Chuyên đề Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới

MỤC LỤC

 

Nội dung Trang

Phần mở đầu 2

Phần nội dung 6

Chương I : Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 6

I- Cơ sở lý luận của vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 6

II- Truyền thống kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ 13

Chương II : Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới 21

A- Thực trạng đất nước trước năm 1986 21

B- Thời kỳ đổi mới 23

I- Phát huy sức mạnh dân tộc, mở rộng quan hệ đối ngoại trên mọi phương diện, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trong thời kỳ mới 23

II- Tiếp tục sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 37

III- Những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế 50

IV- Phương hướng của sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới 53

V- Những kết luận về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới 56

Phần kết luận 58

 

doc63 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là tại sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Khi giai cấp công nhân đã chở thành giai cấp cầm quyền thì như Lê Nin đã viết : “chính trị của chúng ta lúc này là vì kinh tế, chính trị ngay trong kinh tế .” vì vậy Đảng xác định: Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để đảm bảo sự bền vững của độc lập tự chủ về chính trị. Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay khi độc lập dân tộc đã dành lại được, khi Đảng ta đã là đảng cầm quyền thì độc lập tự chủ trước hết là chủ yếu là độc lập tự chủ về đường lối phát triển của đất nước, là độc lập tự chủ trong việc lựa chọn con đường tiến lên của dân tộc là độc lập tự chủ trong lựa chọn bước đi thích hợp với hoàn cảnh. Vận dụng vào vấn đề hội nhập toàn cầu hoá về vấn đề kinh tế trong thời kỳ đổi mới thì: độc lập tự chủ về kinh tế trước hết là không bị lệ thuộc, không phụ thuộc vào các nước khác hoặc một tổ chức quốc tế nào về đường lối, chính sách phát triển kinh tế , có được độc lập tự chủ về kinh tế ta sẽ có đủ khả năng đứng vững khi mà nước ngoài áp đặt cho ta, dù trong hợp tác song phương hoặc trong tiếp nhận viện trợ, không gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế có nghĩa là trước những vận động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế, tài chính ở bên ngoài chúng ta vẫn có khả năng duy trì sự ổn định kinh tế và định hướng phát triển của đất nước trước sự bao vây, cô lập và chống phá nền kinh tế, chính trị của các thế lực thù địch như thời kì đổi mới trong những năm 1986 trở lại đây. Chính vì vậy Đại hội đảng lần thứ VI –1986 xác định: “Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản giữ ‘vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nghĩa vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới.[28.109] .Theo tinh thần chủ chương đó Đại hội đảng VIII lại khẳng định: “mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Động viên mọi nguồn lực bên trong là chính, đồng thời khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại , tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ những nhân tố tích cực phục vụ công cuộc và bảo vệ đất nước. [29,74] chính vì vậy nên đảng xác định độc lập tự chủ về kinh tế sẽ đảm bảo vững chắc định hướng Xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hoá dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước giữ gìn an ninh chính trị ,an ninh về môi trường . Đảng khẳng định để đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế trước hết phải có đường lối chính sách độc lập tự chủ và phát triển kinh tế ,thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh quốc tế đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế kết hợp chắt chẽ nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp cho đất nược phát triển, trong đó nội lực giữ vai trò quyết định ;có đường lối đối ngoại và hoạt động đối ngoại đúng đắn bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc đòng thời chủ động hội nhập quốc tế và ứng phó được với các tình huống phức tạp về kinh tế và chính trị đối ngoại đảm bảo sự ổn định chính trị của đất nước. Đảng xác định phải có thực lực kinh tế đủ mạnh cần thiết để phục vụ cho công cuộc đổi mới Theo thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ viết đăng trên tạp chí quốc tế tháng 3-1992 “trong quan hệ quốc tế ngày nay nổi bật nên những xu thế mới ảnh hưởng mạnh mẽ tới chiến lược đối ngoại của các nước .kinh tế và khoa học kỹ thuật đã trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia ,quyết định thành bại và địa vị hơn kém của nước đó trong cuộc ganh đua quyết liệt ở quy mô toàn cầu.Do đó phát triển kinh tế được đặt thành một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại cũng như đối nội của các nước, tinh thần độc lập tự chủ và ý thức dân tộc của các quốc gia tăng lên cùng các nhận thức về nhu câù bức thiết phải hoà nhập tốt vào đời sống quốc tế các mặt mỗi quốc gia đều mở rộng tối đa quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hoá trước hết nhằm phục vụ lợi ích dân tộc của mình xu hương liên kết kinh tế và tiểu khu vực để giải quyết các vấn đề của khu vực nhất là về kinh tế đang là một trào lưu ngày càn lan rộng khắp châu lục”. Theo đó đại hội lần thứ IX của đảng khẳng định: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa” [30,43].Trong khi chưa đạt ở mức cao hiện nay chúng ta phải xây dựng và đảm bảo yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ trước hết là đường lối chính sách kinh tế- xã hội đồng thời phải xây dựng những yếu tố vật chất làm nền tảng cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ luôn gắn liền với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế .trên cơ sở độc lập tự chủ về kinh tế thì mới hội nhập kinh tế có hiệu quả .Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế tự chủ,rõ ràng giữa hai mặt này có quan hệ biện chứng gắn bó với nhau,tác động lẫn nhau và tạo điều kiện cho nhau . Xuất phát từ mối quan hệ đó mà Đại hội Đảng lần VI xác định: “nhiệm vụ của Đảng Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.” Chúng ta triển khai nhiệm vụ đối ngoại trên đây trong bối cảnh quốc tế có không ít những thuận lợi nhưng chứa đầy thử thách đối với đất nước trước đây nói tới yếu tố quốc tế chủ yếu là nói tới quan hệ với các nước “anh em”: “bạn bè” và tuân theo chuẩn mực chính trị, tinh thần định sẵn.Còn bây giờ thế giới đang vận động theo không gian nhiều chiều thì đồng thời với định hướng xã hôị chủ nghĩa, Việt Nam đang tìm và phải tìm cho được chỗ đứng và lợi ích của mình trong sự hợp tác ngày càng cao với tất cả các nước. Trong thời gian này có sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, của kinh tế thị trường cùng sự bùng nổ của các công ty siêu quốc gia đã thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế và kéo theo toàn cầu hoá trên một số lĩnh vực khác. Điều đó đã dẫn đến tình hình là trong giai đoạn mới, mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ, dù là nước phát triển hay đang phát triển, muốn phát triển và tồn tại phải tự coi mình là thành viên của cộng đồng quốc tế, phải tồn tại trong một cơ chế mà đó có sự tuỳ thuộc lẫn nhau.Trong bối cảnh đó đẩy mạnh quan hệ song phương, đa phương và chủ động hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế như một đòi hỏi khách quan.Nếu không thích ứng với tình hình không chủ động tham gia các quan hệ đó là đi ngược dòng lịch sử. Vì vậy chủ động hội nhập quốc tế đó là một điều khách quan , nhưng để không bị dòng xoáy toàn cầu hoá nhấn chìm xuống vực thẳm của sự nghèo nàn lạc hậu , chúng ta phải thực hiện nhất quán đường nối đối ngoại tự chủ động mở rộng của ,đa phương hoá , da dạng hoá các quan hệ quốc tế theo nguyên tắc quốc tế Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau . theo Lê Nin “ để hội nhập chúng ta có thể nhân nhượng, có thể hy sinh một số lợi ích kinh tế nhất định, song không được vi phạm chủ quyền quốc gia và con đường ,mục tiêu đã chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là xu thế khách quan nhưng chúng ta phải hết sức chủ động tham gia hội nhập quốc tế về kinh tế, hợp tác với các nước tiến bộ trên thế giới, làm chủ trong mối quan hệ với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới . Để hội nhập có hiệu quả tích cực đối với sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm căn bản . Đất nước càng mạnh lên bao nhiêu về nội lực thì càng có điều kiện tham gia và mở rộng các quan hệ song phương, đa phương bấy nhiêu . Hiện nay các nước phát triển ở thế mạnh cho nên muốn các nước đang phát triển hội nhập nhanh với hy vọng các nước phát triển trước thị phần ở các nước đang phát triển càng nhiều càng tốt , làm tổn hại đến lợi ích của các nước đang phát triển.Bởi vậy chúng ta cần phải biết thực lực và khả năng của mình mà chủ động lập kế hoạch từng bước, mở rộng phạm vi nâng cao mức độ hội nhập kinh tế theo một lộ trình thích hợp thường là dài hơn các nước có trình độ phát triển cao hơn . Như vậy nếu không chú ý đến tình hình trong nước để lựa chọn bước đi thích hợp , không biết phân biệt thời cơ cũng như lĩnh vực tham gia hội nhập thì sẽ mang lại những hiểm họa không lường cho đất nước. Nhờ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế , chúng ta có thể thu hút vốn đầu tư , tiếp nhận những thành quả của khoa học công nghệ tiên tiến để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá đất nước .Nói tóm lại để có thể mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao khả năng hội nhập thì nội lực chúng ta phải mạnh , thể chế chính trị xã hội phải ổn định vững chắc, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa phải không ngừng được bồi dưỡng, phát huy - Đó là một nột lực căn bản để mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả . chỉ có trên nền tảng đó chúng ta mới không bị hoà tan trong hội nhập, mới có khả năng biến ngoại lực thành nội lực và sử dụng có hiêụ quả những nguồn lực đó 2. Mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hoà bình tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội Trong thời gian gần đây, thế giới tuy có nhiều biến động, song nhìn chung bước đi lên của chúng ta là chắc chắn và có nhiều triển vọng .Năm 2002 thế giới đã có những đánh giá rất lớn về Việt Vam .Việt Nam là nơi có tình hình chính trị và an ninh ổn định nhất Việt Nam là nước có tỷ lệ dân chúng cao nhất tin tưởng ở tương lai, Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng cao và Việt Nam tiếp tục đổi mới Có những thành tựu đó là sự phấn đầu lỗ lực không ngừng của Đảng và nhân dân ta trong sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm tạo ra môi trường hoà bình, thuận lợi để phát triển kinh tế đất nước . Theo thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ trên Tạp chí thông tin lí luận 1-1991 sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh quốc tế đấu tranh và hợp tác cùng hoà bình đang tạo cho chúng ta những thuận lợi để bung mình thoát khỏi sợi dây trói buộc của nghèo nàn lạc hậu”. “Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của ngoại giao để phục vụ đắc lực cho chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là phải nhanh chóng tạo nên môi trường quốc tế hoà bình và ổn định, thuộn lợi cho việc mở rộng và đa dạnh hoá quan hệ quốc tế của nước ta trên các lĩnh vực nhất là kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hoá. Chính vì vậy từ khi tiến hành đổi mới đại hội đảng lần thứ VI xác định : “Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới [31,99] theo tinh thần đó Đại hội đảng lần thứ VII nhấn mạnh : “Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình , mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác , tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình , độc lập đân tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội” .Đến Đại hội đảng lần thứ VIII tiếp tục phát triển và khẳng định : “Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội” [33,120]. Trong thời điểm hiện nay xu hướng đó đòi hỏi một cách cấp thiết hơn, vì thế Đại hội Đảng IX khẳng định , hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn , phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia ,dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới” Đất nước có hoà bình ,thế giới có hoà bình thì việc sản xuất việc phát triển đất nước mới có thuận lợi.Một xã hội hoà bình là mơ ước của tất cả các dân tộc trên trái đất này.ở Việt Nam nếu chúng ta có được môi trường hoà bình thì sẽ tạo điều kiện cho các nhà tư bản nước ngoài đầu tư , sản xuất trong nước mới phát triển, kinh tế vững mạnh, sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá sẽ thuận lợi hơn. Vậy Đảng ta đã chủ trương như thế nào để tạo ra môi trường hoà bình trong nước và trên thế giới ? Cụ thể : 2.1- Mở rộng đoàn kết quốc tế, không ngừng đấu tranh vì hoà bình : Với phương châm "Giúp bạn là tự giúp mình", sinh thời Hồ Chí Minh không chỉ tranh thủ đến mức cao nhất sự ủng hộ giúp đỡ của quốc tế, mà người còn chủ trương rằng : "Nhân dân Việt Nam phải làm hết sức mình cho các mục tiêu cách mạng của thời đại vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy mà Đại hội Đảng lần VI chủ trương : dân tộc Việt Nam sẽ ủng hộ, giúp đỡ tất cả các nước trên thế giới trong việc chống lại chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc, kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh vì những quyền dân tộc cơ bản, thiêng liêng; kiên quyết cùng nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa A - pác - thai ... Đảng chủ trương: "Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố nhất là chủ nghĩa khủng bố Nhà nước mà đế quốc Mỹ coi là quốc sách của họ". Trong thời gian qua Đảng và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ và mở rộng, do đó chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Kết quả đó đã chứng tỏ chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta đề ra trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn, do sự vận dụng kịp thời và triển khai có hiệu quả đó nên đã nâng cao uy tín và vị trí quốc tế của Việt Nam, góp phần từng bước, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2.2- Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp nên sự bất đồng, tranh chấp giữa các nước, các khối nước về những vấn đề cụ thể là khó tránh khỏi. Với chính sách yêu chuộng hoà bình, tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước, bảo vệ các nước nghèo nhỏ yếu, phương châm xử lý quan hệ quốc tế của chúng ta là : Phát huy những điểm tương đồng, hạn chế những điểm bất đồng, giải quyết bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, kiên quyết phản đối dùng vũ lực để giải quyết. Đảng và dân tộc Việt Nam thiết tha mong muốn hợp tác thân thiện, đoàn kết với các nước trong cuộc đấu tranh chung vì hoà bình thế giới. Nhưng trong quan hệ đối ngoại chúng ta phải thực hiện : Giữ vững nguyên tắc cùng với năng động linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của tình hình quốc tế cũng như điều kiện hoàn cảnh của chúng ta, nhằm thiết lập mối quan hệ rộng rãi với các nước, khai thác được nhiều nhất các khả năng hợp tác để hoà bình và cùng phát triển. Đặc biệt trong mối quan hệ với các nước láng giềng nhất là với Trung Quốc; Việt Nam sẵn sàng đàm phán, thương lượng với bất cứ điều kiện nào, bất cứ thời gian nào,địa điểm nào trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền và hợp tác cùng phát triển. Như đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói: "Chúng tôi thực hiện đường lối đối ngoại theo phương châm : Việt Nam cần có hoà bình và nhiều bạn để cùng nhau xây dựng cuộc sống tương lai". Trong thời kỳ mới tình hình quốc tế cũng xuất hiện nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Đối với nước ta tình hình đó càng làm cho những khó khăn gay gắt thêm, đồng thời cũng mang lại những thuận lợi và cơ hội mới. Lúc này chúng ta đã vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội và đang đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tạo tiền đề cho đất nước phát triển trong những năm sau. Muốn vậy chúng ta phải : Mở rộng đoàn kết quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. 3- Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới. Sau khi đất nước thực hiện đổi mới, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nỗ lực vượt khó, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, phát huy ý chí tự lực tự cường tạo thành sức mạnh để xây dựng đất nước. Vì vậy trong thời điểm hiện nay Việt Nam trở thành điểm hẹn cho những cuộc gặp gỡ của tình hữu nghị và hợp tác quốc tế, là điểm đến an toàn cho bạn bè, đồng thời Việt Nam cũng chủ động đem đến với bầu bạn năm châu những ý tưởng tình cảm chân thành nhằm tăng cường đoàn kết và hợp tác thân thiện. Có được như vậy là do phần lớn là sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng. Trong điều kiện hoàn cảnh quốc tế chưa có những mối quan hệ thuận lợi cho đất nước Đại hội Đảng lần VI đã chủ trương: "Sẵn sàng là bạn, chủ động hội nhập với quốc tế, phát huy nội lực của đất nước để tạo nguồn lực phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới". [34, 31]. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nghiêm chỉnh thực hiện và đã đạt được thành tựu đáng kể. Đại hội Đảng lần VI đã khẳng định: "Với chính sách đối ngoại rộng mở chúng ta tuyên bố rằng : Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [35, 147]. Theo tinh thần đó Đại hội Đảng lần VIII tiếp tục khẳng định Việt Nam: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [36, 120]. Đến Đại hội Đảng lần IX nhu cầu đó trở nên cấp thiết không chỉ ở trong nước mà ở trên phạm vi toàn cầu, vì vậy Đảng xác định: "Việt Nam sẵn sàng là bạn đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển". Như vậy Đảng ta chủ trương "thêm bạn, bớt thù", sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới không phân biệt chế độ kinh tế, chính trị, xã hội, sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với cả những nước nghèo, nhỏ, yếu cùng hợp tác và phát triển. Trên lĩnh vực ngoại giao song phương chúng ta chủ động hợp tác thân thiện với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan và các nước khác trong khu vực Đông Nam á. Ta chủ trương đặt quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với tất cả các nước Châu Âu, Châu á, Châu Mĩ La Tinh, Châu Phi ... Đại hội Đảng lần VI. 1986 khẳng định: "Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em". Đảng chủ trương tăng cường và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại;Đảng cho rằng cần phải tiến hành mở rộng quan hệ với các nước Tây Âu, Bắc Âu, Châu Phi, Mĩ La Tinh ... Đại hội VII khẳng định đường lối hợp tác đó là hoàn toàn đúng đắn, đến Đại hội Đảng lần VIII nhấn mạnh: "Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với cácnước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mĩ La Tinh, với phong trào không liên kết". Đến Đại hội Đảng lần IX quan hệ hợp tác song phương nâng lên tầm cao mới, Đảng chủ trương: "Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi, Trung Đông và Mĩ La Tinh, các nước trong phong trào không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế". Trên lĩnh vực ngoại giao đa phương chúng ta đã gia nhập tổ chức ASEAN, phong trào không liên kết; Liên Hợp quốc, tham gia vào tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức dầu mỏ OPEC,đang xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới .... Khi bước vào sự nghiệp đổi mới, Đảng tại Đại hội lần VI đã khẳng định : luôn tán thành những mục tiêu cao cả của phong trào không liên kết với tư cách là thành viên của phong trào. Là một đội ngũ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Đảng ta tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mác - LêNin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đảng chủ trương tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, tăng cường việc gia nhập vào khối ASEAN ... Đại hội Đảng VII khẳng định tầm quan trọng của sự hợp tác đa phương và Đại hội Đảng lần VIII nhấn mạnh: "Tăng cường hoạt động ở Liên Hợp quốc, tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp, các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ cuộc đấu tranh nhằm loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân và những phương tiện giết người hàng loạt khác. Phát triển quan hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân, lực lượng cách mạng, vì độc lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác". Cho đến Đại hội Đảng lần IX bổ sung: "Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ công bằng". Trên lĩnh vực ngoại giao nhân dân, Đại hội Đảng lần VI khẳng định; mở rộng quan hệ ngoại giao với nhân dân ở các nước trong khu vực và trên thế giới, quan hệ song phương và đa phương với các chính phủ ở các nước, thiết lập quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, phấn đấu hợp tác, tranh thủ sức mạnh của nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ để cùng nhau tồn tại, phát triển. Đại hội Đảng lần VII tiếp tục đề ra và đến Đại hội Đảng lần VIII khẳng định: "Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển". Đại hội Đảng lần IX nhấn mạnh: "Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế". Tóm lại: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn nhân tố dân tộc và quốc tế để xây dựng đất nước. Trong nước Đảng chủ trương: "Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định biến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai". Với quốc tế Đảng chủ trương không phân biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, sẵn sàng khép lại quá khứ hướng tới tương lai, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, sẵn sàng giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào, địa điểm nào bằng thương lượng hoà bình và phát triển càng có lợi. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn đó đã làm cho đất ước đứng vững, tiến chắc trong sự nghiệp đổi mới đất nước. II- tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước trong sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế. Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vững mạnh không chỉ là nhu cầu cấp thiết của con người mà nó còn là vấn đề chiến lược của mỗi quốc gia khi tham gia hội nhập toàn cầu. Vì vậy để nền kinh tế của mỗi một quốc gia thực sự vững mạnh thì phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Trong xu thế thời đại mới hiện nay công nghiệp hoá , hiện đại hoá là một tất yếu khách quan, hầu hết các nước đang phát triển đều coi công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước là biện pháp duy nhất, nhanh nhất để rút ngắn khoảng cách lạc hậu về kinh tế so với các nước phát triển. Trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Đó là từ đất nước nghèo nàn lạc hậu ta đã bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, ta đã và đang đẩy mạnh một bước công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Vậy trong thời kỳ đổi mới với xu thế hội nhập toàn cầu Đảng đã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0161.doc
Tài liệu liên quan