MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 7
Chương 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẢM BẢO XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG GẠO 10
1.1. Lý luận về phát triển bền vững 10
1.1.1. Khái niệm 10
1.1.2. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững 11
1.2. Lý luận về xuất khẩu bền vững 15
1.2.1. Khái niệm 15
1.2.2. Nội dung của xuất khẩu bền vững 15
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá xuất khẩu bền vững 17
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu bền vững 21
1.3. Tầm quan trọng của việc xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo 24
1.3.1. An ninh lương thực 24
1.3.2. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế 26
1.3.3. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập và ổn định xã hội 27
1.3.4. Góp phần bảo vệ môi trường 27
Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 29
2.1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong thời gian qua 29
2.1.1. Tình hình sản xuất gạo của Việt Nam 29
2.1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 32
2.2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu bền vững của mặt hàng gạo 43
2.2.1. Bền vững về mặt kinh tế 43
2.2.2. Bền vững về mặt xã hội 47
2.2.3. Bền vững về mặt môi trường 51
Chương 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG GẠO CỦA VIỆT NAM 56
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển bền vững và xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo 56
3.1.1. Quan điểm về phát triển bền vững 56
3.1.2. Quan điểm về xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo 57
3.2. Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu gạo đến năm 2020 58
3.3. Giải pháp đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam 59
3.3.1. Giải pháp đảm bảo xuất khẩu gạo tăng trưởng cao 60
3.3.2. Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với yếu tố xã hội 68
3.3.3. Giải pháp giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với yếu tố môi trường 70
KẾT LUẬN 73
PHỤ LỤC 74
Phụ lục 1: Kinh nghiệm của Thái Lan về đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo 74
Phụ lục 2: Tổng quan về Viện Nghiên cứu Thương mại 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đảm bảo xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 – 15 % tấm là gạo chất lượng trung bình, trên 15 % tấm là gạo chất lượng thấp.
Năm 1989 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo nhưng chủ yếu là gạo cấp thấp chiếm đến 97,42 %, còn gạo cấp trung bình và cấp cao chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Theo tỷ lệ tấm thì gạo xuất khẩu Việt Nam có xu hướng tăng tỷ trọng gạo cấp trung bình và cao, giảm tỷ trọng gạo cấp thấp. song do các yếu tố kỹ thuật, giống, công nghệ, nên gạo Việt Nam vẫ thua kém hơn hẳn so với gạo của Thái Lan. Chủng loại gạo 25 % tấm vẫn là loại gạo được xuất khẩu chủ yếu. Gạo chất lượng cao của Việt Nam (5% tấm) chỉ chiếm hơn 30% tổng lượng xuất khẩu.
2.1.2.4. Cơ cấu thị trường
Trong giai đoạn qua Việt Nam đã xây dựng và mở rộng được thị trường xuất khẩu gạo ổn định, với nhiều thị trường truyền thống và tiềm năng, trong đó châu Á và châu Phi luôn là hai thị trường xuất khẩu gạo nhiều nhất của Việt Nam. Do chất lượng gạo Việt Nam không cao nên gạo Việt Nam chưa thâm nhập được vào các thị trường phát triển có nhu cầu chất lượng cao. Năm 2004, châu Á là thị trường tiêu thụ gạo nhiều nhất của Việt Nam chiếm 36,8 % tổng lượng gạo xuất khẩu của cả năm, xuất khẩu sang thị trường châu Phi tăng mạnh, chiếm 33,54 % tổng lượng gạo xuất khẩu, tăng 14,05 % so với năm 2003.
Cả năm 2006, cả nước xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo đạt kim ngạch gần 1,3 tỷ USD, lớn nhất từ trước tới nay. Thị trường xuất khẩu của gạo Việt Nam đã mở rộng ra gần 100 nước, trong đó ba thị trường trọng điểm Philippines, Malaysia và Cuba nhập khoảng 60% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, còn lại là Indonesia, Nhật, Nam Phi, Singapore.
Nếu như trong năm 2007, gạo Việt Nam được xuất khẩu đến 63 quốc gia vùng/lãnh thổ thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia/vùng/lãnh thổ). Trong đó có khoảng 20 thị trường chính, chủ yếu là: Philippines, Malaysia, Cu Ba, Singapore.
Biểu đồ 2.6: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%)
(Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan)
Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008). Cơ cấu thị trường xuất khẩu có sự thay đổi, ví dụ như Indonesia trong các năm trước đều là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam (năm 2007 chiếm tới 24 % tổng lượng xuất khẩu), thì đến năm 2008, nước này giảm mạnh nhập khẩu gạo của Việt Nam (chỉ chiếm hơn 1 % tổng lượng gạo xuất khẩu). Năm 2008, Indonesia chỉ nhập 76,4 nghìn tấn gạo từ thị trường Việt Nam, giảm mạnh so với mức hơn 1 triệu tấn gạo của năm 2007.
Trong 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 thì, Phillippines vẫn là thị trường đứng tại vị trí số một, chiếm gần 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, tăng 9,3% thị phần so với năm 2007. Trong 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất này 3 thị trường truyền thống là Philippines, Malaysia, Cu Ba chiếm 63,8% về giá trị và 54,8% về lượng. 7 thị trường còn lại là các thị trường thương mại (chiếm 18,4% về giá trị và 23,3% về lượng), trong đó thị trường châu Phi chiếm tới 11,7% về giá trị và 14,5% về lượng.
Biểu đồ 2.7: 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam năm 2008
(Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan)
Năm 2009, châu Á tiếp tục đóng vai trò là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng nhất của Việt Nam. Xuất khẩu gạo sang các nước châu Á chiếm đến 61,68 % tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 50,8 % của năm 2008). Các thị trường chủ yếu vẫn là Philippines, Malaysia, Cuba, Singapore. Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35 % tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang Philippines gần 1,7 triệu tấn gạo, trị giá hơn 912 triệu USD. Tiếp theo là Malaysia với kim ngạch đạt 272,19 triệu USD, chiếm 10,22%; rồi đến thị trường Cu Ba 191 triệu USD, chiếm 7,17%; Singapore 133,6 triệu USD, chiếm 5,02%.
Bảng 2.4: Thị trường xuất khẩu gạo năm 2009
Thị trường
Tháng 12
Cả năm 2009
Tăng giảm kim ngạch so với tháng 11/2009 (%)
Tổng cộng
Lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Lượng (tấn)
Giá trị (USD)
5.958.300
2.663.876.861
Philippines
120.300
57.744.000
1.707.994
917.129.956
+3.375,70
Malaysia
85.215
40.409.735
613.213
272.193.107
+45,29
Cu Ba
16.800
7.483.360
449.950
191.035.678
+1.175,71
Singapore
8.057
4.235.637
327.533
133.594.368
-55,39
Đài Loan
5.589
2.637.808
204.959
81.616.149
-72,24
Irắc
0
0
171.000
68.947.000
*
Nga
149
78.165
84.646
37.089.136
-97,81
Hồng Kông
4.080
2.271.455
44.599
20.214.664
+44,39
Nam Phi
1.148
584.275
37.253
16.367.271
+340,96
Ucraina
274
115.210
37.562
15.748.696
-32,3
Ghi chú: (*): thị trường tháng 11 và 12 không tham gia xuất khẩu gạo
(Nguồn: Vinanet)
Theo dự báo của USDA năm 2010 dự kiến tổng nhu cầu nhập khẩu gạo tại khu vực châu Á ở mức 14,8 triệu tấn, tăng 7% so với năm 2009. Nhu cầu nhập khẩu tăng chủ yếu từ các quốc gia như Iraq (dự kiến tăng 10%), Bangladesh (tăng 185,7%), Philippines (tăng 30%); Ảrập Saudi (tăng 2,2%), Indonesia (tăng 20%), Malaysia (tăng 2,41%)... Ngược lại, nhu cầu nhập khẩu gạo tại khu vực châu Phi lại được dự báo sẽ giảm 3% so với năm 2009 do triển vọng tăng sản lượng trong niên vụ này. Có thể khẳng định châu Á với những thị trường truyền thống như Philippines, Malaysia sẽ vẫn là những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2010.
2.2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu bền vững của mặt hàng gạo
Như phần lý thuyết đã trình bày ở chương 1, để đánh giá mức độ bền vững của hoạt động xuất khẩu có rất nhiều tiêu chí đánh giá, trong hoạt động xuất khẩu gạo cũng vậy. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tính bền vững của hoạt động xuất khẩu gạo được đánh giá dưới một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
Về kinh tế: quy mô tăng trưởng xuất khẩu, chất lượng tăng trưởng xuất khẩu, mức độ đóng góp của xuất khẩu gạo vào tăng trưởng kinh tế.
Về xã hội: xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và cải thiện thu nhập, sự phân chia lợi ích của hoạt động xuất khẩu.
Về môi trường: mức độ gây ô nhiễm môi trường, mức dộ sử dụng tài nguyên thiên nhiên của hoạt động xuất khẩu gạo.
2.2.1. Bền vững về mặt kinh tế
2.2.1.1. Quy mô tăng trưởng xuất khẩu
Như phân tích tình hình xuất khẩu ở phần trên (Biểu đồ 2.1), lượng gạo xuất khẩu thỉnh thoảng có sự biến động nhưng nhìn chung là có xu hướng tăng,và đạt kỷ lục vào năm 2009. Như vậy không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm nước ta còn xuất khẩu được khoảng 4 – 6 triệu tấn gạo.
Về kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2000 – 2008 là tăng đều đặn, duy chỉ đến năm 2009 kim ngạch xuất khẩu có giảm so với 2008. Nguyên nhân một phần là do giá gạo của năm 2008 có sự biến động tăng mạnh đẩy giá trị xuất khẩu năm 2008 lên cao hơn. Giai đoạn từ 2001 đến 2008, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng bình quân gần 28 %.
Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào biến động nhu cầu và giá cả thị trường mà Việt Nam chua chiếm thế chủ động trong xuất khẩu gạo. Sở dĩ như vậy là do hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém sau:
Thứ nhất, nông dân nhỏ, phân tán, nên không có năng lực mặc cả, chịu thiệt thòi. Điều này không chỉ do quy hoạch của các cấp ngành về việc sản xuất, thu gom và chế biến lúa xuất khẩu; mà còn do trình độ người nông dân còn thấp nên thường bị ép giá.
Thứ hai, tổ chức kênh hàng có nhiều trung gian và thiếu điều phối hiệu quả do đó khả năng truyền thông tin kém. Việc thu mua lúa gạo ở các địa phương chủ yếu do các thương lái nhỏ lẻ thực hiện, các công ty xuất khẩu lớn trực tiếp mua từ nông dân là rất nhỏ nên việc mua bán thực hiện qua nhiều trung gian, việc điều phối khó có sự thống nhất và quản lý chặt chẽ.
Thứ ba, năng lực đàm phán ký kết hợp đồng còn yếu, trình độ năng lực đánh giá và nghiên cứu thị trường chưa cao dẫn đến những kế hoạch xuất khẩu không hợp lý. Nhất là vào những thời điểm thị trường biến động phức tạp, việc chủ động để đưa ra các quyết định quản lý kịp thời và phù hợp gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, còn kém trong xây dựng thương hiệu, đóng gói bao bì nhãn mác. Đây là một yếu điểm lớn trong xuất khẩu gạo của Việt Nam, vì thế mà có những loại gạo của chúng ta chất lượng không kém so với với gạo của Thái Lan nhưng do bao bì đóng gói cũng như việc quảng bá kém mà không thu hút được người tiêu dùng.
2.2.1.2. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu
Trong những năm qua xuất khẩu gạo của Việt Nam không chỉ tăng về quy mô mà cả chất lượng cũng đang được cải thiện dần để dần nâng cao giá trị xuất khẩu. Ở một số địa phương đã áp dụng được một số mô hình canh tác mới đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao hơn như: mô hình lúa lai – tôm sú, 3 giảm 3 tăng, các chương trình khuyến nông sản xuất hạt giống lúa lai F1, phát triển lúa lai thương phẩm, khuyến nông phát triển lúa chất lượng hay thực hiện kích cầu nông nghiệp hỗ trợ về giống và phân bón cho người nông dân, cơ giới hóa cho sản xuất lúa… đã đạt được những kết quả đáng kể. Song những mô hình chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa thấy được hiệu quả rõ ràng.
Từ khi tham gia xuất khẩu gạo chất lượng gạo của Việt Nam đã dần chuyển dịch nâng cao các sản phẩm chất lượng cao để cạnh tranh với gạo của Thái Lan, nhưng thực tế gạo Việt Nam xuất khẩu vẫn chiếm đa số là gạo phẩm cấp thấp (gạo tỷ lệ 25% tấm chiếm khoảng 70 %). Cơ cấu thị trường cũng phản ánh chất lượng gạo của Việt Nam. Gạo của nước ta xuất sang các thị trường chủ yếu là châu Á, Trung Đông, châu Phi, …phần lớn là các khu vực có mức tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán hạn chế. Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, sản xuất lúa chỉ quan tâm đến năng suất mà chưa chú trọng đến việc nâng cao chất lượng, nhiều địa phương sử dụng các loại giống lúa cũ thoái hóa, các giống lúa cao sản ngắn ngày nhưng chất lượng thấp. Trong khi hàng năm, cả nước ta vẫn phải nhập 70% giống lúa các loại cho sản xuất. Việc sản xuất phân tán, quy mô nhỏ lẻ của các hộ nông dân cũng làm cản trở cho việc sản xuất lúa chất lượng cao theo yêu cầu của xuất khẩu.
Thứ hai, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn yếu kém, và phân bố không đồng đều. Có đến 80% lượng thóc được xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ. Máy sấy và kho chứa còn hạn chế không được trang bị đầy dủ nên nếu vụ thu hoạch vào thời tiết không thuận lợi thóc thu hoạch được sẽ không được bảo quản khiến giảm chất lượng. Ở ĐBSCL hiện nay số lượng máy sấy chỉ đáp ứng được 40% sản lượng lúa hè – thu. Còn ở các vùng như đồng bằng sông Hồng và duyên hải Nam Trung Bộ không có các nhà máy chế biến, hệ thống sấy và đánh bóng gạo hiện đại. Chính vì thế chất lượng gạo qua chế biến còn thấp, khâu chế biến gạo mới đóng góp khoảng 19 - 20% cho GTGT/tấn gạo trong khi của Thái Lan là 26%. Thất thoát sau thu hoạch (bao gồm cả thu hoạch, vận chuyển và chế biến) còn lớn, chiếm tỷ lệ khoảng 11 - 12%.
Thứ ba, các dịch vụ khuyến nông, dịch vụ khoa học công nghệ phục vụ sản xuất lúa gạo cho nông dân ở cấp xã phát triển còn yếu, nông dân ở nhiều nơi còn thiếu thông tin về khoa học công nghệ và thông tin thị trường dẫn đến sản xuất lúa chậm được ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sản xuất còn bị động, hiệu quả đạt thấp.
2.2.1.3. Mức độ đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế
Gạo là nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, hàng năm kim ngạch xuất khẩu gạo khoảng từ 1 – 3 triệu USD, đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập quốc dân. Trong các sản phẩm nông – lâm – thủy sản xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 13 – 17 % tổng kim ngạch xuất khẩu nông – lâ – thủy sản, đặc biệt năm 2008 chiếm tới 17,86%. Dưới đây là bảng tỷ lệ đóng góp kim ngạch xuất khẩu gạo vào kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thủy sản và GDP.
Bảng 2.5: Đóng góp của kim ngạch xuất khẩu gạo vào GDP
Chỉ tiêu
2000
2005
2007
2008
GDP (triệu USD)
31170
52800
68640
90700
Kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thủy sản (triệu USD)
4197,5
7452,4
10963,4
14910,1
Kim ngạch xuất khẩu gạo (triệu USD)
615,58
1279,27
1470
2663
Tỷ lệ % trong kim ngạch XK nông – lâm – thủy sản
14,67
17,17
13,41
17,86
Tỷ lệ % trong GDP
1,97
2,42
2,14
2,94
(Nguồn: WB, www.worldbank.org.vn, Tổng cục thống kê 2009 và VFA)
Mỗi năm xuất khẩu gạo đóng góp 2 – 3 % giá trị vào tổng thu nhập quốc dân, đây là một con số khá đáng kể đối với một sản phẩm nông nghiệp.
2.2.2. Bền vững về mặt xã hội
2.2.2.1. Xóa đói giảm nghèo
Việt Nam có tới 70 % dân số sống dựa vào nông nghiệp, mà nông nghiệp nước ta trồng lúa là chủ yếu (kim ngạch xuất khẩu gạo chiếm khoảng 17 % tổng kim ngạch xuất khẩu ngành nông nghiệp – năm 2009) vì thế xuất khẩu gạo không chỉ ảnh hưởng đến người nông dân, thương lái, người xuất khẩu mà ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an ninh lương thực và an sinh xã hội của quốc gia. Giai đoạn 1999 - 2008, sản lượng lúa tiếp tục tăng lên, từ 31,7 triệu tấn tăng lên 38,2 triệu tấn, sản lượng lúa bình quân đầu người tăng từ 414 kg/người lên 442 kg/người. Nhờ vậy, an ninh lương thực quốc gia không ngừng được tăng cường, tỷ lệ người thiếu lương thực giảm nhanh chóng từ 15,1% xuống còn 3,2%, góp phần quan trọng ổn định xã hội, ổn định phát triển kinh tế.
2.2.2.2. Tạo việc làm và cải thiện thu nhập
Sản xuất lúa là một ngành có đặc thù là sử dụng nhiều lao động, từ khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đều cần nhiều nhân công.Do quá trình đô thị hóa mà đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, đặc biệt là đất trồng lúa bị mất đi ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống nông dân. Tính trung bình mỗi năm nước ta mất 59.000 ha diện tích đất lúa, khiến sản lượng giảm theo từ 0,4 – 0,5 triệu tấn/năm. Việc biến mất của mỗi ha đất trồng lúa có thể ảnh hưởng đến từ 10-13 lao động và ảnh hưởng đến đời sống của ít nhất 100.000 hộ nông dân. Hậu quả là khoảng 53% hộ dân bị lấy mất đất trồng lúa thiệt hại về tài chính, trong đó có 34% hộ đã nhìn thấy mức sống bị giảm sút đáng kể. Điều đó cho thấy sản xuất lúa mang lại thu nhập đáng kể cho người nông dân.
Năm 2010, VFA quyết định thực hiện “bảo hiểm giá lúa cho nông dân”, mức giá bảo hiểm quy định là 4000 đồng/kg để đảm bảo nông dân có lãi 40%, và các vụ tới VFA sẽ tính giá bảo hiểm căn cứ vào giá thành sản xuất. Nhưng bước đầu mới thực hiện thí điểm ở một số tỉnh Hậu Giang, Long An, Trà Vinh, Cần Thơ.
2.2.2.3. Sự phân chia lợi ích của xuất khẩu
Sự phân chia lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu gạo trước tiên phụ thuộc vào tổng lợi ích mà thu được từ việc sản xuất và xuất khẩu gạo. Nhìn chung hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam còn thấp nên lợi nhuận thu được không cao. Dưới đây là bảng so sánh lợi nhuận thu được từ sản xuất 1 tấn gạo của Việt nam so với Thái Lan để thấy rõ hơn hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Bảng 2.6: So sánh lợi nhuận thu được từ 1 tấn gạo giữa Việt Nam và Thái Lan, bình quân giai đoạn 1999 – 2008 (USD/tấn)
Việt Nam
Thái Lan
Tổng chi phí
921
915
Lợi nhuận
145
222
(Nguồn: )
Nhìn bảng so sánh trên chi phí sản xuất gạo của Việt Nam và Thái Lan chênh nhau không nhiều nhưng lợi nhuận thu được của ngành lúa gạo Việt Nam chỉ bằng 65,1% so với của Thái Lan do gạo Thái Lan có chất lượng và giá bán cao hơn. Tính bình quân, cứ sản xuất 1 tấn gạo ngành lúa gạo Thái Lan thu được lợi nhuận cao hơn so với ngành lúa gạo Việt Nam 78 USD.
Quá trình sản xuất và xuất khẩu gạo do nhiều còn đối tượng tham gia khác và sự phân chia lợi nhuận giữa các đối tượng có công bằng? Xét chuỗi giá trị lúa gạo xuất khẩu có thể thấy được sự phân chia thu nhập giữa các chủ thể của hoạt động xuất khẩu gạo. Ta có chuỗi giá trị gạo xuất khẩu: người trồng lúa → thương lái → người xay xát, chế biến → Doanh nghiệp xuất khẩu.
Bảng 2.7: Chuỗi giá trị gạo thơm xuất khẩu ở Cần Thơ
(tỷ lệ quy đổi là 1,6 kg lúa cho ra 1 kg gạo, hay gạo/lúa = 62,5%)
Người trồng lúa
Thương lái
Doanh nghiệp xuất khẩu
Giá bán (đ/kg)
6400
6933
8572
Tổng chi phí (đ/kg)
3971
6400
6933
GTGT (đ/kg)
2429
533
1639
Chi phí tăng thêm (đ/kg)
-
183
300
Lợi nhuận (GTGT thuần)
2429
530
1339
% lợi nhuận
58,98
8,50
32,52
Chu kỳ
4 tháng
2 tuần
2 tháng
Lợi nhuận trên tháng
14,74%
17%
16,26%
Phân tích thêm từ số liệu của Võ Thị Thanh Lộc và Nguyễn Ngọc Châu, 2009
(Nguồn: www.sgtt.com.vn)
Dựa vào bảng phân tích trên có thể thấy lợi nhuận thu được của người nông dân là thấp nhất (14,74%), hơn nữa trong khi thương lái và công ty chế biến, xuất khẩu có quy mô kinh doanh hàng năm từ 100.000-350.000 tấn gạo, doanh nghiệp xuất khẩu tập trung chủ yếu vào 2 tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam và khoảng 8 doanh nghiệp lớn khác; còn nông dân thì quy mô chỉ khoảng 10 tấn gạo/ha/năm (bình quân 1ha/hộ, sản lượng bình quân khoảng 15 – 16 tấn lúa/năm, tương đương 9 – 10 tấn gạo/năm). Mà tính theo giá trị thực tế thì nông dân phải đạt trên 6 tấn/ha thì mới có lãi. Vì thế người trồng lúa khó để đạt được thu nhập cao, mà thu nhập họ nhận được đó là sử dụng đất và “lấy công làm lãi”. Các nhà nghiên cứu cho rằng nông dân phải có từ 10 – 20 ha trở lên mới giàu còn lại nông dân trồng lúa vẫn nghèo. Sự phân bố thu nhập của hoạt động xuất khẩu là không đồng đều. Cần đặt ra cho xuất khẩu gạo là làm thế nào để cân bằng lại thu nhập có lợi hơn cho người nông dân.
Sản lượng lúa ngày càng tăng, xuất khẩu gạo cũng tăng cả về số lượng và giá trị nhưng người nông dân trồng lúa vẫn là những người có thu nhập thấp trong xã hội. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập đầu người của nông dân trồng lúa so với mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước có xu hướng ngày càng tăng, từ ở mức bằng 66,2% trong giai đoạn 1998 - 2003 giảm xuống chỉ còn bằng 55,7% trong giai đoạn 2004 - 2008. Tình trạng này dẫn đến nhiều nông dân chuyển sang làm ngành nghề khác hoặc phá cây lúa trồng cây khác, việc này dẫn đến sản xuất lúa thiếu ổn định.
2.2.3. Bền vững về mặt môi trường
2.2.3.1. Mức độ ô nhiễm môi trường
Bất kì hoạt động sản xuất nào của con người đều có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, có thể là mặt tích cực, tiêu cực hoặc cả hai. Sản xuất lúa cũng vậy, hàng năm nước ta sản xuất hàng chục triệu tấn thóc sử dụng nước tưới, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… tất cả các hoạt động này đều tác động vào môi trường.
Ngày nay, bảo vệ môi trường gắn với bảo vệ sức khỏe con người là một trong những yêu cầu không thể thiếu được khi nói đến việc định hình nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao tại địa phương. Nhiều nơi đã áp dụng các mô hình trồng lúa thân thiện hơn với môi trường như 3 giảm 3 tăng, chương trình IPM, mô hình tôm - lúa, cá – lúa,…nhưng mô hình này mang lại hiệu quả kinh tế cao tiết kiệm chi phí đồng thời có tác động tốt đến môi trường sinh thái, tài nguyên đất được sử dụng theo chiều hướng bền vững, lâu dài.
Tuy nhiên tình trạng sử dụng thuốc trừ sâu không đúng ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường vẫn là một thực tế. Người ta thống kê rằng mức phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật cho sản xuất 1 tấn lúa của Việt Nam trong thời kỳ 1981 - 1990 bình quân khoảng 56 kg phân bón/tấn lúa và 0,3 kg thuốc bảo vệ thực vật /tấn lúa. Từ năm 2000 đến nay, mức phân bón hoá học và thuốc thuốc bảo vệ thực vật cho sản xuất 1 tấn lúa tiếp tục tăng lên, bình quân ở mức 73 kg phân bón/tấn lúa và 0,45 kg thuốc/tấn lúa. Tại khu vực ĐBSCL, nông dân thường sử dụng nhiều phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật để trồng lúa ngắn ngày 3 vụ năm, mức bón phân hoá học cho lúa hiện cao nhất trong cả nước, bình quân 380 - 400 kg/ha diện tích gieo trồng lúa. Một ví dụ cụ thể cho thấy dư lượng thuốc trừ sâu trong sản xuất lúa ở nước ta cao: ở vùng lúa Tam Điệp (Ninh Bình), dư lượng thuốc sâu bình quân mùa khô là 0,85 – 3,4 mg/l, ở Cần thơ là 0,9 – 5,2 mg/l. Trong giai đoạn 1979 – 1990, lượng khí phát thải CH4 từ trồng lúa là 3,2 -3,8 tấn. Và trong điều kiện hiện nay con số này còn tăng lên rất nhiều lần.
Nguyên nhân gây nên tình trạng trên trước hết phải kể đến đó là ý thức của người nông dân, họ chưa ý thức đầy đủ đước tác hại của các chất này với môi trường cũng như sức khỏe của mình hay sức khỏe của người sử dụng sản phẩm gạo sau này. Mức sử dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật cho gieo trồng lúa tăng lên, song chưa đi kèm tương ứng với các hoạt động phổ biến kỹ thuật sản xuất, sử dụng an toàn, hiệu quả phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật và các loại hoá chất nông nghiệp khác cho nông dân. Dẫn đến, tình trạng ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đồng ruộng, dịch hại xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt ở khu vực ĐBSCL thời kỳ vừa qua.
2.2.3.2. Mức độ khai thác và sử dụng tài nguyên
Việc quy hoạch cây lúa cũng như các mô hình cây trồng liên quan ảnh hưởng rất nhiều đến môi trường. những năm gần đây nông dân nhiều địa phương đã áp dụng các mô hình canh tác lúa mang lại lợi ích kinh tế đồng thời cải thiện được chất lượng môi trường. Một ví dụ điển hình như mô hình lúa – cá (hoặc lúa – tôm), mô hình này vừa tiết kiệm thức ăn cho cá vừa có lợi cho cây lúa, cải tạo đất trồng lúa: các loại chất thải của cá tích tụ có tác dụng như một phần phân bón làm tăng độ mùn, đội xốp cho ruộng lúa, cá thường xuyên kiếm thức ăn bằng cách sục bùn, làm cho ruộng lúa thoáng khí, tầng oxi hoá hoạt động mạnh tạo điều cho cây lúa sinh trưởng phát triển tốt, cá ăn các loài sâu bọ, côn trùng làm giảm dịch hại cho ruộng lúa. Như vậy nuôi cá với lúa giúp nông dân giảm sức lao đông, chi phí cũng như thước trừ sâu.
Tuy nhiên cũng có những mô hình chuyển đổi có tác động xấu như việc phá tràm trồng lúa ở một số địa phương ở ĐBSCL. Vào giai đoạn 1997 – 2003, nhu cầu về cây tràm tăng cao, giá tăng khiến người dân đua nhau trồng, kể cả những vùng trồng lúa cũng chuyển sang cây tràm. Nhưng đến khoảng năm 2005 trở lại đây khi nhu cầu tràm giảm mạnh, người trồng bị thua lỗ họ lại ồ ạt phá cây tràm để trồng lúa, điều này đã ảnh hưởng nhiều đến môi trường đất, nước và các nơi cư trú của các loài thủy sản ở đây. Từ đây có thể thấy việc canh tác không hợp lý ảnh hưởng rất nhiều đến môi trưởng sinh thái.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng đạt được tính bền vững không có nghĩa là trong khi tiến tới mục đích kinh tế cần chú ý hài hòa với các mục đích về xã hội và môi trường tránh gây phương hại đến con người, xã hội và môi trường xung quanh. Tựu chung lại thì tính bền vững của xuất khẩu gạo Việt Nam đạt được và chưa đạt được như sau:
Về kinh tế:
Quy mô tăng trưởng: lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng trưởng khá ổn định nhưng do sản xuất thiếu quy hoạch, năng lực của nông dân và doanh nghiệp còn kém nên không chủ động được lượng và giá gạo xuất khẩu.
Chất lượng tăng trưởng: đã có nhiều tiến bộ trong lựa chọn mô hình phương thức canh tác, cải tiến giống để nâng cao chất lượng gạo, dần chuyển đổi cơ cấu gạo xuất khẩu sang gạo phẩm cấp cao. Tuy nhiên các mô hình canh tác tốt chưa được áp dụng rộng rãi, chất lượng gạo chưa cao do việc nghiên cứu giống lúa mới có chất lượng và cơ sở xay xát chế biến còn nhiều hạn chế do trình độ cũng như đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật
Mức độ đóng góp của kim ngạch xuất khẩu gạo vào tăng trưởng kinh tế là khá đáng kể (2 – 3% GDP)
Về xã hội:
Đóng góp đáng kể vào xóa đói giảm nghèo nông thôn vì sản xuất gạo đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, giảm nhanh chóng tỷ lệ nguời thiếu lương thực.
Sản xuất lúa cần nhiều nhân lực vì vậy tăng cường xuất khẩu đã giải quyết được nhiều lao động thiếu việc làm ở nông thôn, tuy nhiên thu nhập và đời sống người nông dân còn nhiều khó khăn do lợi nhuận thu được từ việc trồng lúa là quá thấp.
Sự phân chia lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu mặt hàng gạo còn thiếu công bằng với người nông dân, là người đóng góp nhiều nhất nhưng lại hưởng lợi thấp nhất.
Về môi trường:
Ý thức hơn về tắc động đến môi trường, người nông dân đã áp dụng các mô hình canh tác thân thiện hơn với môi trường nhưng các mô hình này chưa đưa vào quy hoạch và phổ biển rộng rãi nên hoạt động sản xuất lúa gây ra tác động xấu nhất định đến môi trường.
Mức độ khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên của hoạt động trồng lúa không nhiều như nhiều hoạt động kinh tế khác, vì trong qua trình sử dụng đều có sự cải tạo. Song sự quy hoạch và nhận thức của người tham gia vẫn còn kém nên tài nguyên đất vẫn không được sử dụng hợp lý trong canh tác cây lúa.
Tóm lại xuất khẩu gạo của Việt Nam tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Ngoài những kết quả về tăng trưởng và những đóng góp về mặt xã hội, xuất khẩu gạo còn cần phải xem xét nhiều hơn trong việc đảm bảo lợi ích người nông dân và tác động đến môi trường để có thể hướng tới xuất khẩu bền vững mặt hàng này.
Chương 3: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO XUẤT KHẨU BỀN VỮNG MẶT HÀNG GẠO CỦA VIỆT NAM
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển bền vững và xuất khẩu bền vững mặt hàng gạo
3.1.1. Quan điểm về phát triển bền vững
Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112265.doc