MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu chuyên đề 3
LỜI CẢM ƠN 4
LỜI CAM ĐOAN 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TRONG SẢN XUẤT RAU 6
1.1. Tổng quan về sử dụng nước thải trong sản xuất rau 6
1.1.1. Tình hình các nguồn nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp 6
1.1.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp 11
1.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau 15
1.2.1. Khái niệm hiệu quả 15
1.2.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả 15
1.2.3. Một số phương pháp đánh giá chi phí, lợi ích sử dụng trong đánh giá hiệu quả 17
1.2.4. Tác động của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau 20
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TỪ SÔNG TÔ LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B, HOÀNG LIỆT, HOÀNG MAI 25
2.1. Khái quát về sông Tô Lịch 25
2.1.1. Vị trí địa lí 25
2.1.2. Tình trạng ô nhiễm 26
2.1.3. Chất lượng nước tưới cho cây rau 27
2.2. Tình hình sử dụng nước thải từ sông Tô Lịch trong sản xuất rau tại thôn Bằng B 28
2.2.1. Khái quát về thôn Bằng B 28
2.2.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất rau 32
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TỪ SÔNG TÔ LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B 36
3.1. Hiệu quả về tài chính 36
3.1.1. Xác định các chi phí 36
_Toc2291025723.1.2. Xác định lợi ích 42
3.1.3. Tính toán hiệu quả tài chính 43
3.2. Hiệu quả kinh tế 43
3.2.1. Xác định chi phí 43
3.2.2. Xác định lợi ích 47
3.2.3. Tính toán hiệu quả kinh tế 47
Kết luận và kiến nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
PHỤ LỤC
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1878 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hiệu quả của việc dử sụng nước thải trong sản xuất rau tại thôn Bằng B, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t rau an toàn, còn lại hầu hết là giếng khoan nhỏ hoặc dùng nước sông. Trong khi hầu hết các con sông ở Hà Nội đều bị ô nhiễm, thì việc sử dụng nước thải đô thị cho nông nghiệp trở nên phổ biến. Nước thải đã và đang được sử dụng để trồng lúa, rau, và nuôi cá ở vùng ngoại thành Hà Nội, đặc biệt là vùng Thanh Trì (phía Nam TP. Hà Nội). Hầu hết các cánh đồng lúa, rau nằm dọc hai bên bờ 4 con sông nêu trên ở quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì đều được tưới bằng nước thải đô thị.
Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì được thống kê trong bảng sau:
Quận/huyện
Diện tích trồng lúa (ha)
Diện tích trồng rau (ha)
Hoàng Mai
1284
264
Thanh Trì
3939
1116
Bảng 1.1. Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội 2005
Ước tính khoảng 60% diện tích trồng rau và lúa của quận Hoàng Mai và của huyện Thanh Trì được tưới bằng nước thải đô thị từ 4 con sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét và các hồ chứa nước mưa và nước thải như hồ Yên Sở, hồ Linh Đàm... Ngoài 4 con sông nêu trên cần phải kể đến sông Nhuệ là nguồn cung cấp nước tưới cho trồng lúa, trồng rau vùng Từ Liêm, Thanh Trì. Sông Nhuệ là con sông nối với sông Hồng tại cửa Liên Mạc và nhận nước thải từ các khu dân cư, nhà máy xí nghiệp nằm dọc 2 bên bờ sông.
1.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả được hiểu là mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Ở đây, chúng ta đề cập đến hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế thường bị nhầm lẫn với khái niệm hiệu quả tài chính. Việc phân biệt hiệu quả tài chính hay hiệu quả kinh tế là tuỳ theo phạm vi xem xét là của cá nhân hay cả xã hội. Hiệu quả tài chính được phân tích trên quan điểm lợi ích cá nhân; chỉ tính toán những lời lãi thông thường trong phạm vi tài chính. Hiệu quả kinh tế thì được phân tích trên lợi ích của toàn xã hội để xem xét sự phát triển chung của xã hội như mức tăng trưởng, sự công bằng xã hội, sự phát triển cộng đồng, vấn đề môi trường… Hay nói cách khác, trên quan điểm toàn diện, hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên cả ba khía cạnh: tài chính, xã hội và môi trường.
1.2.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả
Phương pháp phân tích tài chính
Phân tích tài chính là quá trinh tính toán các lợi ích, chi phí trên góc độ hạch toán kinh tế của cá nhân. Trên cơ sở đó xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của phương án hoạt động.
Đối với một hoạt động chưa thực hiện, phân tích tài chính cung cấp thông tin cần thiết giúp người đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không. Vì mục tiêu của cá nhân, tổ chức là lợi nhuận, một phương án chỉ được lựa chọn khi mang lại lợi nhuận thích đáng. Ngay cả các tổ chức phi lợi nhuận thì phân tích tài chính vẫn là một khía cạnh rất được quan tâm, các tổ chức này cũng mong muốn chọn được những phương án có chi phí tài chính rẻ nhất mà vẫn đạt được mục tiêu của mình. Còn đối với một hoạt động đã được thực hiện, phân tích tài chính giúp hạch toán lại những lợi ích, chi phí, và đánh giá lời lãi của hoạt động, nhằm cung cấp thông tin về hiệu quả tài chính của hoạt động.
Phân tích tài chính có thể hiểu đơn giản là đi so sánh lợi ích thu được và chi phí bỏ ra được lượng hóa bằng tiền tệ đứng trên quan điểm cá nhân. Nếu lợi ích thu được lớn hơn chi phí bỏ ra thì hoạt động được coi là mang lại hiệu quả tài chính.
Sản xuất rau sử dụng nước thải để tưới mang lại những lợi ích và chi phí sau:
Lợi ích: Thu nhập cho nông dân
Chi phí:
+ Các chi phí trực tiếp (chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất, cấu thành nên giá): phân bón; thuốc BVTV; các công cụ hỗ trợ; lao động; phí thủy lợi.
+ Chi phí gián tiếp (các chi phí nảy sinh trong quá trình sản xuất, nhưng không được tính vào chi phí để cấu thành nên giá): chi phí đối với sức khỏe của người nông dân.
Phương pháp phân tích kinh tế
Phân tích kinh tế là việc so sánh, đánh giá một cách hệ thống giữa chi phí và lợi ích của dự án trên quan điểm toàn bộ xã hội. Trên góc độ cá nhân, thì lợi nhuận là thước đo chủ yếu quyết định hành động. Còn đứng trên quan điểm lợi ích xã hội, việc gia tăng phúc lợi của toàn xã hội sẽ được quan tâm hơn. Lợi ích của hoạt động trên góc độ kinh tế là lợi ích có tính cộng đồng và đôi khi có thể mâu thuẫn với lợi ích cá nhân. Một hoạt động mang lại lợi ích cho toàn xã hội lớn hơn chi phí mà xã hội bỏ ra thì đạt hiệu quả kinh tế.
Sản xuất rau sử dụng nước thải xét trên quan điểm toàn xã hội mang lại những lợi ích và chi phí sau:
Lợi ích:
+ Thu nhập cho nông dân
+ Các lợi ích xã hội, môi trường:
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động
- Đảm bảo an ninh lương thực
- Tái sử dụng nước thải, từ đó tiết kiệm tài nguyên
- Tạo cảnh quan sinh thái lành mạnh.
Chi phí:
+ Các chi phí trực tiếp và gián tiếp như trong phân tích tài chính
+ Các chi phí xã hội và môi trường
- Chi phí đối với người tiêu dùng (thiệt hại về sức khỏe và tinh thần)
- Ô nhiễm đất, nước, không khí.
Phân tích tài chính và phân tích kinh tế không tách rời nhau mà hỗ trợ cho nhau. Về nguyên tắc, phân tích tài chính phải tiến hành trước làm cơ sở cho phân tích kinh tế.
1.2.3. Một số phương pháp đánh giá chi phí, lợi ích sử dụng trong đánh giá hiệu quả
Sau đây là một số phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích được hai tác giả Barry Field và Nancy Olewiler trình bày trong “Environmental Economics”:
Phương pháp đánh giá
Ứng dụng
Phương pháp dùng giá thị trường
Thay đổi năng suất
Chi phí chăm sóc sức khỏe
Thiệt hại vốn nhân lực
Chi phí thay thế/phục hồi thiệt hại tài sản, kinh doanh
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe, nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe
- Thiệt hại do ô nhiễm gây ra cho cơ sở vật chất, hệ sinh thái
Phương pháp không dùng giá thị trường
Chi tiêu bảo vệ/giảm thiệt hại
Đánh giá hưởng thụ
Thị trường đại diện (chi phí du hành)
Đánh giá ngẫu nhiên
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến con người, các ngành công nghiệp, hệ sinh thái
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến giá trị tài sản, sức khỏe
- Lợi ich giải trí
- Chất lượng môi trường hiện tại và tương lai
Bảng 1.2. Các phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích
Nguồn: Barry Field và Nancy Olewiler
Trong phạm vi nội dung chuyên đề, xin được đi vào phân tích một số phương pháp sau:
Chi phí chăm sóc sức khỏe:
Tất cả các dạng ô nhiễm đều có ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe. Có rất nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe con người ngoài yếu tố ô nhiễm môi trường như tình trạng vệ sinh, ăn uống, tuổi tác… Vì thế, phải đưa tất cả các biến số vào mô hình tính toán rồi tách biệt ra tác động của ô nhiễm. Thủ tục đánh giá thiệt hại sức khỏe:
- Xem xét năng suất lao động giảm cùng với sức khỏe giảm và cuộc sống bị rút ngắn làm giảm vốn nhân lực.
- Chi tiêu chăm sóc sức khỏe gia tăng.
Phương pháp đánh giá dùng giá thị trường không hoàn toàn đánh giá được hết các thiệt hại, luôn ở dưới giá trị thực. Ví dụ phương pháp ước lượng thiệt hại sức khỏe chỉ tính thông qua giảm năng suất và chi phí y tế, nó không tính đến các chi phí khác như: những đóng góp phi thị trường mà một người khỏe mạnh tạo ra cho người thân, bạn bè họ; hoặc sự khó chịu khi mắc các bệnh… Như vậy, chi phí thực có thể cao hơn trong nhiều tình huống. Và các phương pháp không dùng giá cả được sử dụng nhằm tính được các chi phí đó, một trong số đó là phương pháp đánh giá ngẫu nhiên.
Đánh giá ngẫu nhiên:
Là phương pháp đánh giá chất lượng môi trường bằng cách phỏng vấn trực tiếp người dân một cách ngẫu nhiên về giá sẵn lòng trả của họ cho hàng hóa môi trường. Trên cơ sở các phiếu đánh giá, sử dụng các phương pháp thống kê để ước lượng giá trị chất lượng môi trường ở khu vực cần đánh giá.
Bảng phỏng vấn của CVM được thiết kế để người được phỏng vấn nghĩ về các đặc điểm môi trường và lựa chọn sẵn lòng chi trả (WTP)/sẵn lòng chấp nhận (WTA) cho các đặc điểm môi trường đó. Bảng phỏng vấn bao gồm các nội dung: mô tả các đặc điểm môi trường cần đánh giá; các câu hỏi về thông tin cá nhân của người được phỏng vấn (thu nhập, nơi sinh sống, tuổi tác, …); các câu hỏi về WTP/WTA của người được phỏng vấn.
Hạn chế của CVM
- Lệch giá trị:
Người trả lời có thể không biết hoàn toàn về sự ưa thích của mình, cũng như không có ý tưởng gì về giá sẽ trả cho hàng hoá môi trường - loại hàng hóa có thể họ chưa một lần trả giá. Hoặc giả định họ biết về sự ưa thích của mình, nhưng có thể họ sẽ nói ít đi WTP nếu họ đoán rằng câu trả lời của mình được sử dụng để lập nên mức giá cho hàng hoá môi trường này. Theo kinh nghiệm, số tiền mà họ nói sẵn lòng trả chỉ bằng khoảng 70-90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự trả.
- Sự khác biệt giữa WTP và WTA: Dù cùng một người hỏi, nhưng kết quả WTP và WTA là khác nhau. WTA thường cao hơn WTP rất nhiều. Có thể là do cá nhân cảm giác được “chi phí của việc mất mát” (WTA) mạnh mẽ hơn là “lợi ích của việc đạt được” (WTP). Hay có ý kiến cho rằng WTA không bị giới hạn bởi thu nhập như WTP nên WTA sẽ cao hơn WTP. Nếu trong thực tế, hai cách đo lường này khác nhau thì các quy định chính sách phải có đề cập đến WTP và WTA.
- Thiên lệch về điểm khởi đầu: Việc lựa chọn mức tiền ban đầu có ảnh hưởng đến WTP sau cùng của người được hỏi., với WTP ban đầu cao thì có thể cho kết quả WTP sau cùng cao hơn.
1.2.4. Tác động của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Trước nhất, việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau mang lại lợi ích chung như lợi ích của tất cả các hoạt động nông nghiệp: đảm nhận chức năng bảo đảm nhu cầu lương thực thực phẩm; tạo ra thu nhập và công ăn việc làm cho người nông dân; là nền tảng cho sự phát triển của các nền văn hóa - xã hội khác nhau; đóng góp vào sự tái tạo và hạn chế sự suy thoái của môi trường (nếu được đầu tư đúng hướng và sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường), góp phần vào phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Ngoài ra, hoạt động này còn có những tác động điển hình khác. Sau đây, chúng ta sẽ đi xét tác động của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau cho từng đối tượng liên quan:
Đối với người sản xuất
Nước thải vốn chứa nhiều chất dinh dưỡng như Nitơ, Photpho, Kali. Vì thế, nông dân có thể tận dụng nguồn dinh dưỡng này, không cần bón nhiều phân bón mà cây vẫn rất phát triển. Nhất là trong điều kiện giá phân bón ngày càng tăng lên một cách chóng mặt như hiện nay thì sử dụng nước thải thực sự giúp người dân giảm đi gánh nặng về phân bón rất nhiều.
Tuy nhiên, nước thải đô thị chứa nhiều hóa chất độc hại, các loại khuẩn gây bệnh, trứng giun… gây ra các bệnh về da, hô hấp, các bệnh đường ruột khi người sản xuất thường xuyên tiếp xúc nước thải mà không có các biện pháp giảm thiểu tác động.
Đối với người tiêu dùng:
Việt Nam là một nước đang phát triển, thu nhập người dân còn thấp, kể cả những người sống tại các đô thị lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh, …Mặc dù người dân bắt đầu có những nhận thức về rau an toàn, nhưng thu nhập thấp đã hạn chế người dân tiếp cận các sản phẩm đó, cộng với việc các cơ sở sản xuất rau sạch chưa nhiều, phần vì thiếu vốn, phần vì thiếu kiến thức kĩ thuật, thiếu thị trường, dẫn đến tiêu thụ các loại rau không an toàn – giá rẻ vẫn rất phổ biến. Hay nói cách khác, sản xuất rau sử dụng nước thải vẫn góp phần thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cho một số lượng lớn những người dân tại thành phố.
Dĩ nhiên, sử dụng các loại rau tưới bằng nước thải sẽ gây ra nguy cơ cao đối với sức khỏe của người tiêu dùng. Việc khảo sát nước tưới tại một số xã ngoại thành Hà Nội, lấy mẫu nước ở đầu nguồn - sông Tô lịch, kênh dẫn, hồ cá, vườn rau của dự án “Đơn bào đường ruột ở Việt Nam - Các khía cạnh vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe con người”, giai đoạn 2004-2007 do Việt Nam và Đan Mạch hợp tác đã chứng tỏ rằng: Ở tất cả các mẫu đều chứa vi khuẩn do nhiễm phân E.coli với mật độ trung bình 10 ngàn đến 100 ngàn khuẩn trong 100 millilit, vượt giới hạn cho phép của WHO là dưới 1 ngàn khuẩn trong 100 ml đối với nước thải dùng trong chăn nuôi và trồng trọt. Với trứng giun, kết quả khảo sát là có từ 10 – 100 trứng trong 1 lít, trong lúc quy định của WHO là không được quá 1 trứng trong 1 lít. Vì thế, người tiêu dùng có thể mắc các bệnh về đường ruột nếu không rửa sạch, nấu chín rau trước khi ăn. Kết quả khám sức khỏe 110 người dân của phường Hoàng Liệt của nhóm tác giả của Trường Đại học Y Hà Nội (1996) cho thấy số người có 1-1.000 trứng giun/1gam phân chiếm 21,81%; 1.000-10.000 trứng giun/1gam phân chiếm tỷ lệ cao nhất (62,72%) và trên 10.000 trứng giun/gam phân là 15,45%.
Rau sử dụng nước thải còn có thể bị nhiễm kim loại nặng. Một số kim loại nặng với hàm lượng thích hợp sẽ có lợi cho cơ thể nhưng nếu vượt quá mức cho phép sẽ gây ngộ độc. Ngoài ra, một số kim loại khác xâm nhập vào cơ thể ảnh hưởng đến thần kinh, tóc, răng, da và có thể gây ung thư.
Có thể khái quát cách thức tác động của việc sử dụng nước thải đô thị trong sản xuất rau tới những người dân đô thị theo sơ đồ sau:
Đô thị
Nước thải
Tưới rau
Sản phẩm
Bán buôn, bán lẻ (tại ruộng, chợ)
Hình 1.2. Nước thải đô thị trong tương tác nông thôn - đô thị
Nguồn: VESDI
Đối với môi trường
Dùng nước thải cho nông nghiệp, nhìn ở khía cạnh khác, còn có thể được coi là việc tái sử dụng nước thải thay cho các cơ sở sản xuất, cơ sở y tế và các hộ gia đình. Giảm được một khối lượng nước thải nhất định thải ra môi trường, từ đó giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường ở một nơi khác. Hơn nữa, tái sử dụng nước thải tức là không cần nguồn nước mới, việc đó làm giảm gánh nặng về cung cấp nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng vì nông nghiệp được đánh giá là ngành sử dụng nhiều nước nhất trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sử dụng nước thải làm lan rộng ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm đất và không khí. Các chất kim loại nặng có thể tích lũy trong đất làm giảm năng suất một số loại cây trồng. Sự di chuyển của nước thải tại khu vực sản xuất được thể hiện trong sơ đồ sau:
Nước thải
Vào cây rau
Đất trũng
Đất trồng lúa, rau
Nước ngầm
Thấm xuống đất
Bốc hơi, rò rỉ
Hình 1.3. Sự di chuyển của nước thải đô thị tại khu vực sản xuất nông nghiệp (thôn Bằng B)
Nguồn: VESDI
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TỪ SÔNG TÔ LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B, HOÀNG LIỆT, HOÀNG MAI
2.1. Khái quát về sông Tô Lịch
Hình 2.1. Bản đồ vị trí các thôn của phường Hoàng Liệt, Hoàng mai
2.1.1. Vị trí địa lí
Vị trí bắt đầu của sông có thể được xem là từ cống Phan Đình Phùng (quận Ba Đình), chạy dọc đường Bưởi, đường Láng, Kim Giang, Đại Kim, Thịnh Liệt về phía Nam thành phố. Tới khu vực Nhà máy Sơn Hà Nội, sông Tô Lịch rẽ nhánh, một nhánh chảy sang hướng Đông về phía hồ Yên Sở, một nhánh chảy xuôi theo hướng Nam đổ vào sông Nhuệ. Đối với nhánh sông Tô Lịch chảy về phía hồ Yên Sở, sông chảy qua địa phận của các thôn: Văn (xã Thịnh Liệt); Bằng A, Bằng B (phường Hoàng Liệt); Huỳnh Cung, Tựu Liệt và Yên Ngưu (xã Tam Hiệp). Tại khu vực thôn Yên Ngưu, sông lại tiếp tục rẽ thành 2 nhánh, một nhánh chạy tiếp về hướng Đông đổ vào hồ Yên Sở, nhánh kia chạy theo hướng nam qua địa phận các xã Tứ Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Ngũ Hiệp (huyện Thanh Trì) và cuối cùng cũng đổ vào sông Nhuệ.
2.1.2. Tình trạng ô nhiễm
Trước năm 1990, sông Tô Lịch là một vùng sinh thái lành mạnh. Trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 1998 bắt đầu có hiện tượng ô nhiễm dần dần. Đặc biệt từ năm 1998 cho đến nay thì tình trạng ô nhiễm đã trở nên trầm trọng: nước có màu đen kịt, đặc quánh các chất hữu cơ; COD thường từ 150-350 mg/l; BOD từ 50-100 mg/l; nồng độ NH4+ thường từ 20-40 mg/l; nồng độ NO2- thường thấp không đáng kể (dưới 1); nồng độ NO3- dao động trong khoảng từ 1-10 mg/l, đôi khi vượt quá 15 mg/l; độ đục cao; coliform dao động từ 35.000-130.000 MNP (most probable number - số lượng chắc chắn nhất có thể)/100ml; độ pH thường từ 7,5-8,5 do có quá nhiều amoniac tự do.
Sông Tô Lịch với tổng diện tích lưu vực vào khoảng 6.820 ha, hàng ngày tiếp nhận một lượng nước thải đô thị từ 330.000-350.000 m3 vào mùa khô. Thành phần nước thải sông Tô Lịch tiếp nhận hàng ngày bao gồm: nước thải sinh hoạt (từ hoạt động sinh sống của hơn 3 triệu dân nội thành, từ hàng nghìn nhà hàng, khách sạn, khu chợ…); nước thải công nghiệp (từ các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất với tất cả các loại hình như hóa chất, dệt may, thực phẩm, cơ khí…); nước thải bệnh viện (từ các bệnh viện lớn và hàng trăm cơ sở dịch vụ y tế đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội). Loại hình và lưu lượng thải được thể hiện ở bảng sau:
TT
Loại nước thải
Lưu lượng
m3/ngày
%
1
Sinh hoạt
188,000
54.5
2
Công nghiệp và dịch vụ
150,000
43.5
3
Bệnh viện và các cơ sở dịch vụ y tế
7,000
2.0
Tổng cộng:
345,000
100
Bảng 2.1. Loại và lượng nước thải của TP. Hà Nội
Nguồn: Sở khoa học - công nghệ và môi trường Hà Nội, 2001
Nước thải của TP. Hà Nội rất giàu chất dinh dưỡng, cùng với các chất gây ô nhiễm như hóa chất độc hại, fecal coliforms, COD, BOD, chất rắn tổng số, NH4-N và nhiều kim loại nặng như Ni, Cu, As và Pb.
2.1.3. Chất lượng nước tưới cho cây rau
Hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước khá cao. Hàm lượng N, P, K cao trong nước thải là nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng cho cây rau trồng ở Bằng B và các cánh đồng nằm dọc theo các sông dẫn nước thải đô thị Hà Nội. So với TCVN 5942-1995 loại B, các chỉ tiêu N-NH4, N-NO2 trong nước tưới (nước mặt) đều vượt nồng độ Nts và K trong nước của các ruộng rau, còn hàm lượng Pts không khác nhau nhiều.
Hàm lượng của một số kim loại nặng trong nước tưới rau ở Bằng B như Chì (Pb), Thủy ngân (Hg), Cadimi (Cd), Crôm (Cr) đều nằm trong giới hạn cho phép theo TCVN 5942-1995 (loại B). Không có sự khác nhau nhiều về nồng độ của các kim loại nặng trong nước của các kênh dẫn xi măng, kênh đất và các thửa ruộng trồng rau.
Với thời gian nước sông (nước thải) lưu lại trong kênh dẫn và trong ruộng sau rút một ngày , nồng độ các chất ô nhiểm đã giảm đi đáng kể . Độ đục giảm đi 2-3 lần BOD giảm từ 4-5 lần , COD giảm từ 14 đến gần 15 lần , N giảm 4-5 lần, K giảm khoảng 1,5 lần. DO tăng đáng kể từ 3-8,6 lần .
2.2. Tình hình sử dụng nước thải từ sông Tô Lịch trong sản xuất rau tại thôn Bằng B
2.2.1. Khái quát về thôn Bằng B
Vị trí địa lý
Bằng B là một trong 5 thôn (Pháp Vân, Tứ Kỳ, Linh Đàm, Bằng A, Bằng B) của phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai. Bằng B nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 10km về phía Nam.
Hình 2.2. Bản đồ thể hiện vị trí của thôn Bằng B
Nguồn: Dự án Rubifarm
Điều kiện tự nhiên
Mang đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam: nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông, ít mưa, quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Có độ ẩm và lượng mưa khá lớn: 1,600 – 1,800 mm/năm, trung bình 114 ngày mưa một năm. Mùa mưa chính kéo dài từ tháng 6 - 9, chiếm khoảng 80-90% tổng lượng mưa hàng năm.Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2ºC. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 15,2ºC. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10.
Điều kiện kinh tế xã hội
Tổng diện tích của thôn Bằng B là 537,543 m2, trong đó đất ở là 51,988 m2 chiếm 9,67%, còn lại là đất cho nông nghiệp chiếm đến hơn 90% (485,555 m2) với 60% (291,600 m2) dùng cho trồng lúa; 24% trồng rau (117,000 m2); 4% diện tích là các ao, hồ nuôi cá (19,800 m2); còn lại là cho các mục đích khác: kênh mương, đê điều…
Hình 2.3. Biểu đồ thể hiện cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp của thôn Bằng B, 2002
Thôn Bằng B có 368 hộ gia đình với số dân là 1,381; trong đó 785 người trong độ tuổi lao động (56.8%).
Có 303 hộ gia đình tham gia sản xuất nông nghiệp, trong đó 200 hộ dựa hoàn toàn vào sản xuất nông nghiệp, còn lại là có nghề phụ khác: đồ gỗ, bán đồ điện…
Thu nhập: Năm 2002, tổng thu nhập của thôn là 5.4 tỷ VNĐ, trong đó thu nhập từ nông nghiệp là 1 307 125 000 đồng (chiếm gần 25%), từ hoạt động công nghiệp, thủ công, thương mại, dịch vụ là 4 tỷ đồng.
Hình 2.4. Biểu đồ thể hiện cơ cấu thu nhập của thôn Bằng B năm 2002
Thu nhập từ trồng lúa năm 2002 là 361 triệu đồng, trồng rau và các loại ngũ cốc là 650 triệu đồng, chăn nuôi lợn và gia cầm là 246 triệu đồng, cá là 50 triệu đồng.
Hình 2.5. Biểu đồ thể hiện cơ cấu thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp của thôn Bằng B, 2002
2.2.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Hoàng Liệt đã từng là nơi cung ứng một lượng lớn rau thường xuyên và uy tín sang thị trường Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ. Ngày nay, đất canh tác của Hoàng Liệt đã giảm phần nhiều nhường chỗ cho các công trình xây dựng nhà ở, may. Sau khi Nhà nước thu hồi đất làm dự án khu đô thị X2 Bắc Linh Đàm (khoảng 10 ha) thì không chỉ diện tích đất canh tác của Hoàng Liệt bị thu hẹp mà chính phần đất của dự án đang "bỏ hoang" cho chuột bọ có chỗ lưu trú để phá hại lúa khiến bà con đều chuyển từ trồng lúa sang trồng rau màu.
Diện tích cơ cấu cây trồng:
Tổng diện tích đất trồng rau của thôn là 120.000m2, trong đó diện tích rau nước (rau sống trong môi trường nước, ngập liên tục với mực nước khoảng 5 – 25cm) chiếm tới 2/3 tổng diện tích (khoảng 80.000m2), phổ biến là rau rút, rau muống, rau cần, rau cải xoong. Còn lại là các loại rau khô (rau sống liên tục trên đất khô, nước chỉ được tưới để duy trì độ ẩm cho đất) như hành, rau cải xanh, rau mùng tơi, ngải cứu, các loại rau thơm, rau diếp và rau xà lách.
Loại rau
Tên rau
Diện tích (m2)
Rau nước
Rau rút
30.000
Rau muống
21.000
Rau cần
18.000
Rau cải xoong
12.000
Rau cạn
Hành
9.000
Rau cải xanh
10.000
Rau mùng tơi
8.000
Ngải cứu
3.000
Rau diếp
2.000
Rau xà lách
2.000
Các loại rau thơm
6.000
Bảng 2.2. Các loại rau chính trồng tại thôn Bằng B
Nguồn: VESDI
Diện tích rau chiếm khá lớn trong tổng diện tích đất trồng trọt, đặc biệt diện tích rau nước chiếm đáng kể (khoảng 70%). Vì vậy, nhu cầu dùng nước tưới là rất lớn. 60% dân Hoàng Liệt sử dụng nước sông Tô Lịch cho mục đích nông nghiệp và tới 45% trong số đó sử dụng để trồng trọt với hình thức chủ yếu là dùng máy bơm (93%).
Tiêu thụ:
Rau trồng tại thôn bằng B được người dân bán trực tiếp cho người dùng hoặc bán cho những người bán buôn bán lẻ khác. Các khu vực tiêu thụ rau của thôn là: Tam Hiệp, Văn Điển, Mai Động, Long Biên, Tựu, Đông Xuân, Trương Định, Linh Đàm, trong đó Mai Động là nơi tiêu thụ rau chính.
Nước thải bệnh viện
Nước thải sinh hoạt
Nước thải công nghiệp
Cách thức sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp
Ao cá, cánh đồng lúa và ruộng rau
Sông Hồng
Sông Nhuệ
Sông Tô Lịch (thượng lưu)
Sông Tô Lịch hạ nguồn
3 sông (Kim Ngưu, Sét, Lừ)
Hồ Yên Sở
Thoát nước đô thị (cống, kênh, mương, hồ và các sông)
Ao, cánh đồng lúa, ruộng rau
Hình 2.6. Hướng di chuyển của nước thải đô thị tới khu vực sản xuất nông nghiệp
Nguồn: VESDI
Trạm bơm nằm giữa thôn Bằng A và Bằng B làm nhiệm vụ bơm nước sông Tô Lịch vào hệ thống kênh, mương xi măng và mương đất để cấp nước cho các thửa ruộng rau và lúa của 2 thôn. Trạm bơm được xây dựng từ năm 1980, với 2 máy bơm có công suất 1000m3/h và một máy bơm công suất 540m3/h. Hoạt động của trạm bơm tùy thuộc vào thời tiết và yêu cầu của nông dân. Hệ thống kênh mương có tổng chiều dài là 2400m làm nhiệm vụ dẫn nước vào và tiêu thoát nước tháo ra từ các cánh đồng khi mưa lớn để tránh gây ngập úng. Nước được bơm sau đó chảy qua các kênh dẫn đến các thửa ruộng; hoặc được người dân lấy trực tiếp từ sông Tô Lịch; hoặc lấy từ các kênh dẫn bằng thùng chứa. Khối lượng nước tưới được lấy từ sông Tô Lịch lên trong một năm là khoảng 700.000m3/năm, trung bình một sào đất canh tác một năm sử dụng khoảng 600m3 nước tưới (nước thải). Người nông dân phải trả phí thủy lợi là 900.000 – 940.000 đồng/ha/năm.
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TỪ SÔNG TÔ LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B
3.1. Hiệu quả về tài chính
3.1.1. Xác định các chi phí
Chi phí trực tiếp, gồm:
- Chi phí phân bón
- Chi phí cho thuốc BVTV
- Phí thủy lợi
- Chi phí lao động
Ngoài ra đối với rau rút còn cần có chi phí cho các công cụ như dây, cọc.
Các số liệu sau đây được tổng hợp từ điều tra thực tế của tác giả tại thôn Bằng B và từ kết quả nghiên cứu của dự án PAUSSA về kĩ thuật trồng một số loại rau nước ở vùng ven đô Hà Nội (trang web của dự án: www.paussa.org)
Sau đây là bảng tính toán chi phí trực tiếp (chưa tính phí thủy lợi) trung bình/1 sào (360m2) cho từng loại rau trong một vụ:
Rau rút
Được trồng từ tháng đầu tháng 4 đến tháng 9, trung bình một vụ được 3 lứa. Lứa đầu tiên cấy phải mua giống, những lứa sau có thể hái các nhánh con để cấy lại.
Hạng mục
Đơn vị
Lượng
Đơn giá (VNĐ)
Chi phí (VNĐ)
Giống
ngọn
1000
4.000
4.000.000
Đạm
kg
6
8.000
48.000
Dây
cân
1
35.000
35.000
Cọc
30.000
Lao động
ngày
90
30.000
2.700.000
Tổng
6.813.000
Rau muống
Được trồng từ tháng 3 đến tháng 12, trung bình một vụ 10 lứa, sau 5 lứa thu hoạch có thể làm đất và cấy lại.
Hạng mục
Đơn vị
Lượng
Đơn giá (VNĐ)
Chi phí (VNĐ)
Giống
mớ
200
2.000
400.000
Đạm
kg
50
8.000
400.000
Lân
kg
200
4.000
800.000
Thuốc BVTV
lọ
10
10.000
100.000
Lao động
ngày
150
30.000
4500.000
Tổng
7.800.000
Rau cần
Được trồng từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, trung bình 3 lứa 1 vụ, xong mỗi lứa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111244.doc