MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục tiêu nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 7
6. Cấu trúc của luận văn 8
CHƯƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 1986) 9
1.1. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước 9
1.2. Những hoạt động giáo dục phổ thông bước đầu của nước Việt Nam
thống nhất 11
1.3. Tiến hành cải cách giáo dục lần thứ ba 16
1.3.1. Sơ lược hai cuộc cải cách giáo dục sau cách mạng tháng Tám
năm 1945 16
1.3.2. Tiến hành cải cách giáo dục lần thứ ba 20
1.3.3. Quá trình thực hiện cải cách giáo dục phổ thông 28
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1986 ĐẾN 2000) 47
2.1. Giai đoạn 1986 - 1996 47
2.1.1. Đường lối đổi mới giáo dục phổ thông của Đảng 47
2.1.1.1. Đổi mới tư duy giáo dục phổ thông 47
2.1.1.2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VII) về việc tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo
(1/1993) 54
2.1.2. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới giáo dục phổ thông trong
những năm 1986 - 1996 .60
2.1.2.1. Ngành giáo dục phổ thông triển khai theo đường lối đổi mới
của Đảng 60
2.1.2.2. Một số kết quả của giáo dục phổ thông giai đoạn
1986 - 1996 .69
2.2. Giai đoạn 1996 - 2000 78
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa (12/1996) 78
2.2.2. Thực trạng giáo dục phổ thông Việt Nam trong những năm
1996 - 2000 88
CHƯƠNG 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐẶT RA 106
3.1. Một vài nhận xét 106
3.1.1. Về thành tựu .106
3.1.2. Hạn chế 116
3.2. Bài học kinh nghiệm .124
3.3. Những vấn đề đã đặt ra 135
KẾT LUẬN .143
TÀI LIỆU THAM KHẢO 147
PHỤ LỤC
177 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 2000), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ” [27, tr. 468], trong đó “lấy việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [27, tr. 471].
Nhận thức tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo, Đại hội VIII của Đảng đã xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt thanh niên có việc làm; khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo” [27, tr.490 - 491].
Đảng ta chọn giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kỳ cách mạng mới. Giáo dục phải đi trước một bước: phát triển giáo dục phải đi trước một bước hợp lý so với phát triển kinh tế. Đảng còn khẳng định một tư tưởng nữa là đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất. Đầu tư không chỉ về tài chính mà là đầu tư về mọi mặt.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp (tháng 12/1996) và ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW “Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”.
Đây chính là cái mốc quan trọng của sự phát triển giáo dục nước ta, mở ra một thời kỳ mới của sự phát triển giáo dục và đào tạo - thời kỳ chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Hội nghị đã phân tích sâu sắc thực trạng giáo dục và đào tạo, vạch ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan và nhận định: “Hiện nay sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phát triển nhanh quy mô giáo dục - đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế. Đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Những thiếu sót chủ quan, nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm gay gắt” [2, tr.60]. Trên cơ sở đó Hội nghị đã đề ra những định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Hội nghị nêu lên sáu tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo:
Một là, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có phẩm chất, có năng lực. Nền giáo dục của ta phải đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương làm giáo dục và nền giáo dục của ta phải thực hiện được chính sách công bằng xã hội, phải phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường; phải chống khuynh hướng thương mại hóa giáo dục; đề phòng khuynh hướng phi chính trị trong giáo dục, không truyền bá các giáo lý trong các loại trường học. Giáo dục nhân cách là cực kỳ quan trọng. Dân trí, nhân lực, nhân tài phải trên mẫu số chung là nhân cách.
Hai là, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quốc sách hàng đầu phải được thể hiện ở các mặt chính sách, đội ngũ cán bộ và công tác quản lý. Hội nghị Trung ương đã kiểm điểm rõ trách nhiệm của Bộ Chính trị, của Chính phủ trong việc không chỉ đạo thường xuyên và chưa kịp thời thể chế hóa để thực hiện quốc sách hàng đầu này.
Ba là, giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và toàn dân. Đảng và Nhà nước phải “nắm” giáo dục.Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, một xã hội mà mọi người dân đều được ấm no, hạnh phúc. Sự nghiệp đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải nắm giáo dục. Song giáo dục còn là sự nghiệp của toàn dân. Các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp phải đóng góp để làm giáo dục; các gia đình phải làm giáo dục, phải có môi trường giáo dục tốt. Toàn xã hội phải chăm lo giáo dục. Xã hội hóa giáo dục phải được hiểu đúng nghĩa của nó.
Bốn là, phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển xã hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
Năm là, phải thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng. Nhân dân đang rất lo lắng về việc học tập, phát triển tài năng của người nghèo.
Sáu là, giữ vai trò nòng cốt của các trường dân lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non, phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục. Dù đa dạng hóa đến đâu thì trước hết phải lo quản lý Nhà nước tốt và kịp thời.
Trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo đó, Đảng và Nhà nước xây dựng chiến lược giáo dục.
Nghị quyết Hội nghị lần này vẫn nhắc lại những tư tưởng, những mục tiêu đã nêu ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII), ở Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nghị quyết Hội nghị lần này đặc biệt chỉ ra những việc cụ thể để làm cho giáo dục phổ thông mạnh hơn, tốt hơn.
Nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông từ nay đến năm 2000 được tập trung vào 10 chữ: “chấn chỉnh”, “sắp xếp”, “củng cố”, “nâng cao” và “phát triển”. Ngay từ năm 1997 cần phải chấn chỉnh công tác quản lý, khẩn chương lập lại trật tự kỷ cương, kiên quyết đẩy lùi tiêu cực. Đến năm 2000, phải có một hệ thống nhà trường có kỷ cương, có nền nếp quản lý tốt, không tiêu cực, không yếu kém.
Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục phổ thông toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục, ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2000 đối với ngành giáo dục phổ thông, cần phải:
+ Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phần lớn học sinh tiểu học được học đủ 9 môn theo chương trình quy định. Phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện.
+ Tính chung trong cả nước có khoảng 60% trẻ em độ tuổi 11 - 15 học phổ thông trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học. Xây dựng hệ thống trường chuyên, trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao ở các bậc học.
+ Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 - 35, thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trước khi bước sang thế kỷ XXI.
+ Có chính sách bảo đảm cho con em các gia đình trong diện chính sách, gia đình nghèo được đi học, động viên và giúp đỡ những học sinh giỏi, có nhiều triển vọng. Mở rộng cuộc vận động rộng rãi trong toàn dân kiên quyết xóa mù chữ và chống nạn thất học.
+ Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xóa “điểm trắng” về giáo dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường bản trú ở cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý.
+ Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Nâng cao năng lực tự học và thực hành cho học sinh. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Ngăn chặn và xử lý nghiêm những tiêu cực trong giảng dạy, học tập, thi cử, cấp văn bằng, chứng chỉ.
Về những giải pháp chủ yếu, Nghị quyết ghi chi tiết theo bốn mục: tăng cường nguồn lực, tăng cường động lực; tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp; tăng cường cơ sở vật chất thiết bị nhà trường; chấn chỉnh quản lý giáo dục. Sau đây là những giải pháp liên quan đến giáo dục phổ thông:
- Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục:
Quan điểm coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư cơ bản quan trọng nhất được nhất trí cao. Đầu tư này phải lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển. Về mức đầu tư, Trung ương nhất trí đến năm 2000, chi cho giáo dục phải đạt 15% tổng chi ngân sách. Các nguồn thu ngoài ngân sách cũng được huy động để đầu tư cho giáo dục.
Chính phủ sẽ quy định chế độ thu học phí, miễn giảm học phí cho học sinh con nhà nghèo và con em gia đình thuộc diện chính sách. Không thu học phí ở bậc tiểu học trong các trường công lập. Có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với việc xuất bản sách giáo khoa, đồ dùng, tài liệu, thiết bị dạy học. Khuyến khích các đoàn thể, các tổ chức kinh tế xã hội xây dựng quỹ khuyến học. Lập quỹ giáo dục quốc gia. Phát hành sổ số kiến thiết để xây dựng trường học.
Kết hợp giáo dục xã hội, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục.
Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học. Từng bước phát triển vững chắc các trường lớp tư thục ở giáo dục phổ thông trung học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý thống nhất chương trình, nội dung chất lượng giảng dạy và học tập ở các trường dân lập và tư thục. Hiệu trưởng và giáo viên của các trường này đều do Nhà nước đào tạo, cấp bằng. Ở các trường dân lập, tư thục lập các tổ chức đảng và đoàn thể như trường công lập. Khung học phí của các trường dân lập, tư thục do Nhà nước quy định.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học:
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục nói chung và đặc biệt là giáo dục phổ thông. Giáo viên phải có đủ đức, tài. Do đó các động lực cho giáo viên cũng được tăng cường: lương của giáo viên sẽ được xếp cao nhất trong nhóm ngạch lương hành chính sự nghiệp. Giáo viên được hưởng phụ cấp theo tính chất công việc hoặc theo vùng do Chính phủ quy định. Giáo viên được xã hội tôn vinh, họ tự hào và hạnh phúc. Đây là động lực tinh thần lớn lao đối với giáo viên. Hệ thống trường sư phạm được củng cố, sẽ xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm vừa đào tạo giáo viên có chất lượng, vừa làm công tác nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến. Giáo sinh sư phạm không phải đóng học phí và được cấp học bổng. Có chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào ngành sư phạm. Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để khắc phục nhanh tình trạng thiếu giáo viên.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên để đến năm 2000 có ít nhất 50% giáo viên phổ thông đạt tiêu chuẩn quy định. Không bố trí người kém phẩm chất đạo đức làm giáo viên phổ thông, kể cả giáo viên hợp đồng.
- Nhóm giải pháp thứ ba là tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường cơ sở vật chất thiết bị trường học.
Rà soát lại và đổi mới một bước sách giáo khoa, loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ của khoa học, công nghệ, tăng nội dung khoa học, công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc phổ thông. Trên cơ sở một bước đổi mới và cải tiến ấy, đảm bảo sự ổn định tương đối về nội dung, chương trình, sách giáo khoa ở các cấp học cho đến năm 2000.
Những môn khoa học xã hội, nhân văn và giáo dục tư tưởng chính trị được coi trọng. Tư tưởng Hồ Chí Minh được giảng dạy chính thức trong nhà trường. Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa - thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Phương pháp giáo dục được thay đổi nhiều. Khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình giảng dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
Chấm dứt tình trạng lớp học ba ca, đảm bảo diện tích đất đai và sân chơi, bãi tập cho các trường theo đúng quy định của Nhà nước. Tất cả các trường phải có công trình vệ sinh hợp quy cách. Trong quy hoạch khu dân cư mới, khu công nghiệp tập trung phải có địa điểm trường học cho học sinh. Ban hành chuẩn quốc gia về trường học. Tất cả các trường phổ thông đều có tủ sách, thư viện và các trang thiết bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Sớm chấm dứt tình trạng “dạy chay”. Xây dựng thêm và quản lý tốt các ký túc xá của học sinh.
Tổ chức các hội đồng bộ môn gồm các nhà giáo dục và khoa học đầu ngành có uy tín nhằm nghiên cứu, biên soạn, thử nghiệm nội dung, chương trình sách giáo khoa, tài liệu, phương pháp giảng dạy, cùng danh mục thiết bị đồ dùng dạy học các môn học, các mặt hoạt động trong nhà trường của tất cả các bậc học sẽ áp dụng sau năm 2000.
- Giải pháp thứ tư là đổi mới công tác quản lý:
Đối với ngành giáo dục phổ thông, cần nhanh chóng cải tiến các hình thức thi và đánh giá. Sớm có kết luận về chủ trương phân ban ở bậc phổ thông trung học, trong lúc chưa có kết luận, không mở rộng các chủ trương đó. Không tổ chức lớp chọn ở các cấp học. Không tổ chức trường chuyên ở tiểu học và trung học cơ sở, trừ các trường năng khiếu về nghệ thuật và thể thao. Những tiêu cực trong giáo dục phải được xử lý nghiêm. Có biện pháp sớm chấm dứt tình trạng thu tiền của học sinh không chính thức, không công khai và tình trạng dạy thêm tràn lan ở các bậc học phổ thông.
Về tổ chức, sẽ thành lập Hội đồng quốc gia giáo dục. Các chủ trương, chính sách về giáo dục, những đổi mới về nội dung, quy trình, phương pháp giáo dục phổ thông, đánh giá, thi đều phải dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng và trải qua thực nghiệm, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đưa vào nhà trường theo đúng quy định. Phân cấp cho ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý toàn diện giáo dục phổ thông.
- Phần cuối của Nghị quyết là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục. Đảng ta có sức mạnh và được nhân dân tin yêu. Sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to lớn và có tác dụng mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Kinh nghiệm trong toàn quốc cho thấy ở nơi nào Đảng bộ quan tâm chăm lo đến giáo dục thì giáo dục ở đó phát triển tốt. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ vai trò, trách nhiệm của các ban cán sự. Bộ máy tham mưu và bộ máy quản lý giáo dục được kiện toàn. Các cấp Đảng ủy phải kiểm tra công tác tư tưởng chính trị trong trường học, phải phát hiện và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong giáo dục. Từ nay, thành tích trong giáo dục phải được xem là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc công nhận Đảng bộ trong sạch và vững mạnh ở các cơ quan và đơn vị có trách nhiệm đối với giáo dục. Trung ương rất quan tâm tới việc củng cố các tổ chức Đảng trong giáo dục. Trách nhiệm của các tổ chức Đảng trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ giáo viên rất nặng nề.
Tích cực phát triển đảng trong các trường học, trước hết trong đội ngũ giáo viên, đảm bảo trường phổ thông nào cũng có đảng viên, có chi bộ. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, học sinh phát huy vai trò công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền phong, Hội phụ huynh học sinh, Hội khuyến học và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển giáo dục nước ta. Những tư tưởng chiến lược và thiết thực mà Nghị quyết nêu ra chắc chắn sẽ làm cho giáo dục phổ thông phát triển, đáp ứng những đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng mong mỏi của toàn dân.
Hình 2.1. Mục tiêu giáo dục
Nhân cách
Nhân lực
Nhân tài
Dân trí
2.2.2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1996 - 2000.
Giáo dục Việt Nam giai đoạn này nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng đang tích cực triển khai thực hiện những tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII). Đây là một trong những Nghị quyết được triển khai nhanh chóng, sâu rộng. Các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết được quán triệt trong đội ngũ giáo viên, và cán bộ quản lý giáo dục. Các cấp, các ngành đều đề ra chương trình hành động cụ thể, khẩn trương triển khai thực hiện, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong sự nghiệp chấn hưng giáo dục - đào tạo với nhiều kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Khắp nơi đã dấy lên một phong trào học tập sôi nổi, lôi cuốn sự quan tâm của hầu hết các tầng lớp nhân dân chăm lo cho giáo dục, tăng thêm đầu tư cho giáo dục, tạo không khí chung thuận lợi, giúp nhà trường, thầy cô giáo và học sinh có thêm nguồn lực; triển khai Nghị quyết đã mang lại một số kết quả sau đây:
- Quy mô giáo dục phổ thông không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng, các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đã được thực hiện, công cuộc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được đẩy mạnh.
Năm học 1999 - 2000 so với năm 1994 - 1995, quy mô học sinh trung học cơ sở gấp 1,6 lần, học sinh trung học phổ thông gấp 2,3 lần. Kết quả nổi bật là quy mô tiểu học bắt đầu ổn định với 10.203.750 học sinh trong năm học 1999 - 2000 và tăng lên rõ rệt ở tất cả các cấp học, ngành học khác so với năm trước, tỷ lệ trẻ trong độ tuổi tiểu học được đến trường là 95%. Hàng năm, “số học sinh trung học cơ sở tăng 7 - 8%; năm học 1999 - 2000 số học sinh trung học cơ sở là 5.778.216 em; phổ thông trung học tăng khoảng 18%; năm học 1999 - 2000 số học sinh phổ thông trung học là 1.940.606 em”. [50, tr. 456]. Trình độ dân trí của đất nước đã được nâng lên một bước đáng kể.
Cùng với việc tăng quy mô, đã hình thành được một mạng lưới các trường phổ thông rộng khắp góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân. Đến năm 2000, mạng lưới trường phổ thông đã được sắp xếp tương đối ổn định, phát triển rộng khắp đến tận thôn, bản. Hầu hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã có trường, lớp tiểu học; trong trường hợp các xã có diện tích rộng, các trường, đều có phân hiệu đến thôn bản để thuận tiện cho trẻ em nhỏ tuổi đi học; đã xóa được phần lớn các điểm dân cư còn “trắng” về giáo dục. Phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở. Hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông. Các trường ngoài công lập đã hình thành và bắt đầu phát triển mạnh. Các tỉnh và nhiều huyện đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện.
Đến năm 2001 có 7.993 trường phổ thông cơ sở, trong đó có 2.093 có từ lớp 1 đến lớp 9; có 5.900 trường trung học cơ sở có từ lớp 6 đến lớp 9, không kể các trường phổ thông dân tộc nội trú dành cho con em đồng bào dân tộc ít người”. [46; 143].
Các loại hình trường lớp đa dạng hơn trước và mở ra khắp nơi: nhóm trẻ gia đình, trường mẫu giáo dân lập, lớp tiểu học học cả ngày, trung tâm giáo dục hướng nghiệp, lao động kỹ thuật và dạy nghề, lớp học linh hoạt để phổ cập giáo dục tiểu học.
Hệ thống các trường sư phạm từ trung ương đến địa phương (bao gồm 10 trường đại học, 7 khoa sư phạm trong các trường đại học đa lĩnh vực, 64 trường cao đẳng, 11 trường trung học và 2 trường cán bộ quản lý giáo dục) tiếp tục được củng cố, tăng cường, góp phần tăng thêm điều kiện thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng chuẩn hóa đội ngũ, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về phổ cập trung học cơ sở, triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới trong thời gian tới.
Sau một thập kỷ kiên trì phấn đấu, đến giữa năm 2000, công cuộc chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học nước ta đã đạt được kết quả to lớn, tốt đẹp. “Đến cuối tháng 6 năm 2000, cả nước đã có 61 tỉnh, thành với 597 quận, huyện (trong tổng số 609 quận, huyện), 10.339 xã, phường (trong tổng số 10.994 xã, phường) tức 100% số tỉnh thành và 98% số quận, huyện, 98,53% số xã, phường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Bảo đảm tỉ lệ 90% trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học” [52, tr. 214]. Duy trì, củng cố kết quả đã đạt được, các địa phương phấn đấu thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Thành phố Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong cả nước được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở vào tháng 11/1999, mở đầu quá trình phấn đấu của cả nước hoàn thành chỉ tiêu phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010.
- Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến tích cực.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần, so sánh hai năm học 1995 - 1996 và năm học 2000 - 2001 ta thấy “ở tiểu học, giảm từ 4,81 và 7,16% xuống 2,29 và 3,67%; ở trung học cơ sở giảm từ 2,37 và 9,42% xuống 1,48 và 7,30%; ở trung học phổ thông giảm từ 1,39 và 8,97% xuống 1,18 và 6,35%. Hiệu suất đào tạo (tỷ lệ giữa số học sinh tốt nghiệp so với số học sinh đầu khóa học) tăng lên (ở tiểu học, tăng từ 60,87 lên 74,42%; ở trung học cơ sở tăng từ 60,22 lên 70,01%; ở trung học phổ thông tăng từ 74,97 lên 83,16%) [14, tr. 25].
Ở bậc tiểu học đã từng bước đi vào ổn định, nhiều trường dạy đủ 9 môn học, 2 buổi/ngày và một số trường đã đạt chuẩn quốc gia. Đây là các điều kiện để thực hiện giáo dục toàn diện, giảm tải nhằm đảm bảo chất lượng đối với toàn cấp học đang được các nhà trường và các địa phương phấn đấu thực hiện.
Số học sinh khá, giỏi, số học sinh đạt giải quốc gia, quốc tế tăng lên rõ rệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành rà soát lại chương trình, nội dung giảng dạy ở các cấp học phổ thông; quy định thống nhất sách giáo khoa dùng cho các lớp học phổ thông.
Từ năm học 1998 - 1999 đã bắt đầu thực hiện dự án trung học cơ sở, đang xây dựng chương trình mới cho bậc học này phù hợp với yêu cầu của toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông.
Năm học 1989 - 1990 đã làm thí điểm dạy trung học chuyên ban ở trường Hoàn Kiếm (Hà Nội) và trường Lê Hồng Phong (Nam Định). Từ năm học 1993 - 1994 đã tiến hành thí điểm hệ phổ thông trung học chuyên ban ở 15 trường trong 7 tỉnh, bắt đầu từ lớp 10, chia làm ba ban, gồm ban Khoa học tự nhiên, Khoa học kỹ thuật và Khoa học xã hội. Từ năm 1996 bắt đầu có học sinh tốt nghiệp phổ thông chuyên ban. Sau thực tế triển khai đã đặt ra nhiều vấn đề tranh luận, ban Khoa học kỹ thuật không được dư luận xã hội đồng tình, đồng thời thầy và trò cũng không nhiệt tình dạy, học nên đến năm 2000 thì bỏ. Vì ban này muốn dạy và học có chất lượng phải có trang thiết bị cần thiết. Chính phủ đã xem xét lại chủ trương này, cụ thể là từ năm học 1998 - 1999 không có lớp 10 phân ban, chỉ còn lớp 11, lớp 12 ở trường trung học phổ thông chuyên ban theo chương trình và kế hoạch dạy học phân ban.
Đến năm 2001 mỗi trường đều đã có chương trình riêng cho các môn học này. “Đến năm 2001 cả nước có 62 trường chuyên phổ thông trung học, trong đó 53 tỉnh có loại hình trường này, số khác thuộc các trường đại học”.[46, tr. 159]. Học sinh học các lớp chuyên, trường chuyên thực sự là những học sinh giỏi. Ở các trường này hầu hết đạt 100% học sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông và đạt tỉ lệ cao, 70% - 80%, có khi 100% học sinh thi đỗ vào các trường đại học. Phần lớn giải quốc gia Ôlimpic về toán, vật lý, ngoại ngữ cũng thuộc về các em học sinh cá trường này. Và các em học sinh các trường này là thành phần chủ yếu của các đoàn học sinh trung học phổ thông đi dự các kỳ thi quốc tế về toán, vật lý, tin học, hóa học, sinh học,v.v.Nhưng vì rất thiếu phương tiện dạy và học, nhất là các đồ dùng thực nghiệm hiện đại về vật lý, hóa học, sinh học, và thêm vào đó là các em lớn lên trong nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, nên tư duy thực nghiệm còn yếu. Học sinh các trường trung học phổ thông chuyên (năng khiếu) thường hay học lệch về môn chuyên. Ngoài ra, các trường này không tổ chức tốt giáo dục lao động và hướng nghiệp. Phải sửa lại những lệch lạc này, tập trung vào giáo dục phát triển toàn diện, hướng học, hướng nghiệp, đi vào mục tiêu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung chỉ đạo lập lại trật tự kỷ cương trong nhà trường, tiến hành thanh tra các cơ sở giáo dục nhằm khắc phục bước đầu tình trạng vi phạm quy chế trong thi cử, tuyển sinh, cấp bằng; trật tự, vệ sinh các trường học bước đầu được chấn chỉnh; chống “thương mại hóa” giáo dục. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao được tăng cường, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội thâm nhập vào trường học. Bộ cũng chỉ đạo sát sao việc xóa bỏ lớp chọn ở tất cả các cấp học, bỏ trường chuyên ở trung học cơ sở; tiếp tục chỉ đạo đa dạng hóa các loại hình trường, lớp.
Tuy vậy, chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước. Học s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0150.doc