Sau úng ngập, các khu vực sản xuất nông nghiệp đã khẩn trương khắc phục diện tích vụ đông đã gieo trồng bị thiệt hại, trong đó chú trọng cơ cấu giống phù hợp và lượng giống cần thiết phục vụ nhu cầu của người nông dân. Sau khi kiểm tra tình hình thực tế địa bàn Hà Nội, Sở NN & PTNT đã chỉ đạo khôi phục 11.500ha rau xanh bị chết do ngập lụt. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ NN & PTNT về việc tạm ứng hạt rau giống phục hồi sản xuất sau mưa úng cho Hà Nội, trong hai ngày 12 và 13-11, Trung tâm khuyến nông Hà Nội đã chuyển 10.000 kg hạt giống cải củ, cải ăn lá về 21 địa phương trên địa bàn thành phố, với mức hỗ trợ từ 100kg đến 1.440kg hạt ở mỗi nơi. Do có tới hơn 60.000ha cây trồng các loại bị ngập úng, lượng hạt giống đã được Bộ NNPTNT hỗ trợ chỉ mới đáp ứng được khoảng trên 20% diện tích cây hoa màu và một số loại cây trồng vụ đông như ngô, đậu tương bị thiệt hại, phải trồng lại hoặc trồng thay thế bằng các loại rau ngắn ngày trước khi bà con nông dân bắt tay vào trồng vụ lúa xuân. Huyện Mê Linh có số diện tích phục hồi cao nhất (1.700ha) được giao 1.440 kg hạt giống rau các loại. Hai huyện Thường Tín, Thanh Oai có số diện tích phục hồi xấp xỉ 1.000 ha/huyện, mỗi địa phương nhận khoảng 800 kg hạt giống. Các Trạm Khuyến nông huyện phối hợp với phòng chuyên môn, đã tiếp nhận hạt giống và hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức sản xuất ngay tại những cơ sở đủ điều kiện.
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngập lụt ở Hà Nội năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Đặc biệt là lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và các chất thải công nghiệp Tình trạng ô nhiễm này cũng một phần do các hoạt động của các làng nghề thủ công.
2.1.4. Thời tiết, khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè thì nóng và mưa nhiều còn mùa đông lạnh và ít mưa. Hà Nội thuộc vùng nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận một lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, độ ẩm và lượng mưa trung bình tại Hà Nội khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2ºC. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 15,2ºC. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10 thì thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.
Khí hậu Hà Nội cũng đã ghi nhận những biến đổi bất thường. Vào tháng 5 năm 1026, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức cao kỷ lục 42,8°C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7°C.
Bảng 1.2: Khí hậu bình quân Hà Nội
Khí hậu bình quân của Hà Nội
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Trung bình cao °C (°F)
19 (66)
19 (67)
22 (72)
27 (80)
31 (87)
32 (90)
32 (90)
32 (89)
31 (88)
28 (82)
24 (76)
22 (71)
Trung bình thấp °C (°F)
14 (58)
16 (60)
18 (65)
22 (71)
25 (77)
27 (80)
27 (80)
27 (80)
26 (78)
23 (73)
19 (66)
16 (60)
Lượng mưa mm (inch)
20.1 (0.79)
30.5 (1.20)
40.6 (1.60)
80 (3.15)
195.6 (7.70)
240 (9.45)
320 (12.6)
340.4 (13.4)
254 (10.0)
100.3 (3.95)
40.6 (1.60)
20.3 (0.80)
Nguồn: The Weather Channe và Asia for Visitors 27 tháng 12 năm 2008
2.2.Tình hình phát triển xã hội
2.2.1. Tốc độ gia tăng dân số
Theo các thống kê trong lịch sử thì dân số Hà Nội tăng mạnh mẽ trong nửa thế kỷ gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, thành phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích là 152 km2. Đến năm 1961, thành phố được mở rộng với diện tích lên tới 584 km² và dân số là 91.000 người. Năm 1976, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km² và dân số 2,5 triệu người. Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, cùng việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn và đạt con số 2.672.122 người vào năm 1999. Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có 6,233 triệu dân. So với con số 3,4 triệu dân vào cuối năm 2007, dân số thành phố đã tăng 1,8 lần và Hà Nội cũng nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.
Hiện nay mật độ dân số Hà Nội, cũng như trước khi mở rộng địa giới hành chính, không đồng đều giữa các quận nội thành và khu vực ngoại thành. Trên toàn thành phố, mật độ dân cư trung bình là 1.875 người/km² nhưng quận Đống Đa mật độ lên tới 35.341 người/km². Trong khi đó ở những huyện như ngoại thành như Ba Vì, Mỹ Đức, Sóc Sơn, mật độ không tới 1.000 người/km². Sự khác biệt giữa nội thành và huyện ngoại thành còn thể hiện ở mức sống, điều kiện giáo dục, y tế... Về cơ cấu dân số, theo số liệu ngày 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây khi đó chủ yếu là người Kinh với tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Mường, Dao, Tày chiếm 0,9%.
2.2.2. Diễn biến đô thị hóa
Năm 2006, cũng trên địa bàn Hà Nội và Hà Tây, cư dân đô thị chiếm tỷ lệ 41,1% và cư dân nông thôn là 58,1%, tỷ lệ nữ chiếm 50,7% và nam là 49,3%. Toàn thành phố hiện nay còn khoảng 2,5 triệu cư dân sinh sống nhờ sản xuất nông nghiệp. Nhưng cũng giống như Thành phố Hồ Chí Minh, việc dân số tăng quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa không được quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở thành một thành phố chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc của thành phố đang dần biến mất, thay thế bởi những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên khắp các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với nhiều khu vực ngoại thành lạc hậu, nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu.
2.2.3. Giáo dục và đào tạo
Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm 2007, Hà Nội có 280 trường tiểu học, 219 trường trung học cơ sở và 103 trung học phổ thông với tổng cộng 495.456 học sinh. Tỉnh Hà Tây cũng tập trung 361 tiểu học, 337 trung học cơ sở và 67 trung học phổ thông, tổng cộng 475.264 học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó nổi tiếng vì chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia. Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng.
2.2.4. Sức khỏe cộng đồng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2007, thành phố Hà Nội trước khi mở rộng có 232 trạm y tế, 26 phòng khám khu vực và 19 bệnh viện, tổng cộng 4.448 giường bệnh cùng 1.705 bác sỹ thuộc Bộ Y Tế. Tỉnh Hà Tây cũng có 322 trạm y tế, 17 phòng khám khu vực, 16 bệnh viện, tổng cộng có 4.560 giường bệnh và 986 bác sỹ. Do sự phát triển không đồng đều nên những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội thành. Các bệnh viện lớn như Việt Đức, Bạch Mai, Nhi Thụy Điển, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010 Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.
Tương tự thành phố Hồ Chí Minh, điều kiện chăm sóc y tế giữa nội thành và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chệnh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị kéo xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh rất kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng.
2.2.5. Cơ sở hạ tầng
Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, nằm bên cạnh sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường bộ, đường thủy, đường không và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm 35 km, phía Đông thành phố còn có sân bay Gia Lâm. Từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện nay sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước ở châu Âu. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên, Nước Ngầm, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh đi khắp quốc gia theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam, quốc lộ 2 đi Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Giang,quốc lộ 3 đi Cao Bằng, Thái Nguyên,quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quảng Ninh, quốc lộ 6 đi Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, quốc lộ 32 đi Phú Thọ... Giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại
Trong nội thành, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy cùng vơi ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Trên những đường phố ở Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 đến 10 km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố được thiết kế còn thiếu khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong khoảng 10 năm gần đây, hệ thống xe buýt là loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.
Theo quy hoạch giao thông Hà Nội đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại.
2.3.Tình hình phát triển kinh tế
2.3.1. Phát triển GDP và bình quân thu nhập GDP/đầu người của thành phố
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong tổng GDP của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được nhiều nguồn đầu tư nước ngoài nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội phải đối mặt với vấn đề môi trường. Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhâncũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp cùa thành phố với gần 300.000 lao động. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút tới gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố vẫn còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
2.3.2. Tỷ lệ đóng góp GDP của các ngành kinh tế chủ yếu
Tới thế kỷ gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Đông Nam Bộ, Hà Nội chỉ còn giữ vị trí quan trọng thứ hai trong nền kinh tế Việt Nam.
Giai đoạn phát triển của đầu những năm 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thuỷ sản từ 9% giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính và chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà…cũng dần phục hồi và phát triển.
II – THỰC TRẠNG NGẬP LỤT TẠI TP HÀ NỘI NĂM 2008
2.4. Diễn biến ngập lụt
Trận mưa lịch sử trong 2 ngày cuối tháng 10 năm 2008 đã khiến Thủ đô Hà Nội ngập chìm trong biển nước. Với lượng mưa đo được trên 500mm, tại Hà Đông là gần 1.000mm, đối với khu vực Hà Nội, theo số liệu quan trắc của Trạm khí tượng Láng từ năm 1973 đến nay thì trận mưa này là trận mưa đứng thứ 2 (về lượng mưa 24h) sau trận mưa ngày 10/11/1984 (là 394.9mm). Riêng khu vực TP Hà Đông, tính đến thời điểm này đã là lượng mưa ngày lịch sử tính từ năm 1960 đến nay (lượng mưa ngày lớn nhất trước đây xảy ra vào năm 1978 là 318,7mm). Mưa rất lớn trên diện rộng vào cuối tháng 10, lại chỉ do hội tụ của gió đông nam thuần tuý là hiện tượng rất bất thường. Trong quá khứ cũng đã từng xảy ra các trận mưa lớn như vậy, nhưng ngoài gió đông nam ra còn phải kết hợp với bão hoặc áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào Bắc Trung Bộ (như năm 1984 và 2007). Lượng mưa dữ dội trong hai ngày đo được đã lên đến mức kỷ lục nhất trong vòng 48 năm. Tổng lượng mưa đo được do Đài Khí tượng thủy văn đồng bằng Bắc Bộ thông báo như sau: Láng 417,3mm; Hà Đông 612,9mm; nội thành: 399mm; Long Biên: 408mm. Tại điểm đo mưa của Công ty Thoát nước Hà Nội tại Vân Hồ là 354mm, Đồng Bông 613mm. Thực tế Hà Nội chỉ có 2 trục tiêu nước là sông Nhuệ và sông Tô Lịch, trong đó riêng sông Tô Lịch làm nhiệm vụ tiêu thoát nước cho toàn bộ Hà Nội cũ. Chính vì vậy chính quyền Hà Nội cần phải đánh giá lại năng lực tiêu nước của sông Tô Lịch cũng như quy hoạch các trạm bơm tiêu lũ... Theo tính toán của các chuyên gia, hệ thống tiêu, thoát nước của Hà Nội chủ yếu trông chờ vào việc tiêu úng bằng máy bơm. Trạm bơm Yên Sở - trạm bơm duy nhất hoạt động trong đợt lụt mặc dù mới được đầu tư cải tạo xây dựng theo dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1 cũng trong tình cảnh tương tự. Khu vực tiêu của trạm bơm Yên Sở là gần 8.000 ha, công suất 45 m3/s, với lượng mưa bình quân là 500 mm, riêng Hà Nội cũ đã hứng 40 triệu m3 nước, trạm bơm Yên Sở chỉ đủ xử lý với lượng mưa khoảng 160mm - 170mm/ngày. Tới đây, dù nâng công suất của trạm bơm này lên gấp đôi, thì với những trận mưa như thế (500mm trong một ngày), Hà Nội vẫn bị ngập. và do đó "số phận" của Hà Nội chỉ chờ vào trạm bơm này nên việc thoát nước của thủ đô rất căng thẳng.
Do chính quyền thành phố không lường trước được quy mô úng ngập, kể cả sau khi đã nhận ra lượng mưa bất thường. Vì thế, Hà Nội đã phản ứng khá chậm chạp trong ba ngày ngập lụt đầu tiên. Tuy nhiên, ngay sau khi xảy ra mưa lớn, thành phố đã tổ chức di dời 5.183 hộ dân có nguy cơ ngập nặng để đảm bảo an toàn; khẩn trương triển khai các phương án phòng chống úng ngập theo phương châm 4 tại chỗ, huy động 6.075 người, 5.200 cọc tre, 32.910 bao tải, 1.880m3 đất để chống ngập; cấp 11.000 thùng mì tôm, nước sạch cho những vùng bị cách ly và gặp khó khăn. Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố cũng huy động hơn 9.000 lượt cán bộ, chiến sĩ nhằm cứu hộ, cứu nạn, hỗ trợ xử lý úng ngập. Có thể nói, toàn thành phố đã dốc sức để đảm bảo an ninh trật tự, hướng dẫn, phân luồng giao thông, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát vào ban đêm tại các tuyến trọng điểm… nhằm hạn chế thiệt hại về người và tài sản.
2.5. Thiệt hại ngập lụt đối với TP Hà Nội
Mưa lớn đã làm trên 10.000 hộ dân ven đê, vùng trũng dọc theo các triền sông bị ngập nhà cửa và nhiều công trình dân sinh như trường học, trạm y tế bị ngập úng, nhiều diện tích cây trồng vụ đông bị úng ngập, khả năng không còn cho thu hoạch, nhiều diện tích thủy sản bị mất trắng.
* Thiệt hại về người
Trong đợt lụt vừa qua, Hà Nội dẫn đầu các địa phương chịu ảnh hưởng của trận mưa lớn miền Bắc về số người thiệt mạng. Người chết do nước lụt là nguyên nhân trực tiếp; người chết do lụt là nguyên nhân gián tiếp như những người già yếu bị lạnh, trẻ em đang ốm bị lạnh, người ốm hay người bị thương không được cấp cứu kịp thời do đường ngập nước…
* Thiệt hại kinh tế:
- Thiệt hại nhà cửa, vật dụng và phương tiện đi lại
Sau mấy ngày nước ngập, ngoài việc phải sửa chữa nhà cửa bị ngập, các hộ gia đình còn phải chịu khoản chi phí do thiệt hại của cải. Những vật dụng hư hỏng có thể nhìn thấy bằng mắt thường đó là hệ thống cửa gỗ bắt đầu mục nát xệ xuống, vật dụng đồ gỗ công nghiệp của gia đình. Thêm nữa là chi phí sửa chữa cho phương tiện giao thông do ngập nước. Những xe ngập nước nhưng không hỏng động cơ vào khoảng 4-5 triệu đồng. Nhưng với xe sang mà động cơ bị thủy kích, số tiền có thể lên tới hàng trăm triệu đồng. Trong trường hợp xe hỏng trung bình chi phí bảo dưỡng trung bình sẽ dao động từ 300 000 đ đến 500 000 đồng. DN có số lượng xe bị thiệt hại lớn nhất là Công ty Bảo Minh, với trên 300 xe đã được chủ xe thông báo tới nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm này. giá trị đền bù thiệt hại ước tính lên đến trên 4 tỷ đồng, trong đó có một số xe bị hỏng nặng, với giá trị đền bù từ 300 - 400 triệu đồng/xe. Bảo Việt Việt Nam cho biết số ôtô mua bảo hiểm của họ bị thiệt hại do ngập nước là 200 chiếc với giá trị đền bù khoảng 3-4 tỷ đồng. Công ty cổ phần Bảo hiểm xăng dầu Petrolimex (PJICO) cũng cho biết con số ôtô ngập nước mua sản phẩm bảo hiểm của họ là 200 chiếc. Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện (PTI) và Bảo hiểm dầu khí, mỗi DN cũng có hơn 100 ôtô của khách hàng bị ngập nước trong đợt mưa lũ. Như vậy chỉ riêng với 4 DN lớn tính đến nay đã có tới 700 xe bị thiệt hại do ngập nước, đấy là chưa kể số xe của các DN bảo hiểm nhỏ, hoặc mới thành lập hay mở văn phòng tại Hà Nội và số xe còn chưa thông báo tới cho các nhà cung cấp dịch vụ.
- Nông nghiệp, thủy sản
Đợt mưa lớn đã gây úng ngập kéo dài, làm hư hại nhiều ha cây vụ đông, chết gia súc và các diện tích lùa mùa muộn bị mất trắng. Vè thủy sản, mặc dù đã có nhiều biện pháp chắn giữ và nỗ lực cố gắng của chủ hộ, trang trại và phía Ban, Ngành tại địa phương, song do lượng mưa quá lớn làm cho nhiều diện tích đầm, ao nuôi thủy sản bị mất trắng chỉ trong thời gian ngắn. Phường Trần Phú, Yên Sở (quận Hoàng Mai, Hà Nội) được coi là "vựa" cá lớn của Thủ đô. Đợt mưa lớn mấy ngày làm các hộ nuôi trồng thuỷ sản nơi đây bị thiệt hại nặng nề. Do mưa lớn, nước đổ dồn về đầm quá nhanh khiến các hộ nuôi cá trở tay không kịp, dùng bơm công suất lớn cũng chẳng ăn thua so với lượng nước dâng cao. Nhiều ao cá đã đến tầm thu hoạch, mưa lớn làm cá tràn sang các ao nuôi khác, các sông, hồ rồi hòa vào biển nước mệnh mông.
- Thiệt hại cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc
Cùng với nước ngập và mất điện xảy ra ở nhiều nơi, thông tin liên lạc trên địa bàn Hà Nội nhiều lúc bị gián đoạn. Rất nhiều thuê bao di động và Internet tại Hà Nội không thể liên lạc được trong 3 ngày ngập lụt. Lý do chủ yếu là lưới điện tại nhiều khu vực bị cắt để đảm bảo an toàn. Mưa to đã khiến một số hệ thống trạm thu phát sóng di động bị ảnh hưởng cục bộ do nhiều tuyến dây cáp bị đứt, nhiều khu phố bị ngập. Các đơn vị muốn chạy máy nổ cũng không thể vận hành được vì khu vực đặt trạm cũng bị ngập nước. Do mặt đường ngập nước, các phương tiện đi tràn lên vỉa hè nên nhanh chóng bị xuống cấp. Tại nhiều tuyến đường dải phân cách cũng bị hư hỏng nặng cho nên để "vá" hết những "khiếm khuyết" này thành phố cần đầu tư một số lượng tiền lớn.
Nhiều trạm điện trên toàn thành phố hiện đã bị ngập nước, vì vậy để đảm bảo an toàn bắt buộc phải cắt điện. Bên cạnh đó, nhiều tuyến đường dây ngầm ở thành phố Hà Nội cũng bị ngập nước, không đủ tiêu chuẩn vận hành cũng khiến cho điện lực tạm ngừng cung cấp điện. Trong trận ngập có 2000 trạm điện của Công ty Điện lực Việt Nam bị ngập trong đó có 463 trạm không vận hành được (quận Hoàng Mai 101 trạm; Thanh Xuân 32 trạm; Long Biên 40 trạm; Đống Đa 30 trạm; Hai Bà Trưng 23 trạm; Ba Đình 10 trạm; Thanh Trì 25 trạm và khu vực Hà Tây cũ còn 169 trạm chưa có điện vì trạm 220kV Hà Đông bị ngập trong nước). Do đó, Cty điện lực Hà Nội phải sa thải các trạm ra khỏi hệ thống khiến nhiều hộ dân tại TP.Hà Đông, tại các huyện thuộc Hà Tây cũ và các quận Thanh Xuân, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng, Long Biên, Thanh Trì, Từ Liêm, Đống Đa bị mất điện. Các địa điểm bị ngập nặng nhất là Hoàng Mai, Từ Liêm, Thanh Xuân, Long Biên.
* Ảnh hưởng xã hội:
- Ách tắc giao thông
Trong những ngày mưa lụt, trên hầu hết tuyến phố, các phương tiện tham gia giao thông bị rối loạn. Chỉ còn lại một vài tuyến phố vành đai, khu vực ngoại thành và các tuyến đường đê không bị ngập, các phương tiện tham gia giao thông đã tìm hướng này tránh lụt nhưng do quá nhiều người đi vào hướng này nên lại bị ách tắc giao thông.
- Giá cả biến động
Trận mưa lịch sử những ngày qua ở Hà Nội đã khiến thị trường lương thực thực phẩm diễn biến phức tạp. Ngược với mức giá tăng vọt gấp cả chục lần so với ngày thường ở khu vực nội thành là cảnh giá cả hạ thấp đến bất ngờ tại khu vực ngoại thành. Mấy ngày mưa lớn và ngập úng kéo dài đã khiến mọi hoạt động của người dân bị xáo trộn. Người dân điêu đứng vì đường ngập, nhà ngập, mất điện, mất nước, thiếu lương thực... Nhiều chợ đã đóng cửa, nhiều tiểu thương đã lập chợ cóc bên đường để phục vụ nhu cầu của người dân, thậm chí, ở nhiều nơi, người ta còn dùng xe đẩy để bán hàng đến tận nhà. Những ngày mưa, những người bán lẻ có cơ hội đẩy giá lên cao gấp 5, gấp 7 lần ngày thường. Giá cả vào sáng 3-11 đã có mặt bằng giá mới. Giá rau được nâng lên gấp đôi hoặc gấp ba ngày hôm trước. Hàng củ quả nhiều hơn hàng rau và giá cả các loại thực phẩm như thịt gà, thịt lợn, tôm, mực vẫn ở mức cao. Khảo sát qua một số chợ, chỉ có thực phẩm khô, đồ đông lạnh là giá không thay đổi nhiều. Tại các huyện Mỹ Đức, Thanh Oai, Ứng Hòa, đã xuất hiện tình trạng người dân bán tống, bán tháo hàng nông sản và thực phẩm tươi sống nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại. Lý giải cho việc này là do diện tích nuôi trồng thuỷ sản của người dân bị ngập úng, cá theo mưa tràn lên bờ. Rất nhiều người dân đổ đi vớt cá. Chủ những hồ nuôi trồng thuỷ sản phải bán đổ, bán tháo để giảm bớt thiệt hại do thiên tai. Tại khu vực ngoại thành, thịt gà, thịt lợn cũng phải bán giảm giá do nước mưa dâng cao, tràn vào, đe doạ an toàn khu chăn nuôi. Hơn nữa, các hộ chăn nuôi cũng không thể giải quyết ngay được đầu ra của mặt hàng này do ách tắc về giao thông.
- Khan hiếm nước sạch và dịch vụ công ích
Mưa lớn không chỉ gây ngập trên hầu khắp các tuyến đường của Thủ đô, làm ách tắc giao thông kéo dài, mà còn ảnh hưởng đến việc cấp điện tại một số khu vực. Trạm 220 KV Hà Đông đã bị ngập úng và để đảm bảo an toàn lưới điện, các máy biến áp 220, 110 KV và một số đường dây cung cấp điện áp đã bị tách ra khỏi hệ thống điện. Do đó, việc cung cấp điện cho khu vực Hà Đông và một số khu vực khác của Hà Nội đã phải tạm ngừng. Mất điện kéo theo mất nước bởi các trạm bơm nước cũng phải ngừng hoạt động, dẫn đến sinh hoạt của người dân tại những khu vực bị mất điện đang bị đảo lộn. Cả khu vực thành phố đã phải sống trong tình cảnh không có nước trong hơn 1 ngày lụt lội. Do mưa lớn đột ngột và kéo dài nên nhiều gia đình không chuẩn bị, bể chứa dung tích nhỏ đã không còn nước sạch sử dụng.
Khác với nông thôn, tính mạng của đa số người dân thành phố không bị đe doạ trực tiếp khi có lụt. Họ có nhà cửa kiên cố hơn, và vì thế có sẵn một chỗ trú cao ráo để tránh bị kiệt sức do dầm mình trong mưa bão. Chính lợi thế này của thị dân đã làm cho các nhà quản lý do dự khi đặt vấn đề có cần cứu trợ cho Hà Nội mấy ngày đầu trận lụt. Nhưng chính sự an toàn tương đối của nhà ở và công trình đô thị lại che khuất một điểm yếu căn bản của nó, là sự phụ thuộc vào hệ thống phân phối phức tạp. Khác với nông thôn, nơi người dân vẫn thường tự giải quyết các vấn đề về nước sạch, thoát nước, rác thải, chữa cháy v.v. người dân thành phố hoàn toàn phải dựa vào các công ty dịch vụ công. Khi các công ty này tê liệt do giao thông ách tắc thì cuộc sống của người dân cũng bị đảo lộn. Nhu cầu về nước sạch của người dân thành phố đặc biệt khẩn cấp trong ngày lũ. Họ không thể dùng tạm nước sinh hoạt bằng nước lũ, vốn bị ô nhiễm nặng nề hơn nhiều so với nông thôn. Điều này dẫn tới một bất cập trong ứng phó của Hà Nội: Khi áp dụng máy móc công thức cứu trợ bằng mỳ tôm, vốn chỉ phù hợp với cứu trợ bão lụt nông thôn, cơ quan cứu trợ đã không chú ý đúng mức đến nước sạch cho các vùng bị ngập nặng.
- Dịch bệnh:
Thời gian trong và sau khi ngập nước là cơ hội cho nhiều loại bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng, côn trùng hay các loại động vật có nọc độc cắn; bị thương do tai nạn hay do va chạm với các vật nhọn sắc... Cũng như các thảm họa khác, lụt cũng là nguyên nhân của các loại bệnh thần kinh do bị sốc, hoảng loạn… Thống kê của một số bệnh viện trên địa bàn Hà Nội cho thấy, sau một tuần thoát khỏi cảnh ngập nước, số bệnh nhân đến khám bệnh có xu hướng gia tăng. Hầu hết các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội đều phải đối mặt với tình trạng số bệnh nhân rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy cấp, sốt xuất huyết vào điều trị gia tăng sau ngập lụt, tuy nhiên không có sự gia tăng đột biến của bất cứ loại bệnh nào, cũng chưa có dịch bệnh bùng phát. Ngành Y tế đã cố gắng hết sức để kiểm soát được tình hình dịch bệnh, dù nguy cơ bùng phát các dịch bệnh sau lũ lụt là rất lớn. Đáng lo ngại nhất vào thời điểm này là dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm có khuẩn tả, vì hiện nay các bệnh viện của thành phố và một số bệnh viện huỵên đều đã ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10271.doc