Chuyên đề Cơ hội và thách thức đối với ngành thuỷ sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN 1 : NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

 KINH TẾ QUỐC TẾ 4

1.1. Những xu hướng kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay ảNH HƯởNG ĐếN NGàNH CÔNG NGHIệP THUỷ SảN . 4

1.1.1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới. 4

1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế đối với ngành thuỷ sản Việt Nam. 6

1.2. Khái quát Quá trình phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam. 9

1.2.1. Ngành thuỷ sản trước năm 1990. 9

1.2.2. Ngành thuỷ sản sau năm 1990. 11

1.3. Thực trạng ngành thuỷ sản việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 14

1.3.1. Môi trường phát triển của ngành thuỷ sản. 14

1.3.1.1. Điều kiện tự nhiên: 14

1.3.1.2. Cơ chế chính sách 16

1.3.2. Thực trạng nuôi trồng, đánh bắt của ngành thuỷ sản Việt Nam 18

1.3.2.1.Về năng lực sản xuất 19

1.3.2.2. Về đầu tư 20

1.3.2.3.Về công nghệ chế biến 21

1.3.3.Thực trạng thu mua chế biến và tiêu thụ sản phẩm 22

1.3.3.1. Hoạt động thu mua. 22

1.3.3.2.Hoạt động tiêu thụ 23

PHẦN 2 : CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ SẢN

 VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 27

2.1. Cơ sở lý thuyết ma trận ( SWOT) 27

2.2. Phân tích Những yếu tố ảnh hưởng đến ngành thuỷ sản việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 30

2.2.1.Những điểm mạnh 31

2.2.2. Những điểm yếu 34

2.2.3. Những cơ hội 37

2.2.4.Những nguy cơ 39

2.3. Một số giải pháp cơ bản phát triển ngành thuỷ sản việt nam trong giai đoạn hiện nay 41

2.3.1. Thuỷ sản trong tiến trình hội nhập 41

2.3.1.1.Định hướng cơ bản : 41

2.3.1.2. Những mục tiêu chiến lược: 43

2.3.1.3. Hội nhập mở rộng hợp tác quốc tế năm 2003: 45

2.3.2. Một số giải pháp cơ bản 48

2.3.2.1. Khai thác hải sản: 48

2.3.2.2. Nuôi trồng thuỷ sản: 50

2.3.2.3.Chế biến và thương mại thuỷ sản: 51

2.3.2.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế : 51

2.3.2.5. Phát triển nguồn nhân lực và tăng cường năng lực thể chế : 54

KẾT LUẬN 55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

 

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3684 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Cơ hội và thách thức đối với ngành thuỷ sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngoài. Đây là vấn đề mà ngành thuỷ sản cần phải quan tâm nghiên cứu để đa ra các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong những năm tới. Nêu tính tổng mức đầu tư của nền kinh tế trong 5 năm qua thì đầu tư cho ngành thuỷ sản còn quá nhỏ bé chỉ chiếm 1,83 % song hiệu quả đem lại cho nền kinh tế quốc dân lại là 3-3,2%. Đây thực sự là một dấu hiệu đáng mừng. nó cho thấy đầu tư vào ngành thuỷ sản rất hiệu quả. Từ các nguồn đầu tư này ngành thuỷ sản phân bổ vào các lĩnh vực sau : - Đầu tư cho khai thác hải sản là 2.497.122 triệu đồng chiếm 27,88% bao gồm đầu tư đóng mới cải hoán tàu thuyền phục vụ chương trình khai thác hải sản xa bờ và đầu tư xây dựng các cảng cá, bến cá, điều tra nguồn lợi thuỷ sản . - Đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản là 2.283.057 triệu đồng, chiếm 25,49% theo chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã được chính phủ phê duyệt, cũng như chương trình 773 khai thác bãi bồi ven sông, ven biển cùng mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản - Đầu tư cho lĩnh vực chế biến thuỷ sản là 2.737.308 triệu đồng chiếm 30,45% trong đó nội dung chính là : Xây dựng một số nhà máy lớn, củng cố cơ sở hạ tầng các xí nghiệp chế biến thuỷ sản, nâng cao năng xuất chất lợng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu 1.3.2.3.Về công nghệ chế biến Công nghệ chế biến là khâu quan trọng trong chu trình sản xuất, nuôi trồng, chế biến và kinh doanh thuỷ sản. Hoạt động chế biến 15 năm qua đợc coi là rất hiệu qủa, góp phần tạo sự khởi sắc cho ngành thuỷ sản trong việc đa dạng hoá các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Nếu như năm 1986 cả nước có trên 40 nhà máy chế biến thuỷ sản với công xuất chế biến 210 tấn thành /ngày thì sau 15 năm đổi mới, năm 2001 đã có khoảng 266 nhà máy ( tăng 88,64 % ) tăng bình quân 5,8%/năm với công xuất chế biến hơn 15.000 thành phẩm/ ngày trong đó có 77 nhà máy có thành phẩm xuất khẩu vào EU và có hơn 100 đơn vị áp dụng HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang hoa kỳ trong hơn 3 năm qua tổng đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản của việt nam là trên 2000 tỷ đồng trong đó nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản của ta đã ngang trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và bước đầu tiếp cận với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. Nhờ đó mà trong 5 năm qua tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản khá cao so với con số thực hiện năm 1996. Trong năm 2000 tổng sản lượng khai thác đạt 1.280.590 tấn tâng 33,05%. Sản lượng nuôi trồng đạt được723110 tấn tăng 75,94% với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,475 tỷ USD tăng tới 120,14% so với năm 1996. Năm 2001 sản lượng khai thác đạt 1347800 tấn sản lượng nuôi trồng đạt 879100 tấn với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,75 tỷ USD tăng 19,32% so với năm 2000 và năm 2002 đạt 2 tỷ USD. Không những thế, tỷ trọng hàng chế biến có giá trị tăng lên đáng kể đạt khoảng 19,75% giá trị xuất khẩu năm 2001.Tuy nhiên số lượng cơ sở chế biến chỉ chiếm khoảng 28,95% tổng số nhà máy chế biến thuỷ sản hiện nay ở Việt Nam. Mặt khác cũng theo các nguồn tin từ bộ thuỷ sản thì trong số 266 nhà máy chế biến thủy sản hiện nay số nhà máy được xây dựng vào thập liên 90 chiếm khoảng 30% số còn lại được xây dựng vào thập liên 80 và sớm hơn nên đều lạc hậu xuống cấp không đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của thị trường. 1.3.3.Thực trạng thu mua chế biến và tiêu thụ sản phẩm 1.3.3.1. Hoạt động thu mua. Do tính mùa vụ, người nuôi tôm thu hoạch tôm không đồng loạt, có thời gian lên tới hàng chục tấn trong một tuần mà người mua chỉ là các đại lý thu gom không hết, bà con lại thiếu thông tin về giá cả thị trường. Những yếu tố đó dẫn đến việc tìm đầu ra cho con tôm của bà con hết sức khó khăn, không thể tránh khỏi sự ép giá, gây tổn thất cho người nuôi. Trong khi đó các doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu lại thiếu những số liệu về sản phẩm như sản lượng, kích cỡ tôm, thời điểm thu hoạch để hoạch định phương án sản xuất trước mắt cũng như lâu dài.Vì vậy để có thể phát triển nuôi tôm hiệu quả bền vững, ngoài việc hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, vốn và kiểm soát chất lượng sản phẩm thì vấn đề thông tin thị trường, giá cả, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm ổn định đầu ra là hết sức quan trọng. Tình hình tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản khác của bà con ngư dân cũng tương tự như vậy.Với những hộ sản xuất lớn có thể có các hình thức ký kết bán sản phẩm cho các xí nghiệp chế biển trước khi nuôi trồng, xong do đặc điểm thiếu vốn cho sản xuất nên các hộ kinh doanh thường nhận các nguồn đầu tư từ các nhà chế biến và phải bán sản phẩm cho các doanh nghiệp này khi đến kỳ thu hoạch.Tuy nhiên các hộ kinh doanh thường bị các doanh nghiệp ép giá.Có những xí nghiệp việc khai thác, đánh bắt kết hợp với hoạt động chế biến đã tạo nên một dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh nâng cao chất lượng sản phẩm. Để giải quyết những vướng mắc trên trong công tác thu mua các trung tâm giao dịch thuỷ sản đã ra đời. Mục tiêu, chức năng chính của các trung tâm này là giúp bà con ngư dân có đủ điều kiện tiếp cận thông tin thường xuyên, kịp thời về giá cả và nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản trên thị trường.Trung tâm còn là nơi gặp gỡ giao dịch đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế giữa người mua và người bán các mặt hàng thuỷ sản thông qua hình thức báo giá đến đấu giá, mua bán hàng bằng hợp đồng tương lai cũng như các hình thức mua bán khác. ở đây các doanh nghiệp sản xuất có điều kiện tiếp xúc với vùng nguyên liệu, có những thông tin để đánh giá về sản lượng cũng như chất lượng nguyên liệu làm cơ sở cho các quyết địnhkế hoạch kinh doanh.Trung tâm còn là nơi tư vấn, cung ứng cho ngư dân về công nghệ nuôi trồng, con giống, thức ăn, chế phẩm, thuốc phòng trị bệnh... 1.3.3.2..Hoạt động tiêu thụ Hiện nay nhu cầu tiêu thụ đối với mặt hàng thuỷ sản trong nước còn rất hạn chế mới chỉ ở dạng tiềm năng. Mặt hàng thuỷ sản chủ yếu được xuất khẩu và thủy sản đã trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của Viêt nam .Tuy nhiên để đảm bảo tiêu chuẩn của mặt hàng xuất khẩu, sản phẩm thuỷ sản cũng phải vượt qua rất nhiều thách thức, khó khăn. Nhìn vào xuất khẩu của ngành thuỷ sản năm 2002 ta có thể thấy rõ điều này . Chưa bao giờ ngành thuỷ sản Việt nam lại khó khăn như năm 2002 +Trước hết đó là việc liên minh châu âu ( EU ) tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh 100% lô hàng tôm xuât khẩu, khiến một loạt các thị trường khác như Mỹ, Canada và Nhật Bản áp dụng quy chế tương tự +Trong đó thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mĩ (CFA) kiện các doanh nghiệp xuất khẩu cá Tra, cá BaSa Việt nam bán phá giá.Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản năm qua vẫn tăng mạnh cả về số và chất lượng đạt 2 tỷ USD tăng 2 lần trong vòng 3 năm .Nếu xuất khẩu thuỷ sản trong nửa cuối 2002 như những tháng đầu năm thì ngay cả những người lạc quan nhất cũng không dám dự đoán sẽ hoàn thành mục tiêu 2 tỷ USD. Sáu tháng đầu năm các doanh nghiệp mới chỉ xuất khẩu được 845 triệu USD tăng 46% so với năm 2001. Điều đó có nghĩa để hoàn thành kế hoạch năm mỗi tháng phải xuất khẩu 195 đến 200 triệu USD.Tuy nhiên những nỗ lực của ngành đã được đền đáp xứng đáng . Thứ nhất, xuất khẩu thuỷ sản tăng cả về số lượng và chất lượng, năm 2002 tăng gần 20% về lượng và 15% về giá trị so với 2001 kim ngạch xuất khẩu năm 2002 tăng 2,2 lần năm 1999 và gấp 1,9 lần năm 2000. Thứ hai, sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam đã tăng đáng kể .ngư dân đã tận dụng tất cả lợi thế so sánh để phát triển, nuôi trồng thủy sản, đa dạng hoá các đối tượng nuôi có giá trị xuất khẩu, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ khối lượng lớn. Đặc biệt sản phẩm chế biến từ cá BaSa, cá Tra của vùng Sông Cửu Long hiện được coi là mặt hàng không có đối thủ cạnh tranh về chất lượng , giá cả trên thị trường quốc tế , kể cả cá nheo nuôi ở Mỹ . Ngoài mặt hàng chiếm tỉ trọng lớn là tôm, cá cũng đang trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt nam với tỉ trọng tăng từ 13% năm 1999 lên 20% năm 2002. Trong cơ cấu sản phẩm tỉ lệ hàng giá trị gia tăng đã chiếm 355 cá biệt có đơn vị chiếm 70%.  Thứ ba, các doanh nghiệp chế biến đã tích cực đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACC, quản lý chất lượng theo ISO 9001; 9002. Từ chỗ chỉ có 11 doanh nghiệp được xuất khẩu sang EU. Năm 1998 đến nay con số này đã tăng lên 68 đơn vị (21,3%). Trong số 320 cơ sở chế biến thúỷ sản của cả nước có trên 100 đơn vị (312,3%) áp dụng HACC để có thể xuất khẩu sang Mỹ, 124 đơn vị (38,8%0) đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm . Thứ tư, thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng. từ chỗ chỉ có 45 thị trường trong năm 1997 đến năm 2002 con số này đã tăng lên 80. Xuất khẩu sang thị trường lớn là Mỹ và Nhật Bản lần lượt là 34% (680 triệu USD ) và 28% (560 triệu USD ) trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trung quốc, Đài Loan và Hàn Quốc đã nổi lên là những thị trường lớn. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 sang trung quốc trị giá trên 300 triệu USD (15% ), sang Hàn Quốc 100 triệu USD (5%) và Đài Loan 100 triệu USD (5%). Trong khi đó giá trị xuất khẩu sang 15 nước thành viên EU giảm gần 30% chỉ đạt 80 triệu USD. Bảng 4 : Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu 96- 2001 Đơn vị : 1000 tấn Năm Cá đông lạnh Mực đông lạnh Tôm đông lạnh Mực khô Thuỷ sản khác 1996 29,7 20,2 51,1 5,9 15,2 1997 81,0 40,0 68,2 6,4 41,4 1998 69,7 60,8 431,2 9,4 59,8 1999 89,9 73,9 225,6 11,6 83,6 2001 127,85 89,7 301,5 19,8 117,4 Nguồn : Bộ thủy sản Nhìn vào bảng ta thấy sản lượng xuất khẩu thuỷ sản liên tục tăng qua các năm, trong đó chủ yếu là mặt hàng tôm đông lạnh và cá đông lạnh, tiếp đến là những mặt hàng thuỷ sản khác mực đông lạnh và thống nhất là mực khô. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản đã có sự mở rộng các đơn vị xuất khẩu đã có quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Trong những năm gần đây Việt Nam đã cố gắng mở rộng thị trường sang Châu Âu và Mỹ. PHẦN 2 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT MA TRẬN ( SWOT) Việc xác định chiến lược lao động cho doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thông qua việc phân tích môi trường từng nội bộ doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp nhất cho doanh nghiệp mình. SWOT là một trong những ma trận được sử dụng để đưa ra chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc xác định điểm mạnh, điểm yếu và cơ hội, nguy cơ của doanh nghiệp đó tính điểm cho từng yếu tố. Ma trận SWOT SWOT Điểm mạnh (S) Điểm yếu (W) Cơ hội (O) Kết hợp SO Kết hợp WO Nguy cơ (T) Kết hợp ST Kết hợp WT Thông qua việc phân tích môi trường vĩ mô và môi trường ngành mà doanh nghiệp tìm kiếm đưa cơ hội cũng như thấy được nguy cơ có đặt ra cho doanh nghiệp. Có rất nhiều yếu tố của nền kinh tế quốc dân, của ngành, của khách hàng ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, gồm các yếu tố thuộc môi trường kinh tế – công nghệ, yếu tố thuộc môi trường chính trị – luật pháp môi trường văn hoá - xã hội, môi trường cạnh tranh…. Các yếu tố cơ bản được xác định như sau : - Tỷ lệ lạm phát - Tốc độ phát triển kinh tế - Cường độ cạnh tranh - Quy mô thị trường - Mức độ ưu đãi của Chính phủ Đối với doanh nghiệp thương mại chủ yếu dựa trên các tiêu thức : Đối thủ tiềm năng, nguồn hàng, nhu cầu tiêu thụ, sản phẩm thay thế, sản phẩm bổ sung. Nhóm yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp (chủ quan), việc phân tích nội bộ doanh nghiệp cho phép chúng ta xác định được điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp. Đây là nhóm yếu tố mang tính chất chủ quan do doanh nghiệp tạo ra do vậy doanh nghiệp có thể dùng các biện pháp để tác động vào các yếu tố này. Các yếu tố chủ yếu - Vốn - Con người (đặc biệt đối với doanh nghiệp thương mại - Tổ chức bộ máy công nghệ quản lý - Nguồn hàng và mức độ tin cậy của nguồn cung cấp - Sức cạnh tranh về giá - Sự am hiểu về thị trường/ khách hàng - Chất lượng sản phẩm và sự khác biệt về sản phẩm - Thị phần tương đối - Hiệu quả bán hàng - Địa bàn hoạt động Sau khi xác định được cơ hội, nguy cơ, điểm mạnh và điểm yếu, ta tiến hành cho điểm đối với từng yếu tố và sự kết hợp giữa các yếu tố trong ma trận sẽ cho chúng ta biết được vị trí của từng doanh nghiệp. SWOT S W O 1 SO 2 3 OW T 1 ST 2 3 TW Sự kết hợp giữa cơ hội và điểm mạnh (SO) ở các vị trí khác nhau thì cũng rất khác nhau. Trong mô hình trên ta có thể thấy tại vị trí SO1 doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn vị trí SO3. Nhìn chung ma trận SWOT chỉ cho phép ta định hướng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp mà chưa đưa ra được một chiến lược kinh doanh cụ thể. Để đưa ra một chiến lược kinh doanh cụ thể hiện nay người ta thường sử dụng ma trận Mc kinsey để phân tích. Ma trận này được xây dựng trên cơ sở của ma trận SWOT tuy nhiên nó cụ thể hơn. Cao TB Thấp Ma trận Mc. KinSey Thị phần của doanh nghiệp Mức hấp dẫn của thị trường Cao TB Thấp 1 (I) 2 3 (II) (III) (IV) (V) (VI) (VII) VIII) (IX) Đây là ma trận 9 ô, mỗi ô sẽ tương ứng với một chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở các điểm khác nhau trong mỗi ô thì chiến lược kinh doanh cũng rất khác nhau tương tự trong ma trận SWOT. 2.2. PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Thuỷ sản là một trong những ngành sản xuất kinh doanh, nằm trong tổng thể kinh tế xã hội của loài người. Sống dựa trên việc khai thác có hiệu quả kinh tế cao những tiềm năng kinh tế của nguồn lợi nhiên nhiên, sinh vật sống trong các mặt nước, nguồn lực lao động lớn, giàu kinh nghiệm, truyền thống sản xuất và những tích luỹ cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ được tạo ra trong quá trình khai thác nguồn lợi này. Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo nhiều công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt là những vùng nông thôn và vùng ven biển, là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận nhân dân làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ, cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như cảng, bến đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá. cung cấp dầu nhớt, cung cấp các thiết bị nuôi, bao bì và cung cấp hàng tiêu dùng cho ngư dân. Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng kinh tế chung của nhiều nước. Nhu cầu thuỷ sản ngày càng tăng trong khi nguồn lợi tự nhiên của các tài nguyên này lại có giới hạn và khai thác triệt để, vì vậy ngành nuôi trồng thuỷ sản đã được phát triển để bù đắp vào những sự thiếu hụt. Tuy nhiên, những giống loài có nhu cầu nhiều nhất sẽ được tìm cách nuôi trồng nhiều nhất. Ngày nay nuôi trồng thuỷ sản đã cung cấp được khoảng 27% tổng sản lượng hải sản trên thế giới nhưng chiếm gần 35% sản lượng thuỷ sản được dùng làm thực phẩm. Đối tượng thuỷ sản nuôi trồng rất phong phú, gồm đủ các chủng loại cá, nhuyễn thể, giáp xác và một số loài khác. Nuôi trồng thuỷ sản có quy mô rất khác nhau : Từ quy mô nhỏ gia đình gắn liền với hệ thống canh tác tổng hợp đến các trại nuôi chuyên công nghiệp hoá có quy mô lớn. Nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển ở tất cả các vùng trên thế giới, đặc biệt đã tạo ra một nguồn thu nhập đáng kể cho các nước đang phát triển. Các nước này đã cung cấp khoảng 3/4 tổng sản lượng nuôi của thế giới. Cùng với đó việc gia tăng sản xuất thương mại toàn cầu cũng phát triển một cách nhanh chóng, đặc biệt là hàng hoá thuỷ sản tươi sống đang tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số thế giới, cùng với hậu quả của quá trình công nghiệp hoá ngày càng thu hẹp đất canh tác của nông nghiệp cộng với sự diễn biến phức tập của thiên nhiên, môi trường tới sản xuất nông nghiệp làm cho lương thực, thực phẩm sẽ luôn là mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới và quá trình trao đổi buôn bán hàng hoá, lương thực, thực phẩm trên toàn cầu ngày càng rộng rãi trong đó thuỷ sản chiếm một vị trí quan trọng. Trong điều kiện đó sản phẩm thuỷ sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng để giải quyết nguồn dinh dưỡng thực phẩm cho nhân loại, phạm vi và khối lượng giao lưu của các mặt hàng này trên thế giới ngày càng tăng và sẽ tiếp tục tăng với sự đa dạng của nó. Như vậy phát triển sản xuất thuỷ sản ở những nơi có điều kiện không chỉ còn đơn thuần là đòi hỏi cấp bách và lâu dài cho việc giải quyết thực phẩm tại chỗ, giải quyết công ăn việc làm, không đơn thuần mang ý nghĩa nhân đạo nữa. Ngành sản xuất này đang và nhiều hứa hẹn có thể trở thành ngành sản xuất kinh doanh có lãi cao với xu thế ổn định lâu dài trên thị trờng thế giới. Đó là tiền đề quan trọng bậc nhất của sự phát triển sản xuất kinh doanh thuỷ sản và tiếp tục là một trong những xuất phát điểm quan trọng cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản ở nước ta . 2.2.1.Những điểm mạnh Hiện nay ở nước ta đang có những điều kiện thuận lợi rất cơ bản để phát triển ngành thuỷ sản, nhất là nuôi trồng thuỷ sản. Đảng và nhà nước rất quan tâm, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ tầm quan trọng của bước đi đầu tiên là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn Coi ngành thuỷ sản là mũi nhọn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là bước đi ban đầu quan trọng nhất. Coi chuyển một bộ phận diện tích đất đai đang canh tác nông nghệp và làm muối kém hiệu quả hơn sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng đi chủ yếu của chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn và có những chương trình, chính sách hỗ trợ rất lớn cho công việc chuyển đối và phát triển ngành thuỷ sản trong toàn quốc : chương trình phát triển chế biến và xuất khẩu thuỷ sản - 1998 ; chơng trình nuôi trồng và phát triển thuỷ sản -1999 ; hỗ trợ phát triển giống thuỷ sản các dự án phát triển nuôi tôm nông nghiệp ; các dự án phát triển nuôi biển. Ngành thuỷ sản đã có một thời gian dài chuyển sang cơ chế kinh mới ( khoảng 20 năm ) hướng sang thị trường có sự quản lý của nhà nước đã có sự cọ sát với kinh tế thị trường và đã tạo ra đợc nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả các lĩnh vực từ khai thác, chế biến, nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiễn cũng đã tăng đáng kể. Bờ biển Việt Nam với chiều dài 3260 km kéo dài từ bắc tới nam trải dài hơn 13 vĩ độ với khí hậu nhiệt đới gió mùa, là điều kiện tựn nhiên thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Việt Nam đã tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vào tháng 5 năm 1997. Theo tuyên bố này một vùng nước gồm vùng nước nội thuỷ, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế với tổng diện tích khoảng 1 triệu km2 đã được xác định thuộc hải phận quốc gia Việt Nam. Vùng đặc quyền kinh tế có khoảng hơn 2000 loài sinh vật biển trong đó có hơn 100 loài tôm biển 53 loài mực, 650 loài rong biển, 12 loài rắn biển... Ngoài ra còn nhiều loài đặc sản quý hiếm khác như : yến sào, sò huyết ... Hàng năm cung cấp khoảng 1,7 triệu tấn hải sản các loại. Ước tính tổng trữ lợng thuỷ sản từ các nguồn từ ngoài biển trong vùng nước thuộc quyền tài phán của Việt Nam khoảng 3-3,5 triệu tấn và tổng khối lợng có thể đánh bắt vào khoảng 1,2-1,5 triệu tấn/năm Về môi trờng, nếu biết tận dụng diện tích mặt nước của các ao, vịnh, vùng đất nhiễm mặn ven biển và hoang hoá cao triều để mở rộng thêm diện tích nuôi, kết hợp với đầu tư chuyển đổi công nghệ, nâng cao năng xuất nuôi trồng thì tới năm 2005 ta hoàn toàn có khả năng thu được trên 1 triệu tấn hải sản nuôi trong đó có nhiều loài có giá trị thương phẩm cao. Nhìn chung có thể phát triển thuỷ sản khắp nơi trên toàn đất nước vì ở mỗi vùng đều có những tiềm năng đặc thù và sản phẩm đặc sắc riêng. Tuy nhiên Việt Nam có một số vùng sinh thái đất thấp đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và sông cửu long có thể tiến hành các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có chất lượng cao giá thành hạ mà các hệ thống canh tác khác không thể có được những lơi thế cạnh tranh đó. Lợi thế này đặc biệt phát huy trong cạnh tranh với hệ thống nuôi công nghiệp khi giá cả thuỷ sản trên thị trường thế giới ở mức thấp, nhất là với mặt hàng tôm. Việt Nam chưa thực sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển. Chúng ta còn nhiều tiềm năng các vùng biển để nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trờng sinh thái. Việc đa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra triển vọng phát triển mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghệp, nhất là đối với vùng duyên hải dọc theo bờ biển miền trung. Khả năng này vừa mang ý nghĩa đẩy nhanh tốc độ phát triển nuôi trồng thuỷ sản, thâm canh, sử dụng những tài nguyên xưa nay bỏ phí vừa có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, đồng thời cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường vùng ven biển. Chúng ta có nhiều lao động và nguồn nhân lực còn ít được đào tạo sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh sử dụng để phát triển, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Tất nhiên trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những lợi thế so sánh động ( và thường những lợi thế ấy chúng ta phải tạo ra như lợi thế về công nghệ cao, lợi thế về kỹ thuật yểm trợ vv...) 2.2.2. Những điểm yếu Việc khai thai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam mặc dù có nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn khó khăn : Tại một số địa phương còn chưa quy hoạch tổng thể còn một số địa phương còn chưa quy hoạch chi tiết ở nhiều vùng nuôi đặc biệt là những vùng chuyển đổi và ở các eo, vịnh có thể nuôi thuỷ sản bằng lồng, bè để cân bằng sinh thái tránh tác động tiêu cực của việc nuôi trồng thuỷ sản đến môi trường nói chung cũng như tránh các ảnh hưởng sấu của việc canh tác lúa và tôm Những đòi hỏi ngày càng chặt chẽ về chất lượng thuỷ sản của các nước nhập khẩu thuỷ sản và xu thế hội nhập quốc tế với việc rỡ bỏ hàng dào thuế quan sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước trong khi công nghệ nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam còn lạc hậu so với các nước cạnh tranh với ta . Tuy lợi ích của nghề nuôi trồng thuỷ sản nhất là nuôi tôm nước lợ và nuôi thuỷ sản ở biển là lớn song nhu cầu đầu tư cho nuôi, hệ thống dịch vụ hậu cần để phát triển nuôi trồng thuỷ sản chưa theo kịp với tốc độ phát triển của phong trào. Công tác kiểm dịch nhiều nơi còn mang tính chất thủ tục hành chính. Thức ăn và thuốc phòng trị bệnh cho nuôi tôm, cá không cung cấp đủ chưa đủ sức cạnh tranh với thức ăn và thuốc bên ngoài. Việc dùng thức ăn công nghiệp nuôi cá còn hạn chế vì giá thành cao. Khó khăn trong việc nuôi trồng nói chung và nhất là nuôi tôm, nuôi biển là rất lớn. Kỹ thuật nuôi phức tạp trong khi cơ sở hạ tầng còn yếu kém, khả năng xuất hiện thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm cũng rất lớn. Bộ máy ngành thuỷ sản ( đặc biệt là hệ thống quản lý nuôi trồng thuỷ sản và khuyến ngư ) cả về tổ chức lực lượng cán bộ chưa đáp ứng kịp thời nghề phát triển nuôi trồng thuỷ sản ngày càng lớn trong phạm vi cả nước và các địa phương Quy hoạch cho tất cả các vùng nuôi trồng thuỷ sản triển khai không đồng bộ, chậm và còn nhiều lúng túng. Công tác quy hoạch cho nuôi chưa được cụ thể hoá, sự phối hợp giữa ngành nông nghiệp và thuỷ sản chưa nhiều. Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và cho nuôi biển nhìn chung còn hạn chế thiếu sự tập trung trong phát triển. Việc đầu tư ở nhiều địa phương còn mang tính chất dàn trải, chia phần. Cơ chế đầu tư vào một số chính sách khác cần tiếp tục được hoàn thiện. Việc giao đất, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản cho người nuôi còn có những điểm chưa hợp lý Hệ thống thuỷ lợi trước đây đã phát huy hiệu quả tốt nhưng sau khi chuyển đổi thì hệ thống này chưa đáp ứng đủ yêu cầu cấp, thoát nước phục vụ nuôi trồng thuỷ sản Hệ thống sản xuất tôm giống chưa được quy hoạch hợp lý, việc giải quyết tôm bố mẹ cho sản xuất tôm giống còn thụ động chủ yếu dựa và thiên nhiên, chưa có giải pháp hiệu quả giải quyết vấn đề tôm bố mẹ để đảm bảo chất lượng, số lượng, thời vụ cho sản xuất. Công tác kiểm dịch, kiểm tra giống còn nhiều bất cập. Cha kiểm dịch được các giống sạch bệnh nhất là các giống nuôi biển có giá trị kinh tế cao; còn thiếu công nghệ quản lý môi trường theo hướng bền vững; vấn đề phòng và trị bệnh cho vật nuôi và nhất là công nghệ sản xuất các loại thuỷ sản có giá trị cao, công nghệ thâm canh hiệu quả và bền vững . Công tác nghiên cứu về giống cho nuôi biển và các thuỷ đặc sản nước ngọt tiến bộ rất chậm. Nhiều đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế cao nhưng hầu như con giống của chúng chưa sản xuất được. Giống phục vụ nuôi thương phẩm chủ yếu được thu vớt ngoài thiên nhiên hoặc nhập từ nước ngoài Công nghệ nuôi biển gần đây mới được quan tâm nghiên cứu, kết quả nghiên cứu chưa đấp ứng được yêu cầu thực tiễn. Các khâu kỹ thuật then chốt như sản xuất giống nhân tạo, công nghệ nuôi năng xuất cao, hiệu quả ổn định, công nghệ sản xuất thức ăn phục vụ nuôi biển, công nghệ phòng trừ dịch bệnh, công nghệ bảo quản vận chuyển sống... và những vấn đề bức xúc khác . Những hạn chế trong công tác bao tiêu sản phẩm : Sản phẩm của thuỷ sản chủ yếu được dùng cho chế biến thức phẩm do vậy công tác thu mua bao tiêu sản phảm phải được thu mua đúng thời điểm sao cho đem lại giá trị dinh dưỡng cao nhất. Sản phẩm của thuỷ sản không giống như sản phẩm của ngành nông nghiệp có thể thu hoạch, dự trữ và chế biến dần mà nó đòi hỏi phải thu hoạch đúng thời vụ do vậy khối lượng sản phẩm đến kỳ t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33957.doc
Tài liệu liên quan