Chuyên đề Đánh giá hiện trạng chất lượng nước cấp và công nghệ xử lý nước của các cụm dân cư vùng nông thôn ven biển và hải đảo Việt Nam

Trang

1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH CẤP NƯỚC VÙNG VEN BIỂN VN. 2

1.1. Lịch sử phát triển cung cấp nước vùng ven biển.2

1.2. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển.3

2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC.10

2.1. Tình trạng hoạt động của các công trình.10

2.2. Hình thức quản lý vận hành các công trình.10

2.3. Chất lượng nước . 12

2.4. Công nghệ xử lý nước 12

TÀI LIỆU THAM KHẢO.16

 

doc17 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2408 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Đánh giá hiện trạng chất lượng nước cấp và công nghệ xử lý nước của các cụm dân cư vùng nông thôn ven biển và hải đảo Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ----------------------------------------------------- HỒ SƠ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHCN ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC Nghiên cứu ứng dụng màng lọc nano trong công nghệ xử lý nước biển áp lực thấp thành nước sinh hoạt cho các vùng ven biển và hải đảo Việt Nam MÃ SỐ: ĐTĐL.2010T/31 BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ----------------------------------------------------- ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHCN ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC Nghiên cứu ứng dụng màng lọc nano trong công nghệ xử lý nước biển áp lực thấp thành nước sinh hoạt cho các vùng ven biển và hải đảo Việt Nam MÃ SỐ: ĐTĐL.2010T/31 Cơ quan chủ trì : TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG Chủ nhiệm đề tài : PGS.TS. TRẦN ĐỨC HẠ Thực hiện chuyên đề : TS. TRẦN THỊ VIỆT NGA ThS. NGUYỄN QUỐC HÒA CHUYÊN ĐỀ ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC CẤP VÀ CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC CỦA CÁC CỤM DÂN CƯ VÙNG NÔNG THÔN VEN BIỂN VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2010 Cơ quan chủ trì : TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG Chủ nhiệm đề tài : PGS.TS. TRẦN ĐỨC HẠ MỤC LỤC Trang 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH CẤP NƯỚC VÙNG VEN BIỂN VN................... 2 1.1. Lịch sử phát triển cung cấp nước vùng ven biển...............................................2 1.2. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển............................3 2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC.....................10 2.1. Tình trạng hoạt động của các công trình............................................................10 2.2. Hình thức quản lý vận hành các công trình........................................................10 2.3. Chất lượng nước…………………………………………………………….…12 2.4. Công nghệ xử lý nước…………………………………………………………12 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................16 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH CẤP NƯỚC VÙNG VEN BIỂN VN. 1.1. Lịch sử phát triển cung cấp nước vùng ven biển: Lịch sử phát triển cung cấp nước vùng ven biển cũng chính là lịch sử phát triển và cung cấp nước vùng nông thôn Việt Nam. Ngay sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Đảng và Chính phủ đã quan tâm đến đề sức khỏe và môi trường sống của nhân dân nói chung và ở nông thôn nói riêng. Từ năm 1960 ngành Y tế đã tuyên truyền vận động mạnh mẽ nhân dân xây dựng 3 công trình Giếng nước – Nhà tắm – Hố xí. Phong trào này nhanh chóng được triển khai trên phạm vi toàn quốc vào ngày sau này đất nước hoàn toàn thống nhất (1975) và đạt được nhiều kết quả to lớn. Hưởng ứng Thập kỷ Quốc tế cấp nước và vệ sinh môi trường của Liên Hợp Quốc 1981-1990, chương trình cung cấp nước sinh hoạt nông thôn được bắt đầu triển khai ở Việt Nam với sự tài trợ giúp mạnh mẽ của Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), chương trình được thực thi ban đầu ở 3 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc vào năm 1993. Mặc dù chương trình đã thực hiện trên 20 năm trên diện tích rộng, đạt được nhiều kết quả nhưng vẫn chưa đạt đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân. Trong thời gian gần đây, lĩnh vực cung cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn nhất là vùng ven biển đang được Chính phủ Việt Nam và nhiều tổ chức quốc tế, quốc gia và phi chính phủ quan tâm. Năm 1994 Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị 200/TTg về đảm bảo nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và đầu năm 1998 quyết định thực hiện chương trình mục tiêu về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2005 (Là 1 trong 7 Chương trình Mục tiêu Quốc gia trên toàn quốc). Vào năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia cấp nước sạch và Vệ sinh nông thôn đến năm 2020 với mục tiêu toàn bộ người dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia và hố xí hợp vệ sinh. Đây là động lực mạnh để đẩy mạnh cấp nước và vệ sinh môi trường ở vùng nông thôn trong đó có các khu vực ven biển. Các tổ chức Quốc tế và các Quốc gia đã và đang dành sự hỗ trợ quý báu cho lĩnh vực này. Nhiều dự án đang được triển khai như Chiến lược cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn (DANIDA - Đan Mạch), dự án phát triển hạ tầng cơ sở nông thôn (ADB – Ngân hàng Châu á), dự án phát triển nguồn nước ngầm cho các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên (JICA - Nhật Bản), dự án phát triển thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long (WB - Ngân hàng Thế giới)... 1.2. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển. - Giai đoạn trước 1980 trước khi triển khai chương trình nước sinh hoạt nông thôn do UNICEF tài trợ: Trong giai đoạn này các công trình cấp nước là các công trình cấp nước cổ truyền như: hồ, lu chứa nước mưa, giếng khơi thu nước ngầm mạch nông, giếng khoan khơi thu nước mặt ven hồ và giếng công cộng... đặc biệt là các công trình được xây dựng từ phong trào “cấp nước và vệ sinh nông thôn” do Bộ y tế phát động từ năm 1962. Trong số các công trình trên chỉ có một số giếng ở các hộ gia đình, hoặc công cộng bên cạnh chùa, nhà thờ có xây thành và bảo quản tốt nên chất lượng nước sạch hợp vệ sinh. Số giếng này chỉ khoảng 2% tổng số giếng cổ truyền quy đổi theo thống kê của Vụ vệ sinh môi trường Bộ y tế – tức khoảng 75.000 giếng phục vụ cấp nước sạch đạt yêu cầu cho 3.870.000 người dân nông thôn. Số giếng cổ truyền còn lại không đạt yêu cầu về chất lượng nước là do: - Chất lượng xây dựng không đúng kỹ thuật, không xây thành bao bọc bảo vệ. - Khi đào giếng gặp phải những mạch nước cứng, nước nhiễm mặn, nhiễm sắt, nước thải hoặc nhiễm bẩn bởi các chất hữu cơ - sản phẩm của nước thải sinh hoạt công nghiệp. Theo thống kê của ngành y tế, hầu hết các giếng khơi mạch nông ở nông thôn đều có chất lượng không đạt tiêu chuẩn. Nguyên nhân của hiện tượng này do các chất thải nông nghiệp và sinh hoạt đều không qua xử lý đã gây ô nhiễm nước bề mặt làm ảnh hưởng đến chất lượng nước tầng nông. b. Giai đoạn từ 1981 – 1994 (trước khi có chỉ thị 200TTg của Thủ tướng chính phủ) Trước ảnh hưởng to lớn của việc cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, hưởng ứng chương trình hành động của Liên hợp quốc về thập niên cung cấp nước uống và vệ sinh môi trường thế giới (1981 – 1990). Năm 1982 Chính phủ Việt Nam đã thành lập ủy ban quốc gia về nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường. Đồng thời Việt Nam chính thức gia nhập Chương trình nước uống và vệ sinh môi trường thế giới và tổ chức gia nhập Chương trình nước uống và vệ sinh thế giới và tổ chức Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) bắt đầu thực hiện trợ giúp chương trình mục tiêu nhân đạo cải thiện tình trạng cấp nước sinh hoạt nông thôn Việt Nam tại khóa 1982 – 1986 với mục tiêu nhân đạo là cải thiện tình trạng cấp đối với một số tiểu vùng thiếu nước trầm trọng. Năm 1982, chương trình đã triển khai các dự án đầu tiên có tính thử nghiệm về mô hình cấp nước với hộ nông dân tại một số vùng kinh tế, mới thuộc ba tỉnh: Minh Hải (Bạc Liêu và Cà Mau ngày nay), Kiên Giang và Long An, nhằm giải quyết khẩn cấp việc cấp nước sạch cho dân tại một số vùng kinh tế mới, đồng thời thăm dò, xác định của phương pháp thi công, các gải pháp kỹ thuật với các điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sau một năm thực hiện với nguồn nước sinh hoạt hoặc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh. Từ kết quả này, năm 1984 được sự thỏa thuận của UNICEF, vùng dự án tiếp tục mở rộng ra 3 tỉnh phía Bắc: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và Hà Nam Ninh (nay là 6 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định và Hà Nam). Trên thực tế việc khoan giếng bằng tay đã tỏ ra thích hợp cho phần lớn vùng nông thôn Việt Nam thời kì này, khẳng định thành công của thời kì đầu tiên khai chương trình nước sinh hoạt nông thôn. Trên cơ sở những mô hình cấp nước có hiệu quả, được sự đồng ý của chính Phủ và chấp thuận của tổ chức UNICEF, chương trình được mở rộng ra nhiều tỉnh. Năm 1987 chương trình được mở rộng ra 7 tỉnh (nay là 13 tỉnh và thành phố): Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Ninh Thuận, Bình Thuận, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh đưa quy mô cấp nước lên 23 tỉnh, thành phố đồng thời vốn tài trợ của UNICEF cho chương trình được tăng nhanh qua mỗi năm. Năm 1990 có thêm 14 tỉnh tham gia chương trình, đó là địa phương: Tiền Giang, An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Gia Lai – Kontum. Từ năm 1987 được sự đồng ý của Chính phủ, ngân sách địa phương đã góp phần hỗ trợ cho hoạt động của Chương trình cấp tỉnh, thành phố, huy động thêm nguồn vốn của người sử dụng đồng thời chủ trương thay thế hàng nhập khẩu, góp phần giảm được giá thành . Những yếu tố này đã làm tăng nhanh số lượng nguồn cấp nước qua các năm, cụ thể nêu trong bảng 1.1: Bảng 1.1: Kết quả thực hiện chương trình SHNT 1978 – 1990 Năm Vốn tài trợ của UNICEF (1000USD) Số nguồn cấp nước (nguồn) Năm 1987 1.125 2.415 Năm 1988 1.180 5.238 Năm 1989 2.175 8.375 Năm 1990 2.321 12.121 Đến hết năm 1990, sau hai tài khóa trợ giúp của UNICEF với tổng kinh phí tài trợ 15,095 triệu USD đã thực hiện được 33.487 giếng trên địa bàn 38 tỉnh, thành phố (tính theo tỉnh mới) đáp ứng cho khoảng 4 triệu nông dân nông thôn có nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt. - Hưởng ứng tinh thần Hội nghị thượng đỉnh thế giới tại Niu Đê Li (tháng 9 năm 1990) và Công ước quốc tế về quyền trẻ em, cuối năm 1991 Chính phủ đã thông qua “Chương trình hành động quốc gia”, trong đó vấn đề cung cấp nước vệ sinh môi trường nông thôn đã được đặt thành một vấn đề cung cấp nước vệ sinh môi trường nông thôn được đặt thành một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. - Trên cơ sở mục tiêu đó, họat đọng của Chương trình cung cấp nước sinh hoạt nông thông tiếp tục được mở rộng. Năm 1991 có 28 tỉnh, thành phố tham gia, năm 1992 có 36 tỉnh và năm 1993 mở rộng tới 53 tỉnh, thành phố trong cả nước (nay là 61 tỉnh, thành phố). Từ năm 1994, ngân sách nhà nước đã hỗ trợ cho hoạt động của chương trình. Qua 4 năm thực hiện đã tổ chức lắp đặt và đưa vào sử dụng đảm bảo cung cấp nước sạch hợp vệ sinh với kinh phí gần 8,99 triệu USD và 119,46 tỷ đồng. Bảng 1.2: Kết quả thực hiện chương trình nước SHNT 1991 – 1994 Năm Số nguồn cấp nước Nguồn vốn UNICEF (USD) Nhà nước hỗ trợ (VNĐ) 1991 16.580 1.839.454 400.000.000 1992 13.410 1.361.198 200.000.000 1993 27.250 3.288.925 3.460.000.000 1994 30.750 2.497.769 15.400.000.000 Nhìn chung trong giai đoạn này, chương trình nước sinh hoạt vệ sinh nông thôn chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận viện trợ UNICEF chuyển về các tỉnh, huyện và xã với mục tiêu giúp đỡ người nghèo, trẻ em và phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi khó khăn bằng công nghệ cấp nước sinh hoạt truyền thống và đơn giản, chủ yếu là giếng khoan đường kính nhỏ lắp bơm áp dụng cho các vùng đồng bằng có nguồn nước ngầm: bể nước là lu chứa nước mưa, nước tự chảy cho vùng núi cao, núi đá vôi hoặc vùng nước nhiều phèn, nhiễm mặn. Công nghệ xử lý nước cũng rất đơn giản, chủ yếu là các phương pháp lọc cổ truyền như lọc chậm, lọc bằng cát. Việc mở rộng Chương trình trên địa bàn cả nước với các khu vực địa hình lãnh thổ khác nhau, giải pháp cấp nước bằng giếng khoan lắp bơm tay VN6 đã không còn thích hợp với các vùng không có nguồn nước ngầm hoặc nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn, vùng núi cao... Để mở rộng phạm vi này, chương trình đã chủ trương đa dạng hóa loại hình cấp nước phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng như: + Giếng khoan, đào giếng khơi lắp bơm tay, cải tạo giếng làng phục vụ cho một số hộ hoặc nhóm gia đình. + Xây dựng hệ thống cấp nước tập trung với 2 loại hình chính: + Hệ thống dẫn nước chảy: Đây là giải pháp cấp nước tập trung với nguồn nước mạch lộ của nước ngầm, hoặc suối ở vị trí cao hơn khu vực sử dụng nước. Nước được thu lại bằng hồ thu nước, làm sạch bằng các công trình xử lý (chủ yếu là dùng bể lọc chậm) và được dẫn bằng hệ thống kín nước phục vụ cho cụm dân cư hoặc có thể đưa đến tận hộ gia đình, loại hình phù hợp với vùng cao, vùng núi. * Hệ thống cấp nước sử dụng bơm dẫn: Là giải pháp cấp nước tập trung với nguồn nước ngầm hoặc nước mặt (như một nhà máy nước nhỏ cùng cấp nước cho hàng ngàn người). Nước sau khi xử lý được bơm lên tháp nước tạo áp lực hoặc bơm đẩy đi đến từng bể chứa hoặc từng hộ gia đình qua đồng hồ để thu tiền nước. Loại hình phù hợp với vùng đồng bằng đông dân cư. Các công nghệ cấp nước trên phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh tự nhiên tại các vùng nông thôn Việt Nam, nên đã được nhân dân tiếp thu và nhận rộng ở nhiều nơi. Từ năm 1982 – 1993, tổng kinh phí đầu tư cho cấp nước sinh hoạt nông thôn đạt 435 tỷ đồng Việt Nam, trong đó UNICEF viện trợ trên 260 tỷ đồng (chiếm 60%), ngân sách địa phương, người hưởng lợi tự đóng góp bằng tiền mặt, vật tư hoặc bằng công lao động ước tính khoảng 175 tỷ đồng (chiếm 40%) đã xây dựng trên 70.000 nguồn nước cấp cho gần 10 triệu người. - Giai đoạn từ năm 1995 đến nay: Năm 1994 Thủ tướng chính phủ đã có Chỉ thị 200/TTg về đảm bảo nước sạch – vệ sinh – môi trường nông thôn, năm 1998 Chính phủ đã quyết định Chương trình nước sạch vệ sinh môi trường là một trong bảy Chương trình mục tiêu Quốc gia và bàn giao cho Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý với mục tiêu đến năm 2005 đảm bảo 80% dân số nông thôn (khoảng hơn 60 triệu người) được sử dụng nước sạch, 50% hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, 30% số chuồng trại chăn nuôi và 10% số làng nghề có hệ thống xử lý chất thải. Từ khi trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, vấn đề cấp nước nông thôn càng được nhiều cơ quan đoàn thể, các ngành, các cấp quan tâm và giải quyết. Nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước tăng nhanh qua các năm, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế ngày càng nhiều và nhất là sự đóng góp và tự xây dựng công trình cấp nước của chính người dân ngày càng lớn. Chính vì thế tỷ lệ số dân nông thôn được cấp nước sạch tăng rất nhanh, tính đến năm 2003 đã lên tới 54%. Nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước tăng dần từ 1999 đến 2003 như trong bảng 1.3 Bảng 1.3: Nguồn vốn chương trình nước SHNT 1999 – 2003 Năm Nguồn vốn UNICEF (USD) Trung ương hỗ trợ (VNĐ) 1999 1.234.780 59.400.000.000 2000 1.123.520 102.000.000.000 2001 1.454.870 162.000.000.000 2002 1.875.650 215.000.000.000 2003 1.332.250 236.000.000.000 Công nghệ cấp nước trong giai đoạn này chủ yếu là xây dựng các hệ thống cấp nước tập trung (tự chảy hoặc bơm dẫn) với công xuất từ 5 – 50m3/h. Ngoài ra cũng sử dụng nguồn nước từ các giếng khoan nhỏ đã có để xây dựng công trình nối mạng. Hệ cấp nước tập trung nhỏ (nối mạng) là loại hình tận dụng giếng khoan đường kính nhỏ, giếng đào, thay bơm tay bằng lắp bơm điện đưa lên tháp nước có thể tích nhỏ, độ cao từ (5 – 7m), dùng đường ống dẫn đến hộ gia đình, có lắp đồng hồ đo nước phục vụ khoảng (50 – 100) hộ gia đình. Loại hình này phù hợp với vùng dân cư ở tập trung như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Duyên Hải miền Trung. Những trường hợp hộ gia đình sống nhỏ lẻ không tập trung thì cấp bằng các thông tin cấp nước nhỏ lẻ như giếng đào, bể lọc chậm, lu chứa nước mưa... Chi tiết tình hình cấp nước nông thôn ven biển toàn quốc được thể hiện ở bảng 1.4. Bảng 1.4. Tổng hợp tình hình cấp nước nông thôn ven biển toàn quốc STT Các vùng Dân số nông thôn (người) Hệ cấp nước tập trung Giếng khoan Giếng đào Bể/lu nước mưa Loại khác Tổng số dân được hưởng nước sạch Tỷ lệ % số dân được hưởng nước sạch Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Toàn quốc 63.958.400 13.907.696 21,7 6.927.500 10,8 8,640.438 13,5 2.796.176 4,4 2.442.410 3,8 34.713.770 54,3 1 ĐB Sông Hồng 14.743.500 3.716.580 25,2 2.168.310 14.7 1.778.730 12,1 260.110 1,8 556.170 3,8 8.479.900 57,5 2 Bắc Trung Bộ 9.420.000 1.537.526 16,3 1.376.310 14,6 1.414.088 15,0 275.186 2,9 293.150 3,1 4.896.260 52,0 3 D Hải Miền Trung 6.852.100 1.82.030 17,3 553.680 8,1 1.360.560 19,9 136.860 20,0 192.600 2,8 3.452.730 50,0 4 Đông Nam Bộ 4.806.600 82.890 18,6 871.520 18,1 903.040 18,8 80.900 1,7 174.730 3,6 2.923.080 60,8 5 ĐB Sông Cửu Long 15.213.800 4.458.750 29,3 1.785.450 11,7 233.020 1,5 1.725.910 11,3 533.3,5 3,5 8.736.530 57,4 2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CÁC CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC. 2.1. Tình trạng hoạt động của các công trình Phát triển công trình cấp nước tập trung quy mô thôn, xã, cụm xã hiện nay đang được nhiều địa phương áp dụng và phát triển, nhất là ở những vùng người dân vùng ven biển sống tập trung có thu nhập tương đối ổn định. Người dân đã nhận thức được rằng mặc dù công trình cấp nước tập trung đòi hỏi đầu tư lớn, nhưng chúng có nhiều ưu điểm như hiệu quả kinh tế cao, có chất lượng nước đảm bảo, nước được đưa đến từng hộ gia đình, chi phí sử dụng nước được thanh toán qua đồng hồ theo giá được duyệt của cấp có thẩm quyền, tuổi thọ công trình cao. Tuy nhiên tình trạng hoạt động của các công trình cấp nước tập trung còn có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm xem xét và khắc phục. Theo số liệu điều tra của Văn phòng Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch VSMT nông thôn và báo cáo của Trung tâm nước sạch và VSMT nông thôn các tỉnh, thành phố thì chỉ có khoảng 85% hệ thống cấp nước tập trung hoạt động bình thường, còn lại 15% không hoạt động được. Ở các công trình đang hoạt động cũng chỉ có khoảng 60% các công trình xử lý hoặc không hoạt động hoặc chất lượng xử lý rất kém. Có rất ít công trình hoạt động đúng 100% công suất, thường chỉ hoạt động 40% - 50% thậm chí có những công trình chỉ hoạt động 20% công suất. Nguyên nhân chủ yếu để các công trình xử lý trong hệ thống cấp nước tập trung hỏng hoặc xuống cấp là do chế độ vận hành và bảo dưỡng công trình không đúng theo quy định và trình độ của người quản lý còn thấp không phù hợp. 2.2. Hình thức quản lý vận hành các công trình: Việc quản lý các công trình cấp nước tập trung hiện nay vẫn còn nhiều bất cập và lúng túng, chưa có một mô hình quản lý, vận hành thống nhất cho các địa phương trong cả nước. Tuỳ thuộc vào nguồn vốn đầu tư mà chủ sở hữu các công trình ở các địa phương đưa ra mô hình quản lý vận hành khác nhau. Có thể tổng hợp được các mô hình quản lý vận hành hiện đang được triển khai ở các địa phương như sau: - Mô hình quản lý, vận hành do các công trình cấp nước tỉnh (hoặc xí nghiệp cấp nước hoặc công ty điện nước tỉnh) quản lý, loại mô hình này phổ biến ở khu vực miền Trung và Nam bộ. - Mô hình quản lý vận hành do các ban quản lý trực thuộc UBND huyện, thị trấn đảm nhiệm. Loại mô hình này phổ biến ở khu vực phía bắc (Nghệ An, Hà Tĩnh, Nam Định). - Mô hình hợp tác xã cấp nước và vệ sinh môi trường quản lý, vận hành như tỉnh Nam Định (9 công trình), Tiền Giang (20 công trình). - Mô hình do Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh đảm nhận. Loại mô hình này chủ yếu áp dụng cho các công trình có vốn đầu tư của Nhà nước và vốn tài trợ quốc tế như tại Vĩnh Long, Kiên Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu... Tuy nhiên cũng có địa phương các công trình cấp nước tập trung quy mô trung tâm cụm xã được xây dựng bằng nguồn vốn địa phương, nhưng việc quản lý, vận hành đều do trung tâm nước sinh hoạt và VSMT nông thôn đảm nhiệm như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. - Mô hình tư nhân quản lý, vận hành: Loại mô hình này phổ biến ở các tỉnh phía Nam. Các công trình cấp nước đều do tư nhân bỏ vốn xây dựng và quản lý như ở Vĩnh Long có khoảng 20-30 công trình cấp nước tập trung do tư nhân đầu tư xây dựng, tổ chức quản lý, vận hành. Tại Tiền Giang có 25 công trình do doanh nghiệp tư nhân quản lý, và có trên 230 công trình do nhóm tổ hợp tác thành lập để quản lý cho từng nhóm hộ. Trong các mô hình quản lý trên chỉ có mô hình do các công ty cấp nước hoặc Trung tâm nước SH và VSMT nông thôn quản lý thì các cán bộ quản lý có chuyên môn và được đào tạo cơ bản. Còn các mô hình quản lý khác thì các cán bộ quản lý đều không có trình độ chuyên môn và chỉ được tập huấn sơ qua. 2.3. Chất lượng nước: Hầu như các hệ thống cấp nước tập trung đang hoạt động cung cấp nước cho nhân dân không được kiểm tra chất lượng nước thường xuyên mà chỉ phân tích chất lượng khi công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng. Theo báo cáo của các địa phương và trên cơ sở tổng hợp của Văn phòng Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và VSMT nông thôn, thì đến hết năm 2003 có 54,3% dân số ven biển Việt Nam được hưởng nước sạch. Tuy nhiên, chất lượng nước đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia (Tiêu chuẩn 1329 của Bộ Y tế) chỉ đạt dưới 20%. Kết quả kiểm tra chất lượng nước sạch của một số địa phương: * Tỉnh Nam Định: + Số mẫu đạt tiêu chuẩn về phương tiện hoá lý trên tổng số mẫu được phân tích bằng 1/17 mẫu, đạt tỷ lệ 5,88%. + Số mẫu đạt tiêu chuẩn về phương diện vi sinh trên tổng số mẫu được phân tích bằng 1/9 mẫu, đạt tỷ lệ 29,03%. * Tỉnh Thanh Hoá: + Dân cư các vùng ven biển được hưởng nước hợp vệ sinh là 59%, trong đó mới chỉ 25% đạt tiêu chuẩn quốc gia. * Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu: + Dân cư các vùng ven biển được hưởng nước hợp vệ sinh là 86%, trong đó mới chỉ khoảng 30% đạt tiêu chuẩn quốc gia. Hiện nay mới chỉ có các tỉnh như Nam Định, Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu đã có các trang thiết bị kiểm tra, nhưng còn rất đơn giản chỉ kiểm tra được chỉ số tiêu chuẩn: Độ Màu, pH, NO2, NO3, độ đục, mùi vị, Fe, Mn... 2.4. Công nghệ xử lý nước Thực tế hiện nay công nghệ xử lý cấp nước sinh hoạt cho các vùng ven biển rất đa dạng, từ công nghệ xử lý đơn giản cho các công trình cấp nước nhỏ lẻ đến các công nghệ xử lý hiện đại cho các hệ thống cấp nước tập trung quy mô lớn. Các công nghệ xử lý thường áp dụng bao gồm: - Xử lý nước mặt bằng phương pháp đánh phèn (ở vùng ven biển đồng bằng sông Cửu long). Phương pháp này chỉ có tác dụng làm trong nước, các chỉ tiêu hoá học hoặc vi sinh không xử lý được do vậy chất lượng nước rất kém. - Xử lý nước mặt bằng công nghệ giếng thấm (áp dụng cho hộ hoặc nhóm hộ gia đình). - Xử lý nước mặt bằng bể lọc chậm cho cụm dân cư nhỏ * Một số dây chuyền công nghệ xử lý nước tập trung: - Dây chuyền công nghệ xử lý nước mặt bằng bể lọc chậm Nguồn nước Bể lọc chậm Bể chứa nước sạch Mạng phân phối - Dây chuyển công nghệ xử lý nước mặt. TB cấp I Nguồn nước Tháp hoà trộn Bể lọc nổi Phèn Khử trùng TB cấp II BCNS Bể lọc cát Đã được xây dựng tại các tỉnh như Nam Định, Bình Dương... - Dây chuyền công nghệ xử lý nước ngầm. TB giếng Giếng khoan Làm thoáng Bể lắng đứng Khử trùng Mạng lưới đường ống Trạm bơm cấp II BCNS Bể lọc nhanh Được xây dựng tại vùng ven biển các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. - Dây chuyền công nghệ xử lý nước ngầm sử dụng Katox. TB giếng Giếng khoan Thiết bị trộn khí - nước Khử trùng Mạng lưới đường ống Trạm bơm cấp II BCNS Thiết bị lọc Thiết bị hấp phụ Đã được xây dựng ở Nam Định và một số tỉnh miền Nam. - Dây chuyền công nghệ xử lý nước ngầm. TB giếng Giếng khoan Tháp làm thoáng cao tải Khử trùng Mạng lưới đường ống Trạm bơm cấp II BCNS Bể lọc cát Bể lọc cát Xây dựng tại một số địa phương có hàm lượng sắt trong nước ngầm thấp như Nghĩa Hưng - Nam Định, Cần Thơ, Sóc Trăng... - Dây chuyền công nghệ xử lý nước mặt sử dụng bể lọc tự rửa. Suối Hồ chứa Bể lọc tự rửa Bể chứa Mạng tiêu thụ Dây chuyền xử lý này đã được xây dựng và sử dụng tại bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ NN&PTNT (1998), Chương trình MTQG về Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 1998 2005. Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT (2000) , Chiến lược Quốc gia về cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn đến 2020. Chính phủ (1998), Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg ngày 3/12/1998 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn (2000), Qui hoạch tổng thể cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Việt nam đến năm 2010. Văn phòng Thường trực Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn (2002) , Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 5 năm (1999-2003)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá hiện trạng chất lượng nước cấp và công nghệ xử lý nước của các cụm dân cư vùng nông thôn ven biển và hải đảo việt nam.doc
Tài liệu liên quan