MỤC LỤC:
Lời nói đầu. 1
Phần I.
Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH. 3
I.Đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH. 3
1.Bản chất BHXH. 3
2.Đối tượng BHXH. 7
3.Chức năng của BHXH. 8
4.Tính chất của BHXH. 11
II.Quỹ BHXH và mục đích sử dụng quỹ. 12
1.Đặc điểm quỹ. 12
2.Nguồn hình thành quỹ. 13
3.Phí BHXH. 14
4.Mục đích sử dụng quỹ. 15
III.Vai trò của công tác thu. 16
1. Vai trò của công tác thu trong việc tạo lập quỹ. 16
2. Vai trò của công tác thu trong mối quan hệ giữa các bên trong BHXH. 17
3. Công tác thu trong việc đảm bảo công bằng trong BHXH. 18
Phần II:
Thực trạng công tác thu BHXH ở cơ quan BHXH quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. 19
I.Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam và BHXH quận Hai Bà Trưng. 19
1. BHXH Việt Nam. 19
1.1. BHXH Việt Nam thời kỳ 1945 – 1960. 19
1.2. BHXH Việt Nam thời kỳ 1961 – 1993. 20
1.3. BHXH Việt Nam thời kỳ 1995 tới nay. 24
2.Tổng quan về BHXH quận Hai Bà Trưng. 26
2.1.Khái quát chung về quận Hai Bà Trưng. 26
2.2.Khái quát chung về BHXH quận Hai Bà Trưng. 26
II.Một số vấn đề trong nghiệp vụ thu BHXH, BHYT bắt buộc. 38
1.Đối tượng thu. 38
1.1.Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. 38
1.2.Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc. 40
2.Mức thu BHXH, BHYT hàng tháng. 41
3.Tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH, BHYT. 42
4.Quy trình thu – nộp BHXH, BHYT. 43
4.1.Quy trình nộp. 43
4.2.Phân cấp quản lý thu BHXH, BHYT. 44
4.3.Lập và gia kế hoạch thu BHXH, BHYT. 46
4.4.Quản lý tiền thu BHXH, BHYT. 47
4.5.Chế độ thông tin báo cáo. 48
4.6.Hướng dẫn ghi chép một số mẫu thu BHXH, BHYT. 48
III.Thực trang công tác thu BHXH ở quận Hai Bà Trưng. 51
1.Tình trạng thu BHXH quận Hai bà Trưng. 51
1.1.Khối Hành chính sự nghiệp. 51
1.2.Khối doanh nghiệp. 55
1.3.Khối ngoàI quốc doanh. 56
Phần III:
Một số kiến nghị 59
Tài liệu tham khảo. 65
TÀI LIỆU THAN KHẢ
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2544 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công tác thu bảo hiểm xã hội tại Bảo Hiểm Xã Hội Quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc không nộp được, dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, phần ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 1993 trở đi, ngân sách Nhà nước cấp bù tới 92,7% trong tổng số tiền chi BHXH.
Bảng 1: Tình hình Ngân sách Nhà nước cấp để chi BHXH.
(Đơn vị: %)
Năm
Doanh nghiệp đóng
để chi BHXH
Ngân sách Nhà nước cấp
để chi BHXH
1964
95,3
4,7
1968
45,2
54,8
1970
29,7
70,5
1980
15,8
84,3
1990
26,18
73,29
12/1993
7,3
92,7
Nguồn BHXH Việt Nam
Như vậy, có thể thấy do cơ chế tạo nguồn chưa được xác định rõ ràng nên quỹ BHXH chưa được tính đúng, tính đủ làm cho thu không đủ chi, ngân sách Nhà nước phải cấp bù ngày càng lớn.
- Thứ ba, về tổ chức quản lý BHXH năm 1986 theo hành chính Nhà nước do Bộ Lao động-Thương binh và xã hội theo hệ thống quản lý 3 cấp:
ở trung ương đơn vị tài chính cấp 1 của Bộ là Vụ Kế hoạch tài chính có nhiệm vụ tổng hợp, cấp phát và quyết toán tài chính từ ngân sách Nhà nước cấp với các đơn vị tài chính cấp hai là Sở lao động - TBXH tỉnh và sau đó Sở quyết toán với đơn vị tài chính cấp 3 trực thuộc trên cơ sở quỹ BHXH do Bộ tài chính cấp hàng năm.
- Thứ tư, theo Nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng, thì trong chính sách BHXH có 6 chế độ áp dụng cho người lao động trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bênh nghề nghiệp, mất sức lao động hoặc chết. Đối với lao động làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, làm việc ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, nơi hải đảo và lực lượng vũ trang chiến đấu ở chiến trường được quan tâm, ưu tiên trong trong việc tính thời gian công tác, như: quy định quy đổi thời gian công tác 1 năm làm việc thực tế được tính thành 1 năm 2 tháng để nghỉ hưu (nếu lao động nặng nhọc độc hại), tính 1 năm 4 tháng (nếu làm việc ở vùng xa xôi hẻo lánh) hoặc tính thành 1 năm 6 tháng (nếu trực tiếp chiến đấu ở chiến trường gian khổ).
Mức trợ cấp BHXH được tính theo tỷ lệ (%) trên mức lương cơ bản khi nghỉ hưu. Mức lương hàng tháng đối với nam đủ 30 năm công tác và nữ đủ 25 năm công tác được tính bằng 75% lương chính và các khoản phụ cấp theo lương, sau đó cứ một năm làm việc lại tính thêm 1% tối đa lương hưu là 95% lương chính thức và các khoản phụ cấp (nếu có).
Riêng đối với chế độ mất sức lao động hàng tháng được quy định để áp dụng cho công nhân viên chức có đủ 15 năm công tác trở lên bị ốm đau, tai nạn lao động bị mất khả năng lao động từ 61% trở lên hoặc hết tuổi lao động. Mức trợ cấp mất sức lao động được hưởng theo quy định là 40% tiền lương áp dụng nếu có đủ 15 năm công tác, sau đó cứ thêm một năm thì được thêm 1%. Nếu chưa đủ 15 năm công tác quy đổi, thì được hưởng trợ cấp một lần, cứ một năm công tác được hưởng một tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có).
- Thứ năm, Quản lý Nhà nước và thực hiện chính sách BHXH theo Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng bộ trưởng thì Bộ lao động -TBXH có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách BHXH. Còn tổ chức thực hiện chính sách giao cho 2 cơ quan:
Bộ Lao động - TBXH quản lý 8% quỹ BHXH để trả trợ cấp mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý 5% quỹ BHXH và tổ chức trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Tổng số công nhân viên chức làm công tác BHXH của ngành Lao động-TBXH tính đến cuối năm 1992 có hơn 3000 người, ở Trung ương: 25 người; tỉnh, thành phố có khoảng 530 người và ở quận huyện có 2500 người.
Tổng số cán bộ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm công tác BHXH khoảng 1800 người chủ yếu là cán bộ nhân viên phục vụ nhà nghỉ, an dưỡng (có 1244 người).
- Đến cuối năm 1993, do thay đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, chính sách BHXH cũng bắt đầu thay đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang hoạch toán, gắn quyền lợi với trách nhiệm đóng BHXH của người lao động, thì tổ chức quản lý Nhà nước và quản lý sự nghiệp BHXH đã bộc lộ một số tồn tại, không đáp ứng yêu cầu về xây dựng, bổ sung chính sách cũng như tổ chức thu, chi và quản lý quỹ BHXH đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước và sự nghiệp BHXH.
1.3. Từ 1995 tới nay.
Chủ trương đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đòi hỏi chính sách BHXH phải thay đổi và dần dần hoà nhập với cơ chế BHXH của thế giới.
Năm 1995, Bộ luật lao động ra đời, đánh dấu bước tiến mới về các vấn đề lao động. Trong đó, các nguyên tắc về BHXH được quy định khá rõ như: Hình thức BHXH (bắt buộc, tự nguyện); đối tượng tham gia BHXH; mức đóng BHXH; trách nhiệm của chủ sử dụng lao động và người lao động trong đóng BHXH; các chính sách BHXH.v.v… Dựa vào Bộ luật lao động, ngày 26/1/2995, điều lệ BHXH bắt buộc được ban hành, kèm theo Nghị định số 12/CP của Chính phủ, áp dụng cho công nhân viên chức Nhà nước và doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên và điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 15/CP áp dụng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân.
1.3.1. Đặc điểm.
Quỹ BHXH được thành lập độc lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ. Hoạt động của quỹ dựa trên cơ sở thu chi quỹ BHXH, đánh dấu bước tiến quan trọng nhất của hệ thống BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH được dùng nguồn chưa sử dụng để đầu tư cho tăng trưởng và bảo toàn hoạt động NSNN đảm bảo và hổ trợ cho một số khoản:
- Chi BHXH cho những người đang nghỉ hưu, hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995 (theo CV số 267/CP-VX, ngày 15/3/1995 vì tại thời điểm ngày 1/1/1995 BHXH Việt Nam chưa ra đời, NSNN vẫn phải bảo đảm chi BHXH đến thời điểm 30/9/1995).
- Số người mà NSNN đảm bảo chi BHXH ( đến 30/9/1995 gồm 1.762.167 người, mất sức lao động 399.253 người; tai nạn lao động 6.419 người; công nhân cao su 1.356 người; phục vụ tai nạn lao động 288 người; tuất hưởng định suất cơ bản 164.973 người và tuất định suất nuôi dưỡng 3.091 người ) và số này giảm dần do chết theo các năm ( Báo cáo quyết toán của BHXH Việt Nam trong các năm từ 1995- 2002, mỗi năm giảm khoảng 1,8-2% ). Dự báo tới năm 2022 hết số hưởng chế độ hưu chí. Năm 2026 hết số hưởng tai nạn lao động và công nhân cao su và năm 2045 sẽ hết đối tượng hưởng trợ cấp tuất. Đến lúc đó NSNN mới hết chi trả các chế độ BHXH.
1.3.2. Những mặt tồn tại.
Chế độ BHXH hiện nay còn rất nhiều hạn chế như:
- Đối tượng tham gia BHXH mới trên 4,73 triệu người, chiếm khoảng 11,6% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Đến năm 2002 tổng số thu BHXH mới đạt 6.793 tỷ đồng.
- Chính sách BHXH không ổn định, mà thường xuyên được bổ sung điều chỉnh, như điều chỉnh điều kiện hưởng, phương pháp tính lương hưu: Giảm tuổi nghỉ hưu… (ví dụ: giảm 5 tuổi đối với chế độ nghỉ hưu, dẫn đến giảm 5 năm thu BHXH, tăng số đối tượng hưởng và mức chi tiền hưu trí; do tăng lương tối thiểu kéo theo mức hưu trí tăng lên…). Ngoài ra, BHXH vẫn đang thực hiện đan xen với nhiều chính sách xã hội khác, làm ảnh hưởng tới quỹ và cân đối lâu dài của quỹ BHXH.
- Theo chế độ NSNN hỗ trợ phần quỹ BHXH chi trả cho những người có thời gian công tác trước 1/1/1995 mà về hưu sau năm 1995. Nhưng thực tế Nhà nước vẫn chưa hỗ trợ phần quỹ này mà vay nguồn mới thu của quỹ, vì vậy không tác động tốt đến cân đối quỹ. Nếu không có sự chuyển hướng mạnh mẽ trong thực hiện chế độ, chính sách BHXH; nếu không đổi mới tư duy, hình thành quan điểm mới phù hợp với cơ chế thị trường có sự lãnh đạo của nhà nước và giải quyết hài hoà quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, thu hút các lực lượng tham gia BHXH, tiến tới tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước trong thời gian ngắn, thì sẽ không cân đối được quỹ, dẫn đến mất khả năng chi trả.
2.Tổng quan về Quận Hai Bà Trưng.
2.1.Khái quát chung về Quận Hai Bà Trưng.
Quận Hai Bà Trưng là một quận nội thành nằm ở phía Đông nam thành phố Hà Nội. Quận Hai Bà Trưng giáp với các Quận Hoàn Kiếm, Quận Đống Đa, Quận Hoàng Mai( là một Quận mới thành lập của TP Hà Nội). Với diện tích gần 123km2, mật độ dân số cao. Quận Hai Bà Trưng là một quận có tốc độ đô thị hoá nhanh về mọi mặt. Quận Hai Bà Trưng là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp may mặc, da giầy, thực phẩm, xây dựng. Khối kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá cao.
Đại bộ phận dân cư Quận Hai Trưng là người lao động trong cơ quan Nhà nước, cơ quan hành chính, các doanh nghiệp, các công ty …, thu nhập của người dân tương đối ổn định. Quận Hai Bà Trưng là một quận có bề dày lịch sử về truyền thống yêu nước đã được Đảng và Nhà nước trao danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
2.2.Khái quát về BHXH Quận Hai Bà Trưng.
2.2.1.Ngày thành lập cơ quan BHXH quận Hai bà Trưng.
BHXH Quận Hai Bà Trưng được thành lập năm 1995. Trụ sở của cơ quan BHXH Quận Hai Bà Trưng được đặt tại 434 Trần Khát Chân. (Cơ quan chưa có trụ sở chính hiện tại vẫn phải ở nhờ nhà của Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng để làm trụ sở).
BHXH Quận Hai Bà Trưng hiện có 23 cán bộ bao gồm một giám đốc, hai phó giám đốc, bộ phận thu có 10 cán bộ, bộ phận chính sách có 4 cán bộ, bộ phận kế toán có 6 cán bộ. Trước đây có 30 cán bộ nhưng đã có 7 cán bộ chuyển sang Quận Hoàng Mai là quận mới thành lập.
2.2.2.Chức năng nhiệm vụ.
Cơ quan BHXH Quận Hai Bà Trưng là cơ quan BHXH trực tiếp tiếp xúc với đơn vị tham gia bảo hiểm trong Quận. Do vậy, cơ quan BHXH có những nhiệm vụ sau:
Thu BHXH là công tác lớn nhất của cơ quan BHXH. Trước năm 2002 thì cơ quan BHXH Quận phải thu số tiền phí BHXH là 20% (chỉ thu mình phí BHXH) quỹ lương của đơn vị. Từ năm 2003 thì cơ quan BHXH Quận phải thu 23% quỹ lương của đơn vị ( bao gồm cả 20% phí BHXH như trước đây bây giờ có thêm 3% phí BHYT )
BHXH Quận phải cử cán bộ xuống nắm danh sách đóng BHXH của đơn vị. Yêu cầu của danh sách đó gồm chủ yếu những phần sau: Họ và tên, ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân, số sổ BHXH, mức lương…
Cơ quan BHXH Quận hàng tháng phải tiếp nhận báo cáo hàng tháng của đơn vị về số lao động, mức lương gửi lên cho cơ quan.
Đốc thu và theo dõi số tiền đã nộp của đơn vị, trên cơ sở đó hàng quý làm đối chiếu cùng với đơn vị về mức đóng số tiền đóng BHXH.
Hướng dẫn cấp cấp sổ BHXH cho người lao động, thường xuyên kiểm tra và hướng dẫn đơn vị ghi tiếp sổ BHXH.
Đôn đốc kịp thời đơn vị chốt sổ BHXH theo định kỳ hoặc cho những người chuyển đi, cho những người nghỉ chế độ.
Chi lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho các đối tượng hưu trí và trợ cấp BHXH thông qua uỷ ban nhân dân các phường. Thanh toán mai táng phí và giải quyết chế độ tử tuất cho các đối tượng hưu và trợ cấp BHXH.
Chi trả trợ cấp khác: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho người lao động tham gia BHXH trên địa bàn quận thông qua chủ sử dụng lao động.
Làm thủ tục tiếp nhận, chuyển đi, quản lý các đối tượng hưu trí và trợ cấp BHXH.
Quản lý hồ sơ hưu và trợ cấp BHXH.
2.2.3.Cơ cấu tổ chức bộ máy.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của BHXH quận Hai Bà Trưng.
Giám đốc
Phó giám đốc Phó giám đốc
Bộ phận kế toán Bộ phận thu Bộ phận chính sách
Hồ Sơ
Quản
Lý
Chế độ
BHXH
Thanh
Toán
Theo
Thẻ
BHYT
Đổi
Sửa
Cấp mới
Thẻ
BHYT
Kế
Toán
Chi trả
Lương
Hưu
Và
Trợ cấp
BHXH
Thủ quỹ
Chi ba chế độ: ốm
đau, thai sản,
dưỡng sức
Hành chính trung ương, Doanh nghiệp thành phố, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khối công lập
Doanh nghiệp
Trung Ương, Hành chính sự nghiệp thành phố, hành chính sự nghiệp quận
(1).Giám đốc: Là thủ trưởng cơ quan BHXH quận phụ trách chung và chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động công tác BHXH trên địa bàn Quận, phụ trách trực tiếp công tác tài chính, chính sách, tổ chức, công tác đối ngoại, tổng hợp.
(2).Phó giám đốc: Là người có nhiệm vụ thường trực, giúp việc cho giám đốc. Phó giám đốc thay thế cho giám đốc điều hành cơ quan khi giám đốc đi vắng. Phó giám đốc trực tiếp phụ trách phụ trách bộ phận thu của BHXH Quận.
(3).Bộ phận thu: Là những cán bộ làm nghiệp vụ thu BHXH. Bộ phận thu có những nhiệm vụ sau:
Lập kế hoạch thu BHXH hàng quý, năm.
Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH,BHYT và phiếu điều chỉnh mức đóng BHXH, BHYT hàng tháng.
Vào sổ theo dõi kết quả thu BHXH, BHYT đến từng người lao động, từng cơ quan, đơn vị hàng tháng.
Thông báo kịp thời đến các đơn vị nợ tiền BHXH
Xác nhận mức đóng, thời gian đóng BHXH của từng người lao động khi thực hiện chế độ BHXH hoặc chuyển nơi làm việc.
Báo cáo kết quả thu BHXH về BHXH Thành phố theo quy định.
(4).Bộ phận chi: là những cán bộ làm nghiệp vụ chi BHXH. Nhiệm vụ là:
Chi lương hưu và trợ cấp BHXH cho những người tham gia BHXH về hưu và trợ cấp BHXH cho những người mất sức lao động, tai nạn lao động bệnh nghiệp, tuất. Chi lương hưu và trợ cấp BHXH thì BHXH Quận giao cho UBND phường trực tiếp chi. Hàng tháng BHXH quận Hai Bà Trưng chi trên 31 tỷ đồng Việt Nam.
Chi trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức cho các đơn vị.
Từ năm 2003 tiến hành chi trả tiền khám chữa bệnh cho những người có thẻ BHYT vì lý do nào đó mà bệnh viện không thanh toán, các trường hợp ngoại lệ.
(5).Bộ phận chính sách. Bộ phận chính sách bao gồm những cán bộ quản lý chế độ chính sách, những cán bộ lưu trữ hồ sơ và những cán bộ thuộc bộ phận BHYT
- Cán bộ quản lý chế độ chính sách gồm những nhiệm vụ sau:
Tiếp nhận hưu mới từ thành phố chuyển về. Tiếp nhận hưu và các đối tượng hưởng BHXH từ các quận huyện khác chuyển về và hưu từ các tỉnh khác chuyển về khi đã qua BHXH Thành phố.
Làm thủ tục cho đối tượng trên chuyển đi các quận huyện khác. Nếu chuyển qua tỉnh khác thì phải qua BHXH Thành phố.
Theo dõi ghi biến động các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH (do chết, chuyển đi, tức theo dõi số giảm).
Thanh toán mai táng phí cho những đối tượng trên.
- Bộ phận lưu trữ hồ sơ. Các cán bộ thuộc bộ phận này có nhiệm vụ:
Quản lý hồ sơ của tất cả các đối tượng hưu trí và hưởng trợ cấp BHXH.
Hồ sơ phải phân theo tổ dân phố, theo phường để dễ tìm, dễ thấy.
Trong điều kiện biên chế hiện nay, do thiếu nhân lực nên bộ phận lưu trữ hồ sơ kiêm cả quản lý con dấu.
- Bộ phận BHYT. Các cán bộ thuộc bộ phận này có các nhiệm vụ sau:
nhận thẻ BHYT trên Thành phố (theo danh sách đóng BHYT do bộ phận thu tập hợp chuyển lên).
Cấp phát cho các đối tượng có thẻ BHYT qua Phường hoặc chủ sử dụng lao động.
Đổi, sửa, bổ sung thẻ cho những trường hợp phát sinh.
Từ năm 2003 trở đi phải thanh toàn tiền khám chữa bệnh cho những người có thẻ BHYT vì lý do nào đó mà bệnh viện không thanh toán như khám chữa bệnh vượt cấp, trái tuyến.
2.2.4.Kết quả hoạt động:
Qua bảng số liệu số 2 cho kết quả hoạt động của cơ quan BHXH quận Hai Bà Trưng ngày một phát triển.
Bảng số 2: Bảng tổng hợp kết quả thực hiện qua các năm.
Năm
Số đơn vị
Số lao động
Tiền thu BHXH (triệu đồng)
Số hưu trí và hưởng trợ cấp BHXH (người)
Tiền lương hưu và trợ cấp BHXH (đồng)
Số sổ BHXH (tính đến thời điểm)
Khen thưởng
1996
382
58.304
47.121
42.192
110.863.945.418
427
Bằng khen UBNDTP
1997
452
60.452
50.690
43.290
114.004.469.895
10.070
Bằng khen BHXHVN
1998
567
63.478
57.953
43.440
146.283.504.290
24.531
Bằng khen BHXHVN và UBND TP
1999
586
67.133
59.846
43.820
150.928.120.665
39.034
Bằng khen Thủ tướng và UBND, cờ t/c cơ sở Đảng vững mạnh xuất sắc.
2000
693
69.713
76.287
44.437
186.057.971.307
50.109
Bằng khen UBNDTP
2001
745
72.045
95.144
45.336
224.604.440.823
62.706
Giấy khen UBND Quận HBT
2002
886
77.109
98.858
45.885
231.808.589.093
70.013
Giấy khen UBND Quận – Cờ tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh tiêu biểu.
2003
1.044
88.322
157.900
46.627
352.306.000.000
75.536
Giấy khen UBND Quận
(Nguồn BHXH Quận Hai Bà Trưng)
Qua bảng số liệu ta thấy từ năm 1996 tới năm 2003 thì số đơn vị tham gia BHXH tăng xấp xỉ 3 lần. Chính vì số đơn vị tham gia bảo hiểm tăng đã kéo theo số lao động tham gia BHXH, do vậy số tiền thu BHXH cũng tăng nhanh chóng. Tính tới năm 2003 số thu từ BHXH là 157.900.000.000 đồng. Cũng đồng thời với việc tăng số thu thì số chi cho các chế độ của BHXH cũng tăng theo qua các năm. Số hưu trí và hưởng trợ cấp BHXH tính đến năm 2003 là 46.627 người, số tiền chi cho các chế độ năm 2003 là 352.306.000.000 đồng. Người lao động tham gia BHXH ngày một yên tâm hơn do việc thực hiện giải quyết các chế độ ngày một nhanh hơn đáp ứng được yêu cầu của những người lao động khi gặp phải rủi ro. Hơn nữa, số sổ do cơ quan tiến hành cấp cho người lao động ngày một tăng. Tính đến cuối năm 2003 cơ quan tiến hành cấp được trên 75.000 sổ cho người lao động. Nhờ sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và sự phấn đấu không ngừng của các cán bộ trong cơ quan do vậy mà cơ quan đã hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc đã được nhận nhiều giấy khen và bằng khen của cơ quan cấp trên.
Bước sang năm 2003, năm bản lề của kế hoạch 5 năm (2001-2005), thực hiện Nghị quyết trung ương 5 Đại hội Đảng lần thứ IX, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 15/CT-TW của Bộ chính trị và cũng là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2003 của Chính phủ. BHXH quận có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Thuận lợi:
Luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi của BHXH Thành phố Hà Nội, sự quan tâm chỉ đạo của Quận ủy, Uỷ ban Nhân dân quận, sự phối hợp và ủng hộ của các ban, ngành, đoàn thể, của các phường và các đơn vị tham gia BHXH.
Đội ngũ cán bộ công chức được bổ xung do tiếp nhận BHYT chuyển sang, từ chỗ có 20 cán bộ, công chức nay tăng lên là 30 người đa số là cán bộ trẻ, khoẻ có bằng cấp.
- Khó khăn:
Trên địa bàn có nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn gay gắt, nợ BHXH ngày càng lớn như Công ty Giầy Thăng Long, Công ty Da giầy Hà Nội (mỗi đơn vị nợ trên dưới 1tỷ đồng)…
Do chức năng nhiệm vụ được tăng thêm, biểu mẫu có sụ thay đổi nên cán bộ có sự bỡ ngỡ, mất thời gian tìm hiểu để hướng dẫn cho cơ sở do đó có ảnh hưởng tới công tác thu BHXH.
Phát huy thuận lợi và những kết quả đã đạt được của năm 2002, lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn, tập thể cán bộ công nhân viên chức Quận đã đoàn kết nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn vươn lên hoàn thành nhiệm vụ năm 2003 trên các mặt công tác sau:
(1).Công tác thu BHXH.
Để phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu 163 tỷ tiền BHXH và BHYT do thành phố giao Quận đã thực hiện những biện pháp sau:
- Lựa chọn, sắp xếp cán bộ thu phù hợp với phẩm chất, năng lực sở trường theo từng loại hình đơn vị.
- Phân chia cán bộ thu theo từng nhóm trong đó số đơn vị và số lao động giữa các cán bộ phụ trách tương đối đồng đều, bình quân một cán bộ phụ trách từ 50 – 70 đơn vị và từ 7.000 – 9.000 lao động.
- Giao hai đồng chí phó giám đốc chịu trách nhiệm về công tác thu do đó việc nắm tình hình và chỉ đạo được sâu sát, kịp thời.
- Cán bộ thu hành ngày bám sát đơn vị, hướng dẫn biểu mẫu, nắm trắc tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình trích nộp BHXH, phát hành thẻ BHYT và thanh toán ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức của đơn vị, kịp thời báo cáo và đề xuất với lãnh đạo quận các biện pháp đốc thu có hiệu quả.
- Phân công cán bộ trẻ, khoẻ, nhiệt tình vận động các đơn vị ngoài quốc doanh tham gia BHXH theo luật định.
- Trong quá trình hoạt động đốc thu và thực hiện các chế độ BHXH, quận đã kiểm tra rà soát quá trình lương của người có sổ, phát hiện và khắc phục những trường hợp chưa đúng.
- Phối hợp chặt chẽ với phòng BHXH Thành phố, gửi công văn đốc thu, báo cáo lãnh đạo để tổ chức thanh tra, kiểm tra các đơn vị có số dư nợ lớn, hoặc có biểu hiện chây ì, cố tình không thực hiện.
- Thực hiện các chế độ BHXH đối với cơ sở (chi ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, phát hành thẻ BHYT) kịp thời nhanh chóng đúng chế độ.
- Đã đề nghị BHXH Thành phố hỗ trợ kinh phí cho 420 đơn vị trích nộp tốt kinh phí với số tiền là 201 triệu đồng.
- Duy trì các phong trào thi đua lao động giỏi, người tốt việc tốt, chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
- Nhờ các biện pháp trên, tính đến nay toàn quận có 1.075 đơn vị, với 85.619 lao động tham gia BHXH (ngoài quốc doanh có 402 đơn vị, tăng 148 đơn vị và 2.456 lao động so với năm 2002) tiền thu BHXH tính đến ngày 30/11/2003 đạt 131 tỷ đồng.
- Hướng dẫn đôn đốc cơ sở lập xong danh sách đóng BHXH và BHYT năm 2004 theo đúng hướng dẫn của BHXH thành phố.
-Việc cấp nhận sổ sách của cán bộ thu bảo đảm kịp thời chính xác.
(2).Công tác chi trả (6 chế độ).
- Chi lương hưu và trợ cấp BHXH:
Tính đến tháng 12 năm 2003 toàn quận quản lý 46.627 đối tượng hưu trí và trợ cấp BHXH. Trong đó:
+Hưu CNVC: 36.169 người.
+TNLĐ-BNN: 349 người.
+Hưu quân đội: 2.919 người.
+TC: 1.664 định xuất
+MSLĐ: 5.339 người.
QĐ91: 207 người.
BHXH quận Hai Bà Trưng thường xuyên phối hợp với các phường trong việc quản lý di biến động của các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH, rà soát và củng cố ban chi lương các phường. Việc phát lương hưu và trợ cấp BHXH tại phường đã đảm bảo tương đối tốt các quy định, nhất là việc lĩnh thay phải có giấy uỷ quyền. Các phường đi nhận tiền ở quận đều có xe công an đi cùng.
Trong năm đã chi trả 352 tỷ 306 triệu đồng tiền lương hưu và trợ cấp BHXH, đảm bảo nhanh gọn chính xác, an toàn tuyệt đối và không có sai sót. Các phường đều đảm bảo quyết toán trước ngày 18 hàng tháng.
- Chi trợ cấp ốm đau thai sản dưỡng sức:
Cán bộ phân công đã bám sát cơ sở, nắm trắc tiến độ trích nộp tiền BHXH, tiến độ thực hiện chế độ BHXH của đơn vị, do đó chủ động đôn đốc, phối kết hợp với cơ sở trong việc duyệt chi trả hai chế độ cũng như thực hiện nghỉ dưỡng sức. Đối với cơ sở đông công nhân lao động vẫn duy trì việc duyệt chi hàng tháng tại cơ sở.
Nhờ đó đã không còn đơn vị nào chi hai chế độ chậm quá 2 quý. Chứng từ tài chính, kế toán được thành phố đánh giá đảm bảo đúng theo quy định không có sai sót đáng kể.
12 tháng qua đã chi trả trợ cấp ốm đau cho 50.212 lượt người với số tiền 3.295.493.000 đ. Chi thai sản cho 1.982 người với số tiền 5 5.477.225.000 đ. Chi dưỡng sức cho 510 đơn vị với số tiền là 2.892.000.000đ.
(3).Quản lý chế độ chính sách.
Làm thủ tục:
- Tiếp nhận nơi khác chuyển đến 217 trường hợp, chuyển đi ngoại tỉnh 76 trường hợp, nội tỉnh 148 trường hợp.
- Tiếp nhận từ BHXH thành phố về 1.792 trường hợp.
- Điều chỉnh lương theo Nghị định 03/CP: 469 trường hợp.
- Thanh toán mai táng phí một lần 848 trường hợp với số tiền 1 tỷ 967 triệu đồng.
- Giải quyết tuất cán bộ 148 trường hợp với 164 định suất.
- Xác nhận thời gian công tác để giảm tiền nhà 485 trường hợp.
- Đề nghị thành phố giải quyết mất sức lao động hưởng lại theo QĐ60: 139 trường hợp, theo QĐ 812: 15 trường hợp và theo QĐ91: 19 trường hợp.
Đặc biệt thực hiện sự chỉ đạo của BHXH thành phố toàn quận đã tập trung hoàn thành dứt điểm việc viết phiếu trung gian, đã bổ sung hoàn thiện 3.900 hồ sơ trong đó đã rà soát, kiểm tra 100% hồ sơ đối tượng hưởng trợ cấp MSLĐ là 280 trường hợp. Chia tách xong hồ sơ về quận mới với 5 phường với 9.838 hồ sơ. Cũng qua kiểm tra rà soát đã phát hiện và xử lý 16 tường hợp hưởng không đúng theo quy định.
(4)Công tác cấp sổ.
Việc cấp sổ BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH sau tháng 5 năm 1995 được thực hiện thường xuyên. Tất cả các đơn vị có nhu cầu đều được quận tận tình hướng dẫn và đáp ứng chu đáo. Qua 11 tháng đã cấp mới 5.209 sổ BHXH (kế hoạch là 5.000 sổ).
Bên cạnh đó quận đã tăng cường kiểm tra, rà soát lại mức lương đóng BHXH của các đối tượng đã được cấp sổ BHXH. Những trường hợp đóng sai mức lương, sai thời gian nâng lương đã yêu cầu đơn vị sửa lại theo đúng quy đinh trước khi giải quyết chế độ BHXH. Tuy nhiên đây là công việc đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức.
(5)Phát hành thẻ BHYT.
Là chức năng mới của ngành nên ngay từ đầu quận đã tập trung thực hiện sự chỉ đạo của BHXH thành phố như tổ chức đối chiếu, rà soát danh sách đóng BHYT với danh sách đóng BHXH, đối chiếu tiền đóng BHYT của các đơn vị do BHYT chuyển sang, tiếp nhận yêu cầu của các đơn vị về việc phát hành, sửa, đổi thẻ. Nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn quận, công tác phát hành và quản lý thẻ từng bước đi vào nề nếp ổn định. 100% người tham gia BHYT đều dược phát hành thẻ BHYT kịp thời, các trường hợp phát sinh sửa đổi, bổ xung, cấp mới thẻ BHYT đều được giải quyết nhanh chóng. Các đối tượng đến thanh toán tiền viện phí theo thẻ BHYT đều được giải quyết tận tình chu đáo.
BHXH quận đã phối hợp với phòng giáo dục - đào tạo triển khai công tác phát hành thẻ BHYT tới 100% các trường trên địa bàn quận, cán bộ bảo hiểm quận đã trực tiếp đến từng trường tuyên truyền, hướng dẫn biểu mẫu và thống nhất với kế hoạch triển khai thực hiện.
Kết quả đã có 94 trường với 58.513 học sinh tham gia mua BHYT học sinh với số tiền là 2.926.000.000 đồng đạt 102% kế hoạch.
(6).Công tác xây dựng đơn vị.
Ngay từ những ngày cuối năm 2002, khi có chủ trương tiếp nhận BHYT và thực hiện chỉ đạo BHXH thành phố, quận đã xây dựng phương án bố trí, sắp xếp cán bộ… do đó khi có quyết định chính thức quận đã thực hiện chỉ đạo theo phương án, cán bộ cũ, mới được phân công xen kẽ nhau bước đầu phù hợp với năng lực sở trường của cán bộ. Quận đã tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, không có hiện tượng phân biệt cũ mới, lấy hiệu quả công tác để đánh giá cán bộ. Do đó, tạo ra được không khí đoàn kết, tin cậy trong cơ quan. Chỉ sau một quý, cán bộ mới đã tự đảm nhận công việc được giao, cán bộ c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13004.DOC