lãi suất mới với mức thấp nhất là 11,4%/năm; ngày 05/12, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng công bố lãi suất thấp nhất của mình là 11%/năm; ngày 10/12, NHTM Xuất nhập khẩu Việt Nam giảm lãi suất cho vay với doanh nghiệp, ngắn hạn còn 13,2%/năm, giảm 1,2%/năm so với cuối tháng 11… Tháng 12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 13-14%/năm. Động thái giảm lãi suất của các ngân hàng là một giải pháp tích cực cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn để duy trì và mở rộng sản xuất.
2. Đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ năm 2008:
2.1. Về mặt tích cực:
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đi đúng hướng. Lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành cho các định chế tài chính hồi tháng ba.Chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát lạm phát một cách thành công.Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chính sách trong tháng 10 và bắt đầu chú ý nhiều hơn đến việc ổn định hoạt động kinh tế trong nước.
Chính sách nới lỏng tiền tệ của ngân hàng đang thực hiện trong giai đoạn gần đây, cho thấy NHTW có khả năng có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt. Chuyển từ mục tiêu kiềm chế lạm phát, tốc độ thay đổi chính sách tiền tệ hơi quá nhanh, vì lạm phát vẫn ở mức cao trên 20%.
Nhưng nhìn chung, có thể nói rằng sự điều chỉnh của NHTW là kịp thời. Những thay đổi chính sách nhanh chóng gần đây cho thấy rằng NHTW đang thiết lập hệ thống thu thập thông tin tốt và nhiều cơ hội để đối thoại với các thành viên chính của thị trường, đó là một yếu tố rất quan trọng để chính sách tiền tệ được điều hành thật sự hiệu quả.
2.2. Về mặt hạn chế:
Điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc, khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra.
Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.
Bên cạnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến thị trường tài chính, một điểm yếu khác của Việt Nam là hiệu quả đầu tư, kết quả là giá thành tăng cao. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam cao hơn những nước láng giềng có lẽ là năng lực sản xuất thấp trong so sánh với nhu cầu trong nước và hiệu quả đầu tư thấp.
Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường... là những căng thẳng mà Ngân hàng Nhà nước đang gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả. Điều chỉnh thông tin một cách có hệ thống và tin cậy, một hệ thống số liệu thống kê cũng chưa được trang bị tốt cho Ngân hàng Nhà nước.
2.3. Giải pháp:
Để điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cần phải có một thị trường tiền tệ hoạt động đầy đủ. Nhưng thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển tốt và Ngân hàng Nhà nước đã gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ một cách linh hoạt trên thị trường.
Nhiệm vụ trước mắt của Ngân hàng Nhà nước là phải cân bằng giữa áp lực lạm phát của nền kinh tế trong nước và yêu cầu về các biện pháp cần thiết để làm dịu bớt tác động tiêu cực của sự suy giảm sâu hoạt động kinh tế thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam đang giảm nhanh và FDI đang chuyển hướng. Số lượng khách du lịch đến Việt Nam đang giảm. Lượng kiều hối cũng có thể sụt giảm. Để hỗ trợ hoạt động kinh tế, Chính phủ đã công bố gói giải pháp kích thích kinh tế. Gói giải pháp này sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam năng động trở lại. Nhưng năng lực sản xuất trong nước của Việt Nam chưa đáp ứng kịp với nhu cầu trong nước, vì vậy, chúng ta cần thận trọng, tránh để xảy ra tình trạng tái phát và nhập khẩu lớn.
2.4. Những tác động của kinh tế thế giới đến thị trường tiền tệ của Việt Nam trong thời gian tới:
Năm 2009 sẽ là một năm khó khăn cho kinh tế thế giới và Việt Nam. Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng trên khắp thế giới, không chỉ một vài quốc gia, cả những quốc gia đã phát triển và đang phát triển đều có thể phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, sự sụt giảm kinh tế lớn và những khó khăn trong việc quản lý các món nợ và nợ xấu (NPL).
Kinh tế thế giới đang đối mặt với áp lực giảm phát lớn và có thể trải qua tình trạng lạm phát trì trệ (stagflation). Tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam có thể giới hạn vì liên tục có nhu cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Việt Nam là nước có nguồn nhân lực và tài nguyên khá tốt. Hệ thống chính trị ổn định. Câu hỏi cần đặt ra là làm thế nào quản lý và dành ưu tiên cho các khoản đầu tư đó, xét dưới góc độ hiệu quả đầu tư.
CHƯƠNG 4
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA VÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỒNG BẢN TỆ VÀ CÁC ĐỒNG TIỀN KHÁC
1. Cơ sở của chính sách tỷ giá linh hoạt và tăng giá VND
Ở các nước châu Á có cùng chung chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu như VN, đồng USD liên tục giảm giá. Đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với đồng USD khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước này trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất trong 7 năm qua so với đồng USD. Đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm nay. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng NDT đã lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đáng lo nhất là ở Ấn Độ và Thái Lan, đồng nội tệ tăng giá sẽ tạo lợi thế rõ rệt cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, kể từ năm 2006 đến nay, giá của đồng Baht đã tăng 20%. Đồng Rupee (Ấn Độ) đã tăng 12% so với đồng USD trong năm.
Vì lẽ đó, VN không quá lo ngại đối với vấn đề VND lên giá sẽ làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt hơn. Thứ nhất, đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Bên cạnh đó, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Mặt khác, các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở VN cũng được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ, yếu tố đầu vào rẻ hơn.
2. Tăng cường linh hoạt tỷ giá và tăng giá VND ở thời điểm hiện nay
{ Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong thời gian qua:
Khi VN gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên, mặt trái của chính sách này là do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn, lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát trong thời gian qua. Nếu linh hoạt tỷ giá, khi tỷ giá thị trường thích hợp, Nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số lượng VND ít hơn để mua USD rẻ bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
{ Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu:
Vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, đồng USD của Mỹ đã mất giá đáng kể so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở VN, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần gây nên “lạm phát chi phí đẩy” vào VN. Sản xuất tại VN hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ làm tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn. Nếu tỷ giá linh hoạt hơn, nếu VND mạnh hơn sẽ phản ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.
{ Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND: Giúp hạn chế và sàng lọc nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn vốn đầu vào.
Ở VN hiện nay, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu chi phí đầu vào cao. Nếu linh hoạt tỷ giá thì VND sẽ lên giá vừa chống lạm phát vừa có nhiều tác dụng tích cực khác. Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát.
Trong điều kiện đồng tiền VN chưa được tự do chuyển đổi trên thị trường, nếu cầu lớn hơn cung thì giá sẽ vượt trần, còn nếu cung lớn hơn cầu thì giá đó nằm dưới giá sàn của NHNN qui định. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng mua bán USD ở bên ngoài để thanh toán dù biết đó là một hành động vi phạm pháp luật. Vì thế, Nhà nuớc cần thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, cho phép các nhà đầu tư có cơ hội vận dụng những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, giảm thiểu tác động tiêu cực do biến động của tỷ giá hối đoái, thúc đẩy mở rộng đầu tư nước ngoài.
3. Nhận xét:
Thực tế, việc tăng giá đồng nội tệ không trực tiếp gây ra rối loạn thị trường tiền tệ mà chủ yếu do cách vận dụng các chính sách của quốc gia như: cố định tỷ giá, đầu tư sai không hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu,… Hiện nay các nước phát triển đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi theo hướng này. Dĩ nhiên, các quốc gia cần phải đạt những điều kiện nhất định mới có thể tự do hoá tỷ giá và tăng giá đồng nội tệ. Việc tăng giá đồng nội tệ cần cân nhắc tác động của nó:
@ Tăng giá nội tệ có thể làm tăng nhập siêu, đặc biệt là nhập những hàng hoá xa xỉ, không phải là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống.
@ Tăng giá nội tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi canh tranh về tỷ giá trên trường quốc tế, có thể mất thị phần.
Dù VN hiện đang nhập siêu, nhưng đa phần hàng hoá nhập về là các yếu tố sản xuất. Việc nhập khẩu giá rẻ sẽ giúp chi phí máy móc, nguyên vật liệu cho sản xuất rẻ, góp phần xoa dịu lạm phát. VN cũng có thể dùng các biện pháp hành chính để can thiệp vào danh mục hàng hoá nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay để tránh nhập những hàng hoá tiêu dùng xa xỉ, không thiết yếu. Việc tăng giá VND hiện nay là hợp xu thế chung của thế giới, khi mà USD ngày càng mất giá, sẽ không ảnh hưởng lớn đến thị phần xuất khẩu ở VN. Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế. VN cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Mặt khác, khi tỷ giá hối đoái giảm, các ngân hàng cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, tạo điều kiện thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND. Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế.
Trong thời điểm lạm phát cao như hiện nay nên có biện pháp kiểm soát chặt hơn và hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.
CHƯƠNG 5
VAI TRÒ CỦA NGOẠI HỐI TRONG VIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA QUỐC GIA
1.Vai trò của ngoại hối trong việc thực thi chính sách tiền tệ :
Vai trò chủ yếu của ngoại hối là đảm bảo thanh toán quốc tế và bình ổn tỷ giá hối đoái. Vai trò đó dược thể hiện qua qui mô dự trữ ngoại hối của mỗi quốc gia, mà công tác quản lý thường do NHTW đảm nhiệm.
Việc duy trì một mức dự trữ ngoại hối vừa đủ là cần thiết nhằm bảo vệ giá trị đồng nội tệ, hạn chế sự biến động quá mức của tỷ giá hối đoái, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, chống đỡ khủng hoảng kinh tế và tài chính. Điều này là phù hợp đối với mọi nền kinh tế, nhưng sẽ đặc biệt quan trọng hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển bắt đầu thực hiện mở cửa, tự do hoá các giao dịch vốn quốc tế. Tuy nhiên, nếu dự trữ ngoại hối quá lớn sẽ làm phát sinh chi phí cho việc nắm giữ dự trữ ngoại hối do lợi nhuận thu được từ đầu tư dự trữ ngoại hối thường thấp hơn chi phí đi vay vốn nước ngoài. Do vậy, các quốc gia hiện nay đều quan tâm đến việc xác định mức dự trữ ngoại hối vừa đủ, phù hợp với quy mô của nền kinh tế, tình hình tự do hoá cán cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo vệ giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền tệ v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG (file word).doc