Mục lục
Nôi dung Trang
Mở đầu 2
Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận về tài chính công trong
nền kinh tế thị trường và những đặc trưng chủ yếu của tài chính
công Việt Nam hiện nay3
I. Những vấn đề lý luận về tài chính công trong nền kinh tế thịtrường3
II. Những đặc trưng chủ yếu của tài chính công Việt Nam hiệnnay6
Phần thứ hai : Cải cách ngân sách nhà nước Việt Nam và mối
quan hệ với cải cách hành chính 12
Phần thứ ba: Thực trạng cải cách ngân sách ở Việt nam15
1. Bối cảnh kinh tế - xãhội 15
2. Nội dung cải cách và kết quả 16
Phần thứ tư : Luật ngân sách nhà nước - Mục tiêu, kết quả và
các vấn đề tồn tại 19
Phần thứ năm : Chính sách tài chính - những giải pháp hoàn
thiện chính sách ngân sách giai đoạn 2001- 2002 26
1. Chính sách tài chính ngân sách giai đoạn 2001- 2002 26
II. Định hướng bổ sung, sửa đổi Luật ngân sách nhà nước 29
Phần thứ sáu: Kiểm toán Nhà nước - công cụ để tăng cường kỷ
luật và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách 32
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2273 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá cải cách hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tránh l∙ng phí,
thất thoát. Cụ thể:
- Về thu, Luật quy định chỉ cơ quan có thẩm quyền mới được thu, nếu
chậm thu do cố tình thì bị cưỡng chế, thu sai thì được hoàn trả.
- Về chi, thực hiện thanh toán trực tiếp qua kho bạc, với 2 nội dung:
+ Cơ quan tài chính cấp trực tiếp kinh phí cho đơn vị sử dụng ngân sách,
không qua cơ quan trung gian.
+ Tiền từ ngân sách chuyển thẳng đến người sử dụng (cá nhân hưởng
lương, cơ quan cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ, ...), hạn chế chuyển qua
tài khoản tiền gửi hoặc quỹ tiền mặt của đơn vị.
Năm là, các cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách phải hạch toán kế toán và
quyết toán số tiền thực nhận và thực sử dụng theo chế độ. Báo cáo quyết toán
phải được kiểm toán (do cơ quan chuyên môn thực hiện) trước khi trình cấp có
thẩm quyền duyệt.
Đây là quy định mới, nhằm đảm bảo tính trung thực, khách quan của báo
cáo kế toán, đồng thời có tác dụng tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính - ngân
sách (sẽ nói kỹ hơn ở phần dưới).
Sau gần 4 năm thực hiện Luật NSNN (1997 - 2000), đến nay nhìn lại thì
kết quả lớn nhất đạt được là đ∙ đưa vào cuộc sống khuôn khổ của chế độ quản lý
ngân sách mới, dần phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường và đồng bộ với
tiến trình đổi mới kinh tế - x∙ hội nói chung và cải cách quản lý, cải cách hành
chính nói riêng.
Đi vào cụ thể theo từng lĩnh vực thực hiện, Luật NSNN đ∙ đem lại một số
kết quả sau:
1 - Sau khi được phân quyền, phân cấp, bộ máy quản lý ngân sách đ∙ phát
huy tác dụng thiết thực, đặc biệt thể hiện ở việc chính quyền địa phương các cấp
đ∙ thực sự quan tâm, chăm sóc nguồn thu, coi việc thu ngân sách là công tác
trọng tâm, vì thế đ∙ tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp, các cơ quan trực thuộc,
vừa tạo thêm nguồn thu, vừa đôn đốc thu để đảm bảo thu đúng, thu đủ theo luật
định. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến cho từ năm 1997 đến nay, mặc dù
chịu thiệt hại nặng nề thiên tai và ảnh hưởng xấu của khủng hoảng tài chính - tiền
tệ khu vực, thu ngân sách nhà nướcvẫn vượt dự toán (năm 1997 vượt 4,8%, năm
1998 vượt 8,0%, năm 1999 vượt khoảng 5%). Đáng chú ý là hầu hết các tỉnh đều
thu vượt dự toán ở tốc độ cao hơn (do hụt thu lớn ở thuế xuất nhập khẩu là nguồn
thu của ngân sách Trung ương), kể cả các địa phương bị thiên tai nặng như các
tỉnh miền Trung.
2- Các cơ quan Nhà nước đ∙ chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới và
đạt nhiều chuyển biến theo hướng tích cực.
Ví dụ: Quốc hội họp sớm hơn (vào tháng 4 và tháng 11) để có thể quyết
định được dự toán ngân sách nhà nước trước 30/11 theo quy định của Luật. Quốc
hội cũng dành nhiều thời gian hơn để thảo luận và chất vấn về ngân sách và đ∙ có
các quyết định cụ thể về các chương trình dự án lớn của Quốc gia (trước kia ngay
cả các công trình thế kỷ như đường điện 500 KV, thuỷ điện Hoà Bình cũng
không được hưởng quy chế này). Điều đó cho thấy rõ xu hướng dân chủ ở ngay
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Đối với các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, quá trình
chuyển biến theo Luật còn rõ hơn. Việc can thiệp thường xuyên vào việc sử dụng
dự toán của các đơn vị sử dụng ngân sách đ∙ được hạn chế và chuyển dần sang
chỉ còn một cửa kiểm soát là Kho bạc Nhà nước. Tuy nhiên, không vì thế mà việc
sử dụng ngân sách lỏng lẻo hơn mà theo chiều hướng ngược lại.
Đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, đ∙ thực hiện khá nhuần nhuyễn vai
trò “chuẩn chi” của mình. Do được đảm bảo nguồn vốn đ∙ ghi trong dự toán mà
trong vài năm gần đây cơ bản đ∙ xóa bỏ tình trạng bị cắt giảm kinh phí tuỳ tiện
hoặc cấp chậm so với tiến độ công việc. Nhờ thế, nhìn chung hoạt động quản lý
Nhà nước và các sự nghiệp kinh tế - x∙ hội được duy trì và phát triển một cách
thuận lợi, mặc dù tổng kinh phí tăng lên chậm hoặc không tăng.
3- Cơ cấu ngân sách nhà nước thay đổi theo hướng ngày càng tích cực:
Về thu: Tốc độ tăng thu nội địa ngày một lớn, đồng thời đ∙ tranh thủ thu
thêm nhiều nguồn thu mới như thu về nhà, đất, thuế thu nhập, thu chênh lệch giá.
Về chi, ngoài việc ưu tiên cho đầu tư phát triển và đảm bảo chi trả nợ, đ∙
hình thành khá rõ 3 nhóm chi thường xuyên với các tốc độ khác nhau : nhóm ưu
tiên có tốc độ phát triển nhanh (chi giáo dục - đào tạo, chi khoa học công nghệ);
nhóm duy trì ở mức bình thường (chi cho các sự nghiệp văn hóa - x∙ hội); nhóm
giảm chi (chi quản lý hành chính).
Riêng chi về quản lý hành chính đ∙ thực hiện thắt chặt (năm 1998 chỉ
bằng 94% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 91% năm 1998). Tuy nhiên không có
nghĩa cắt đều, giảm toàn diện mà thực hiện sắp xếp lại, giảm mạnh các khoản
chưa thật cần thiết như hội nghị, tiếp khách, mua sắm trang bị đắt tiền, xây dựng
trụ sở mới. Đồng thời bổ sung cho các nhiệm vụ cần thiết mới phát sinh như bổ
sung cho cán bộ x∙, cho vận động viên, cho bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp,...
4- Dần tạo ra thói quen dân chủ và tuân thủ Pháp luật, không chỉ trong các
cơ quan Nhà nước mà ngay cả trong các tầng lớp nhân dân. Ngân sách nhà nước
vốn được coi là tài liệu tuyệt mật thì đ∙ được công khai hóa phần lớn; dự toán
giao cho đơn vị được đưa ra trước toàn thể cán bộ, công chức để biết, thực hiện
và giám sát; các tổ chức cá nhân tự nộp thuế theo tờ khai, thậm chí các đơn vị tự
xác định mức hoàn thuế, ... Đây là các bước tiến quan trọng trong quá trình dân
chủ hóa thực sự và toàn diện.
Bên cạnh các kết quả đ∙ đạt được, quá trình thực hiện Luật ngân sách nhà
nước cũng đ∙ bộc lộ một số tồn tại cần tiếp tục giải quyết, tập trung vào 2 nhóm
vấn đề sau :
Một là : các khó khăn, vướng mắc ở khâu tổ chức thực hiện, trong đó nổi
lên là sự thiếu đồng bộ trong chính sách. Ví dụ :
- Để có thể chi được theo đúng chế độ, định mức thì nhà nước phải ban
hành đủ các chế độ chi tiêu, định mức phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên,
đến nay không phải tất cả các nhiệm vụ chi đều đáp ứng được tiêu chuẩn này,
trong đó hoặc là chưa có chế độ chi tiêu hoặc là có chế độ, định mức nhưng lại
quá lạc hậu.
- Để cho x∙ có thể là cấp ngân sách chính thì việc đào tạo, bỗi dưỡng đối
với cán bộ x∙ phải nâng lên một bước.
Một vấn đề khác cũng cần được quan tâm là sự đồng bộ giữa tổ chức bộ
máy, tiền lương và ngân sách (các yếu tố tạo nên một thực thể hành chính). Trên
thực tế, 3 yếu tố này không phải lúc nào cũng đồng nhất. Ví dụ : mặc dù không
được tăng kinh phí song vẫn được tuyển thêm biên chế và ngược lại, hoặc trong
một số năm gần đây vẫn có xu hướng lập thêm nhiều cơ quan nhà nước trong khi
yêu cầu của ngân sách là phải giảm chi hành chính.
Hai là : bản thân các quy phạm của Luật ngân sách nhà nước có những
điểm còn chưa phù hợp với thực tế hoặc với các luật khác như : Luật Ngân hàng,
Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật..., trong đó nổi lên là nguyên tắc
ngân sách thanh toán trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước, mặc dù rất tiến bộ song
các điều kiện thực hiện chưa đầy đủ nên chỉ có thể triển khai từng bước.
Cũng trong phạm vi các nhóm vấn đề trên, có một số quy định của Luật
còn gò bó, cứng nhắc, đặc biệt là trong các quy định về nguồn thu, nhiệm vụ chi
và cân đối ngân sách địa phương . Theo xu hướng mở và quá trình hội nhập thì
cần phải phân quyền mạnh hơn nữa cho địa phương (kể cả nguồn thu, nhiệm vụ
chi; kể cả quyền đi vay các quỹ tài chính hoặc vay nước ngoài để đầu tư trong
các điều kiện nhất định).
Phần thứ năm
Chính sách tài chính - Những giải pháp hoàn thiện
chính sách ngân sách giai đoạn 2001-2002
1/ Chính sách tài chính ngân sách giai đoạn 2001 - 2002:
Tài chính tiền tệ là khâu trọng yếu, có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực
khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, coi trọng và sử dụng hữu hiệu các công cụ tài chính tiền tệ có
ý nghĩa then chốt, quyết định đến chất lượng và hiệu quả quản lý đất nước. Do
đó, trong giai đoạn tới, đổi mới chính sách và hệ thống tài chính tiền tệ phải là
một khâu đột phá, Nhà nước cần nâng cao năng lực và hiệu quả sử dụng chính
sách tài chính tiền tệ như một công cụ sắc bén và quan trọng nhất trong quản lý
vĩ mô đối với kinh tế thị trường.
Việc đổi mới trong lĩnh vực tài chính tiền tệ cần được tiến hành một cách
đồng bộ nhằm tạo ra cho được một hệ thống các cơ chế, chính sách và hệ thống
bộ máy tài chính - ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Hệ thống đó vừa ổn định, nhất quán vừa lường trước được các biến động theo xu
thế vận động của nền kinh tế - x∙ hội trong tương lai, lại vừa có khả năng phát
huy được các nguồn lực tài chính của đất nước, giải phóng sức sản suất còn đang
tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đồng thời làm thước
đo năng suất chất lượng hiệu quả của nền kinh tế và x∙ hội.
Để thực hiện mục tiêu kinh tế-x∙ hội thời kỳ 2001-2002 tiếp tục đưa đất
nước phát triển nhanh và vững chắc theo định hướng XHCN, cần phải tiếp tục
hoàn thiện tài chính và ngân sách theo các nội dung cơ bản sau:
- Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế của các công cụ tài
chính, tiền tệ (đặc biệt là các công cụ thuế, ngân sách và các công cụ của chính
sách tiền tệ).
- Động viên, khai thác, sử dụng tối đa các nguồn nội lực để tập trung cho
phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
- Coi trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong phân bổ và sử dụng các
nguồn lực của đất nước thể hiện trong chi tiêu thường xuyên và trong các dự án
đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp và toàn x∙ hội. Chính sách và cơ chế tài
chính tiền tệ phải hướng dẫn các thành phần kinh tế sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực tài chính sẵn có, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm đảm bảo
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
- Chủ động tham gia hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính nhằm khai
thác tối đa các nguồn ngoại lực và phát huy nội lực trên cơ sở coi trọng độc lập,
tự chủ và đảm bảo an ninh tài chính.
Theo những nội dung trên, trước mắt cần tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ chính như sau:
1. Đẩy nhanh hơn nữa công cuộc cải cách và chuyển đổi trong lĩnh vực tài
chính - ngân sách nhà nước, đặc biệt là đổi mới về mặt nhận thức cũng như biện
pháp sử dụng công cụ tài chính, tiền tệ để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống tài
chính - ngân sách nhà nướcphải có bước đổi mới mạnh mẽ, phù hợp và phục vụ
tích cực cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
2. Sớm hoàn thành cuộc cải cách thuế giai đoạn 2, xây dựng cho được một
hệ thống thuế hiện đại, kết cấu hợp lý giữa các sắc thuế cần thiết, vừa đảm bảo sự
công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, vừa tạo đủ nguồn tài chính cho
Nhà nước XHCN.
3. Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ chế quản lý ngân sách nhà nước.
Thực hiện tổng kết đánh giá 4 năm thực hiện luật ngân sách nhà nước và tiến
hành sửa đổi, bổ sung luật ngân sách nhà nước cho phù hợp với yêu cầu mới của
nền kinh tế x∙ hội theo hướng ngân sách nhà nước phải đảm bảo đủ nguồn lực tài
chính Nhà nước cần thiết để duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước
trên nguyên tắc tiết kiệm, nâng cao hiệu suất hoạt động, đẩy mạnh phát triển
khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Duy trì quy
mô thu ngân sách nhà nước từ 20 đến 22% GDP, đảm bảo quy mô chi của ngân
sách nhà nướctừ 26% đến 28% GDP, khống chế bội chi ngân sách nhà nướctrong
giới hạn an toàn, có thể kiểm soát được.
Chi ngân sách nhà nước phải thực sự tiết kiệm, hiệu quả, trong đó phải ưu
tiên chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, đầu tư có lựa chọn cho phát triển
khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, bố trí hợp lý các khoản dự
phòng và trả nợ, mở rộng x∙ hội hoá một số khoản chi ngân sách nhà nước, thực
hiện tự trang trải chi tiêu trong một số đơn vị hành chính sự nghiệp (thuế, kho
bạc, hải quan, một số trường đại học, bệnh viện). Triển khai các biện pháp đổi
mới nhằm nâng cao hiệu quả chi và kiểm soát chi ngân sách nhà nước. Xây dựng
mô hình tự bảo đảm chi phí thường xuyên, tiền lương và phụ cấp lương đối với
một số đơn vị cung cấp các dịch vụ công cộng trong các lĩnh vực giáo dục, y tế,
bảo hiểm x∙ hội, phát thanh, truyền hình, phim ảnh, vệ sinh công cộng, Thử
nghiệm thay thế phương thức Nhà nước cấp tiền cho các đơn vị cung cấp dịch vụ
công cộng nói trên bằng việc Nhà nước mua sản phẩm hoàn thành với giá cả phù
hợp với chất lượng, tiến độ đảm bảo.
Thực hiện đầu tư tập trung dứt điểm từng công trình, thực hành tiết kiệm
ngay trong khâu phê duyệt quy hoạch, phê duyệt dự án và dự toán đầu tư, nhanh
chóng phát huy hiệu quả sử dụng đối với các khoản đầu tư bằng nguồn vốn ngân
sách nhà nước. Từ nay, mỗi khoản đầu tư bằng nguồn vốn tập trung từ ngân sách
nhà nước đều phải đảm bảo 2 yêu cầu: một là định hướng đầu tư cho nền kinh tế,
thông qua vai trò định hướng đầu tư từ nguồn NSNN để thu hút nhiều nguồn tài
lực trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực đ∙ được Nhà nước đầu tư. Hai là,
khoản đầu tư đó phải có hiệu quả trực tiếp tạo ra động lực thúc đẩy, lôi kéo, góp
phần vào tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN theo nguyên tẵc
vừa đảm bảo tính thống nhất của Nhà nước XHCN, tập trung sức tạo cho NSTW
một sức mạnh tài chính đủ để Nhà nước có thực lực định hướng phát triển kinh tế
và duy trì công bằng x∙ hội, vừa đảm bảo tính độc lập tự chủ, sáng tạo của chính
quyền địa phương các cấp, thực hiện giảm bớt các đầu mối trung gian không cần
thiết, tránh sự trùng lặp trong điều hành và quản lý ngân sách.
Có bước tiến mạnh mẽ về đổi mới cơ chế tài chính đối với các doanh
nghiệp nhà nước, mạnh dạn trao quyền tự chủ tài chính, tự chủ sản xuất kinh
doanh cho các doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tôn trọng luật thuế, tôn trọng
pháp luật tài chính, kinh tế, thương mại, thanh toán và các đạo luật khác, tôn
trọng định hướng phát triển kinh tế dài hạn của đất nước. Thúc đẩy tiến trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết chỉ giữ lại một số doanh nghiệp
có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ nền kinh tế và có ảnh hưởng tới nhiều chu
kỳ sản xuất kinh doanh khác của nền kinh tế như cơ sở hạ tầng kinh tế, giao
thông bưu điện, viễn thông, công nghệ phần mềm, nhiên liệu, năng lượngáp
dụng cơ chế mở đối với các lĩnh vực khác nhằm huy động tối đa tài sức của nhân
dân và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần vào đầu tư phát triển kinh tế.
Nâng cao vai trò, hiệu quả điều chỉnh chính sách vĩ mô của chính sách
tiền tệ trên cơ sở phát triển mạnh, đồng bộ hệ thống thị trường tài chính, các công
cụ của chính sách tiền tệ, chuyển mạnh sang điều chỉnh bằng các công cụ gián
tiếp là cơ bản với bước đi vững chắc.
Hiện đại hoá công nghệ tài chính, ngân hàng nhất là hiện đại hoá quy
trình NSNN và công tác thanh toán trong nền kinh tế. Coi trọng việc xây dựng
thói quen tâm lý về thanh toán không dùng tiền mặt trong x∙ hội, có biện pháp
ứng dụng nhanh chóng tiến bộ về công nghệ tài chính - ngân hàng trên thế giới
vào điều kiện thực tế của ta, tiến tới xây dựng cho được nếp sống văn minh trong
thanh toán không dùng tiền mặt của cả nền kinh tế.
3. Củng cố và kiện toàn hệ thống kế toán, tiến tới cả nền kinh tế đều có hệ
thống kế toán thống nhất, phản ánh trung thực kịp thời thực trạng các hoạt động
kinh tế, trên cơ sở đó mới có các giải pháp thích hợp đảm bảo sự lành mạnh của
nền tài chính tiền tệ. Phân biệt công cụ kế toán giúp Nhà nước quản lý thuế với
công cụ kế toán giúp doanh nghiệp quản lý chi phí và tính giá thành sản xuất
kinh doanh. Tăng cường công tác kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát tài
chính và tiền tệ. Nghiêm trị những hành động vi phạm pháp luật kế toán thống
kê.
2/ Định hướng bổ sung, sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước:
Về cơ bản Luật Ngân sách nhà nước ban hành năm 1996 và Luật Sửa đổi
bổ sung một số điều của luật NSNN ban hành năm 1998 vẫn phát huy tác dụng
tốt trong công tác quản lý ngân sách giai đoạn hiện nay cũng như phù hợp cơ bản
với chiến lược tài chính giai đoạn 2001-2010. Vì vậy, trong thời gian tới sẽ
không có sự thay thế Luật hiện hành song phải điều chỉnh lại một số quy định
cho phù hợp với thực tế. Dự kiến năm 2001 sẽ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung
một số quy định của Luật như sau:
1. Sửa đổi quyền quyết định của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước
theo hướng :
- Quốc hội thông qua tổng số thu, chi NSNN cả 4 cấp và chi tiết theo lĩnh
vực.
- Quốc hội quyết định chi tiết dự toán ngân sách trung ương (tổng số thu,
vay nợ và chi tiết ngân sách giao cho các Bộ, cơ quan trung ương, số bổ sung của
NSTW cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Tương tự, HĐND quyết đinh ngân sách cấp mình và thông qua tổng số
ngân sách địa phưuơng chi tiết theo lĩnh vực .
2. Bổ sung thêm các quy định về nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
theo hướng :
- Tách các khoản vay ra khỏi tổng nguồn thu và đưa ra nguyên tắc giới
hạn các khoản vay bù đắp thiếu hụt ngân sách (khống chế vay theo tỷ lệ GDP ,
hoặc theo tỷ lệ trong tổng số chi hoặc giới hạn bằng tổng dư nợ vay trên GDP)
- Mở rộng quyền vay để đầu tư cho ngân sách tỉnh, thành phố với điều
kiện đầu tư có hiệu quả và đảm bảo trả được nợ.
3. Bổ sung các quy định có tính nguyên tắc về :
- Quản lý các quỹ tài chính nhà nước (bao gồm cả dự trữ tài chính nhà
nước về nội tệ, ngoại tệ và hiện vật).
- Quản lý nợ trong nước và nước ngoài.
- Quản lý các khoản vay của Chính phủ để cho vay lại.
- Hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ các đoàn thể (mục tiêu, điều kiện, phương
thức..)
4. Xử lý tình trạng trùng lắp về quyết định ngân sách địa phương theo một
trong hai phương án :
Phương án 1 : Quy định Quốc hội thông qua dự toán ngân sách nhà nước
và quyết định dự toán ngân sách trung ương. Đây là cách xử lý tốt nhất nhưng
cần sửa lại quy định tại điều 84 của Hiến pháp.
Phương án 2 : Quy định Hội đồng nhân dân quyết định dự toán ngân sách
cấp mình sau khi Quốc hội (hoặc Hội đồng nhân dân cấp trên quyết định ngân
sách).
5. Sửa đổi nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm trong lĩnh vực ngân sách
của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân địa phương phù hợp với dự kiến sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
6. Đưa thêm vào luật các quy định về việc lập và quyết định ngân sách
trung hạn và bảo lưu ngân sách theo dự án và theo chương trình mục tiêu từ
niên độ này sang niên độ tiếp theo.
7. Sửa đổi phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp theo
2 phương án :
Một là, nếu vẫn để trong Luật ngân sách thì :
- Tăng thêm nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương.
- Đổi mới cơ chế thưởng ngân sách cho ngân sách địa phương, trong đó
tách riêng cơ chế thưởng đặc thù cho các vùng đặc biệt khó khăn và các vùng
kinh tế trọng điểm.
- Quy định cụ thể về phương pháp tính bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới.
- Phân cấp mạnh hơn việc ra chế độ thu phí, lệ phí, các khoản phụ thu cho
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hai là, tách các quy định cụ thể về phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi
chuyển thành quy định ở văn bản dưới luật để đảm bảo tính ổn định của luật.
8. Cho phép thu chênh lệch giá trong các điều kiện cụ thể.
9. Thực hiện giao ổn định dự toán ngân sách cho một số Bộ, đơn vị dự
toán cấp I (ổn định toàn bộ theo thời kỳ, ổn định một số nhiệm vụ, khoán
lương...).
10. Đổi mới quy trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách theo hướng
lập, duyệt ngân sách sớm hơn (1/3) và theo chế độ chi tiêu (tiêu chuẩn, định
mức) cho phép guiao ngân sách trong quý I năm sau.
- Thực hiện (từng bước) việc cấp ngân sách theo dự toán, tức là sau khi có
dự toán được duyệt, đơn vị rút thẳng tiền từ kho bạc; bỏ chế độ cấp phát của cơ
quan tài chính.
- Thực hiện nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt trong quản lý chi
ngân sách nhà nước.
- Quyết toán ngân sách theo hai cấp độ: theo nhiêm vụ và theo niên độ.
11. Thay hệ thống chỉ tiêungân sách nhằm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
(hệ thống GFS - Government Financial System - của IMF), đảm bảo đồng nhất
giữa chỉ tiêu dự toán, chỉ tiêu cấp phát và chỉ tiêu quyết toán ; sửa đổi mục lục
ngân sách nhà nước.
12. Mở rộng kiểm toán ngân sách theo hướng bắt buộc và chuyển cơ quan
kiểm toán sang trực thuộc Quốc hội.
13. Bổ sung các quy định về cơ chế chi vượt dự toán và ngoài dự toán
ngân sách.
14. Bổ sung các quy định về cơ chế quản lý các quỹ ngoài ngân sách.
Phần thứ sáu
Kiểm toán Nhà nước - công cụ để tăng cường
kỷ luật và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.
Kiểm toán là hoạt động thông thường trong nền kinh tế các nước, song đối
với Việt Nam, đây là một nội dung mới và chỉ thực sự phát huy tác dụng sau khi
Luật ngân sách nhà nước ra đời và đi vào cuộc sống. Nội dung của kiểm toán là
qúa trình kiểm tra các chứng từ, sổ sách kế toán, các bảng cân đối và các báo
cáo kế toán, quyết toán để xác định tính trung thực, đầy đủ, chính xác, hợp pháp
luật của quá trình hoạt động trong thời gian được kiểm toán.
Với nội dung như trên, hoạt động kiểm toán có phạm vi rất rộng và có ý
nghĩa rất lớn trong hoạt động kinh tế của bản thân đơn vị cũng như các cơ quan
quản lý nhà nước. Riêng trong lĩnh vực quản lý ngân sách, do đặc điểm của việc
sử dụng ngân sách là sử dụng công quỹ, tức là tài sản của Nhà nước nên đòi hỏi
phải được kiểm tra một cách hết sức chặt chẽ để đảm bảo thực hiện đúng các quy
trình của pháp luật. Chính vì vai trò đặc biệt đó nên Luật Ngân sách nhà nước
quy định "Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc tổ chức kiểm toán, quyết toán ngân
sách nhà nước trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn".
1. Yêu cầu tất yếu và hoàn cảnh ra đời của kiểm toán nhà nước:
Hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán nhà nước nói riêng
đ∙ trở thành một nhu cầu tất yếu của nền kinh tế chuyển đổi, là sự đòi hỏi khách
quan của cơ chế thị trường trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Để thực hiện được những mục tiêu đ∙ đề ra trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất thì
người quản lý phải biết được quá trình diễn biến của các hoạt động sản xuất từ
đầu vào đến đâù ra và quá trình hạch toán kinh tế có đảm bảo đúng mục đích
không, có đúng phát luật hiện hành của nhà nước không. Đồng thời tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp phát triển năng động , đảm bảo "sân chơi" chung phù hợp
với luật pháp trong nước và thông lệ quốc tế.
Nếu hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán nhà nước nói
riêng được tiến hành một cách thường xuyên và đi vào nề nếp thì sẽ giúp các cơ
quan l∙nh đạo và các nhà quản lý thấy rõ tác dụng của các hoạt động ấy đến mức
nào, có những vấn đề gì cần phải xem xét chấn chỉnh để thực hiện tốt mọi chế độ
chính sách của nhà nước. Rõ ràng, hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước
có vị thế hết sức quan trọng đối với việc quản lý kinh tế không chỉ ở tầm vĩ mô
mà còn ở cả tầm vi mô.
Kiểm toán nhà nước ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước; đáp ứng sự đòi hỏi tất yếu của công cuộc đổi
mới, cải cách hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền. Kiểm toán
nhà nước là một cơ cấu mới trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước thực
hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát tài chính công của quốc gia.
2.Chức năng nhiệm vụ và các hoạt động chủ yếu của Kiểm toán nhà
nước:
Kiểm toán nhà nước có chức năng nhiệm vụ kiểm tra và xác nhận tính
đúng đắn, hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan
Nhà nước, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức x∙ hội
có sử dụng kinh phí do Ngân sách nhà nước cấp.
Bên cạnh nhiệm vụ chính là xây dựng tổ chức bộ máy và thực hiện kế
hoạch kiểm toán hàng năm, kiểm toán nhà nước còn tiến hànhcác công tác chuẩn
bị cho hướng phát triển lâu dài của ngành, như : Nghiên cứu các đề tài khoa học
liên quan đến địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt
động của cơ quan kiểm toán nhà nước, nghiên cứu soạn thảo chuẩn mực và quy
trình kiểm toán...
Các hoạt động chủ yếu của kiểm toán nhà nước:
- Kiểm toán Ngân sách Nhà nước.
- Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước
- Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và dự án chính phủ
- Kiểm toán chương trình đặc biệt
- Kiểm toán nội bộ.
3. Quá trình hình thành của kiểm toán nhà nước:
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP
ngày 11/7/1994 của Chính Phủ. Là cơ quan mới được thành lập đầu tiên của nước
ta, kiểm toán nhà nước đ∙ nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật (đ∙
hình thành các cơ quan kiểm toán tại các khu vực: phía Bắc, phía Nam, Miền
trung, Miền Tây Nam Bộ) , tổ chức bộ máy(từ 5 đầu mối tổ chức ban đầu nay đ∙
phát triển thành 11 đầu mối tổ chức ) và cán bộ( năm 1994 chỉ có 60 người, nay
kiểm toán nhà nước đ∙ có đội ngũ cán bộ là 460 người), tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán nhà nước, bồi dưỡng cán bộ
kiểm toán viên, đồng thời bắt tay ngay vào kiểm toán theo chương trình kế hoạch
kiểm toán hàng năm được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt với phương châm vừa
làm, vừa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cai-canh-hanh-chinh-5_diendandaihoc.vn_07503119122011.pdf