MỤC LỤC
Trang
Phân I: GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ 2
Phần II: PHẦN THU THẬP THÔNG TIN 3
1.Khái quát quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin 3
2. Kết quả của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin 4
PHẦN III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI QUẢNG NINH 5
1. Tình hình kinh tế xã hội ở Quảng Ninh
2. Căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình 5
6
3. Đánh giá thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh 8
3.1. Thực trạng ly hôn 8
3.2. Nguyên nhân, lý do của việc ly hôn 10
Phần I.V. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ 14
I. Nhận xét 14
II. Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh 16
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại Quảng Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia đình trong các năm 2004-2005- 2006... Tuy nhiên các số liêu không thể đưa vào bài viết một cách thuần tuý mà còn phải thông qua quá trình xử lý thông tin, đánh giá và đưa ra được bản chất của vấn đề cầm xem xét là “Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại địa phương”.
Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin phục vụ cho việc viết chuyên đề thực tập diễn ra từ ngày đầu tiên thực tập tại Toà án và trong suốt quá trình thực tập đến khi hoàn thành chuyên đề. Trong quá trình đó như đã trình bày ở trên ngoài những thuận lợi cơ bản thì qúa trình thu thập thông tin còn gặp những khó khăn nhất định như: Những thông tin lưu trữ dưới dạng thủ công, không cụ thể và rõ ràng, số liệu không tập trung do vậy việc thống kê và thu thập thông tin còn gặp khó khăn. Nhưng với tinh thần hăng say, nhiệt tình của một sinh viên thực tập đã giúp em hoàn thành tốt quá trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho việc viết chuyên đề.
Để đạt kết quả trong việc xử lý các số liệu thu thập được em phải thông qua rất nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp phân tích, thống kê tổng hợp, đối chiếu so sánh… Xuất phát từ phương pháp luận triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chung về nhà nước và pháp luật từ đó sâu chuỗi lôgic các vấn đề lại.
Ngoài ra các thông tin của bài viết này được tìm hiểu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài, báo, sách vở… và rút ra từ gia đình, bạn bè và ý thức của bản thân. Đặc biệt bản thân em còn được cơ quan nơi thực tập tạo điều kiện cho việc thâm nhập thực tế, bằng những kinh ngiệm thực tiễn thu thập đựơc góp phần quan trọng vào việc hoàn thành đề tài này.
2. Kết qủa của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin.
Sau một thời gian không lâu kể từ khi thực tập tại Toà án, với sự giúp đỡ tận tình của lãnh đạo Toà án, các cán bộ hướng dẫn thực tập, sự nỗ lực của bản thân trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin. Kết quả thu được là rất tốt, nó thể hiện được nội dung cốt lõi của vấn đề cần ngiên cứu đó là: “Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại Quảng Ninh trong năm 2004- 2005- 2006”. Qua những số liệu em thu thập được giúp em đánh giá được thực trạng, tìm hiểu được nguyên nhân cũng như là đưa ra được những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn. Cụ thể những thông tin thu được thể hiện ngắn gọn ở bảng số liệu sau:
1.Công tác thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn năm 2004
T. lý
Giải quyết
Lý do ly hôn
1204
TĐC
ĐC
QĐCN
HG
Mâu thuẫn
N. tình
Bệnh tật không con
Ma tuý cờ bạc
62
63
446
62
324
161
63
131
2.Công tác thụ lý và xét xử vụ án ly hôn năm 2005
T. lý
Giải quyết
Lý do ly hôn
1274
TĐC
ĐC
QĐCN
HG
Mâu thuẫn
N. tình
Bệnh tật không con
Ma tuý cờ bạc
45
32
451
72
352
146
78
128
3.Công tác thụ lý và xét xử vụ án ly hôn năm 2006
T. lý
Giải quyết
Lý do ly hôn
1270
TĐC
ĐC
QĐCN
HG
Mâu thuẫn
N. tình
Bệnh tật không con
Ma tuý cờ bạc
39
28
4455
62
301
152
61
121
Như vậy toàn ngành đã thụ lý 1227 vụ, giải quyết 1212 vụ đạt 95,1% trong đó toà án tỉnh đá thụ lý 62 vụ, đã giải quyết 58 vụ, còn lại tạm đình chỉ 4vụ (Ly hôn sơ thẩm thụ lý 29 vụ, đã giải quyết 29 vụ đạt 100%; ly hôn phúc thẩm thụ lý 33 vụ, giải quyết 33 vụ đạt 100%);Toà án huyện thị thụ lý 1212 vụ giải quyết 1150 vụ đạt 94,8%.
PHẦN III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN TẠI QUẢNG NINH
Đặc thù kinh tế – chính trị- xã hội của tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh có nền kinh tế rất phát triển của khu vực kinh tế trọng điểm miền Bắc. Quảng Ninh có vị trí địa lý thuận lợi tài nguyên phong phú, có cưả khẩu Móng Cái giáp với Trung Quốc, nhiều nguồn lợi về đánh bắt thủy hải sản, du lịch, phát triển kinh tế vùng… Do vậy đời sống nhân dân tương đối được đảm bảo, có điều kiện để phát triển toàn diện về con người. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều huyện miền núi trung du, xa khu vực phát triển nên trình độ nhân thức còn lạc hậu, đời sống không được đảm bảo.
2. Căn cứ ly hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan.
Từ khi dành được chính quyền đến nay Đảng và nhà nước ta không ngừng chăm lo đến đời sống của gia đình nói riêng và đời sống của nhân dân nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã ban hành nhiều sắc lệnh quy định về kết hôn và các điều kiện để kết hôn, trải qua một thời gian dài nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao như luật hôn nhân và gia đình năm 1959; luật hôn nhân gia đình năm 1986 và gần đây có luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong đó có quy định căn cứ ly hôn cụ thể có hai căn cứ như sau:
Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án cho ly hôn.
Căn cứ ly hôn quy định tại điều 89 của luật hôn nhân và gia đình được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết ở điểm 8 của nghị quyết 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 cụ thể như sau:
a. Theo quy định tại khoản 1 điều 89 thì toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trần trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
- Được coi là tình trạng trầm trọng khi:
Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích, họ hàng, cơ quan, tổ chức, nhắc nhở hoà giải nhiều lần.
Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi nhau, hành hạ nhau, như hành vi thường xuyên đánh đập hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích, họ hàng, cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo, hoà giải nhiều lần.
Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng, bà con thân thích, cơ quan làng xón khuyên bảo nhưng vẫn có quan hệ ngoại tình.
- Để có cơ sở xác định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại mục a của thông tư này. Nếu thực tế đã được hoà giải nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình, sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chông không thể kéo dài được.
- Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ Chồng, không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ vủa vợ chồng, không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng, không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của vợ chồng, không giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt.
b. Theo quy định của khoản 2 điều 98 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trong
trường hợp vợ chồng của những người bị Toà án tuyên bố mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn thực tiễn cho thấy có thể xãy ra hai trường hợp sau:
- Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn, nếu Toà án chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
- Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích mà có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có quyền yêu cầu xin ly hôn.
Như vậy luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và nghị quyết 02/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có quy định rất rõ ràng căn cứ ly hôn, chỉ khi thoả mãn một trong hai điều kiện nêu trên thì Toà án xem xét quyết định cho ly hôn. ngoài ra pháp luật còn hạn chế ly hôn trong một số trường hợp
3. Đánh giá thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh
3.1. Thực trạng ly hôn
Trong những năm vừa qua số vụ án về ly hôn mà Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý và giải quyết chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các loại án mà Toà án tỉnh Quảng Ninh thụ lý và giải quyết. Điều đó cho thấy rằng tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, theo thống kê trong báo cáo Hội đồng nhân dân Tỉnh Quảng Ninh ngày 08 tháng 01 năm 2004 thì số vụ án ly hôn mà Toà án tỉnh Quảng Ninh thụ lý năm 2006 là 62 vụ, đã giải quyết 58 vụ, còn lại 4 vụ đã tạm đình chỉ.Như vậy qua những số liệu nêu trên cho chúng ta thấy rằng tình trạng ly hôn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đang ở mức đáng báo động, mặc dù năm 2006 trở lại đây số vụ án về ly hôn mà Toà án thụ lý và giải quyết giảm dần qua các năm, tuy nhiên vẫn ở mức trên 20 vụ mỗi năm, đặc biệt mấy tháng đầu năm 2006 số vụ án về ly hôn tăng đột biến gần bằng 50% vụ án về ly hôn cùng kỳ những năm trước đó. Có thể khái quát thực trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh bằng bảng số liệu và thể hiện bằng biểu đồ dưới đây.
Đơn vị: Vụ
2004
2005
2006
Thụ lý
1204
1274
1270
Biểu đồ 1
Hiện trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh miền núi phía Bắc có 13 huyện thị và thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Hạ Long nền kinh tế tương đối phát triển, đời sống nhân dân thuộc vào mức cao so với các tỉnh khác trong cả nước điều đó cho chúng ta thấy rằng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có tác động không nhỏ đến tình trạng ly hôn, nơi có nền kinh tế phát triển thì nhu cầu hưởng thụ cao hơn do vậy thường xuyên nảy sinh ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và đó là môt nguyên nhân dẫn đến ly hôn ngày càng nhiều.
Mặc dù trong những năm gần đây số vụ án về ly hôn có xu hướng giảm dần thế nhưng về tính chất của nó thì lại đáng lo ngại bởi vì: Số vụ án về ly hôn mà có vợ và chồng còn trẻ chiếm tỷ lệ lớn, đã có những vụ án ly hôn do một bên nghiện ma tuý, hoặc có những vụ án ly hôn mà chồng ngược đãi, hành hạ nhau, đặc biệt có rất nhiều vụ án ly hôn mà có con nhỏ… Điều đó đã và đang đặt ra cho các cấp,các ngành ở địa phương những vấn đề nan giải, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của vợ chồng cũng như đời sống xã hội trong huyện.
3.2. Nguyên nhân, lý do của việc ly hôn.
Các vụ án về ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm vừa qua cho thấy những lý do dân đến việc các cặp vợ chồng ly hôn là khác nhau, trong năm 2005-2006nguyên nhân, lý do ly hôn được thống kê ở bảng số liệu sau:
Đơn vị: Vụ
Mâu thuẫn
gia đình
Ngoại
tình
Không
con
Nghiện
ma tuý
Mâu thuẫn kinh tế
2005
352
146
78
128
86
2006
301
152
61
121
83
Bảng 3
- Do mâu thuẫn vợ chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có ấm no hạnh phúc thì xã hội mới phát triển được, thê nhưng không phải bất cứ gia đình nào cũng hạnh phúc mà trong cuộc sống nó phát sinh rất nhiều mâu thuẫn. Những vụ án năm 2005-2006 mà Toà án đã thụ lý và giải quyết thì nguyên nhân chủ yếu là do mâu thuẫn gia đình chiến hơn 80% các vụ án về ly hôn. Năm 2003 số vụ án ly hôn do mâu thuẫn gia đình, đánh đập, ngược đãi là 33 vụ chiếm 84%. Mâu thuẫn gia đình chủ yếu phát sinh do bất đồng quan điểm sống, cách suy nghĩ, sự khó khăn về kinh tế trong gia đình cũng như là các hành vi ứng xử trong gia đình. Mâu thuẫn gia đình cũng có thể xuất phát từ những xích mích, hiểu lầm, ghen tuông, sự đố kỵ nhau trong cuộc sống, từ sự thiếu hiểu biết của một bên hoặc cả hai bên về quyền và nghĩa vụ của mình đối với gia đình.
Ví dụ như: Vụ ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hà, bị đơn là anh Nguyễn Tiến Nhung. Đều trú tại tổ 7 Thị trấn Đầm Hà- Huyện Đầm Hà- Quảng Ninh, vụ án này được thụ lý ngày 28 tháng 11 năm 2003 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử theo bản án số 05/DSST ngày 16 tháng 06 năm 2004. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do kinh tế gia đình khó khăn, không có vốn để làm ăn phải đi vay mượn, vợ chồng không tin tưởng nhau, dẫn đến mâu thuẫn mà hai bên không thể giải quyết được, hai bên nội ngoại cũng không khuyên bảo được dẫn tới mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị Hà thờ ơ lạnh nhạt với anh Nhung, anh Nhung lại có tính hay ghen, làm cho tình cảm vợ chồng không còn nữa và hai bên đã ly hôn.
Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì mâu thuẫn gia đình dẫn tới cuộc sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được đó là một căn cứ để Toà án quyết định cho ly hôn. Để có thể giảm bớt tình trạng ly hôn do mâu thuẫn gia đình thì thiết nghĩ các cặp vợ chồng cần phải sống gắn bó, có trách nhiệm với nhau và trách nhiệm với gia đình, chăm sóc và xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc.
Trong năm 2004 trong số các vụ án về ly hôn thì có 13 vụ do mâu thuẫn gia đình chiếm 52%. Năm 2005 vụ án về ly hôn với lý do mâu thuẫn gia đình là 18/21 vụ chiếm 85,7%. Qua số liệu trên cho chúng ta thấy rằng mâu thuẫn gia đình là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng ly hôn ngày càng nhiều ở Quảng Ninh hiện nay.
- Do một bên bỏ nhà đi
Ngoài lý do ly hôn do mâu thuẫn gia đình thì các lý do khác chiếm một tỷ lệ không lớn, tuy nhiên nó đang đặt ra bức thiết cần nghiên cứu kỹ trong đó có lý do một bên bỏ nhà đi không về. Đây không phải là một nguyên nhân mới, tuy nhiên trong những năm vừa qua nó lại xuất hiện nhiều khiến người ta phải quan tâm. Đi tìm hiểu về nguyên nhân này thấy rằng Quảng Ninh là một địa bàn khá phức tạp, nền kinh tế xét trên mặt bằng chung tương đối phát triển nhưng vẫn còn đó một đại bộ phận dân cư còn sống trong tình cảnh khó khăn, thu nhập không đủ nuôi sống bản thân và gia đình trong khi đó ở các thành phố, các khu công nghiệp còn thiếu lao động… Từ đó dẫn tới một hiện tượng đi làm ăn xa lâu ngày không về, làm cho cuộc sống gia đình ngày càng phai nhạt dần, thiếu sự quan tâm đùm bọc chăm sóc lẫn nhau dẫn tới mâu thuẫn gia đình và ly hôn. Tuy nhiên không phải tất cả các vụ bỏ nhà đi là do đi làm ăn xa, mà bỏ nhà đi còn có nhiều lý do khác.
Theo thống kê năm 2003 số vụ án về ly hôn do bỏ nhà đi la 6/39 vụ chiếm 15,3%. Năm 2004 7/25 vụ chiếm 28%. Ví dụ: Ngày 17 tháng 03 năm 2003 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý vụ án xin ly hôn giữa anh Phạm Huy Liệu và chị Phạm Thị Lợi. Đều trú tại khu 2- phường Giếng Đáy-T.P Hạ Long- Quảng Ninh. Toà án đã giải quyết theo bản án số 01/DSST ngày 12 tháng 02 năm 2004. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là: Vợ chồng không tin tưởng nhau, nghi ngờ lẫn nhau, kinh tế gia đình giảm sút, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa và chị Lợi đã bỏ nhà đi từ năm 2000, sau khi thụ lý vụ án này Toà án đã làm các thủ tục nhắn tin tìm chị Lợi theo luật định nhưng hết thời gian chị Lợi vẫn không có mặt, và Toà án đã giải quyết vắng mặt cho anh Liệu được ly hôn với lý do vợ bỏ nhà đi.
Theo thống kê năm 2005 thì số vụ án về ly hôn với lý do bỏ nhà đi giảm xuống chỉ còn 1 vụ, so với năm 2003-2004 con số này là không đáng kể chiếm 4% tổng số vụ án về ly hôn năm 2005, bằng 0,55% số vụ án về ly hôn do mâu thuẫn gia đình. Điều đó cho thấy rằng mặc dù nó chiếm tỷ lệ nhỏ trong các nguyên nhân về ly hôn nhưng nó có xu hướng tăng trong điều kiện hiện nay.
- Do ngoại tình
Các nguyên nhân do một bên vợ hoặc chồng ngoại tình dẫn đến ly hôn chiếm một tỷ lệ nhỏ, năm 2003 là 1/39 vụ, năm 2004 là 1/25 vụ, năm 2005 là 1/21 vụ. Một điều đặc biệt là hầu hết các vụ ly hôn do ngoại tình thường có bị đơn là vợ, duy nhất có năm 2004 bị đơn là chồng. Điều đó cho thấy một quan niệm tồn tại lâu nay là chồng ngoại tình thì có thể chấp nhận được, còn vợ mà ngoại tình thì không chấp nhận được và hệ quả bị đơn là vợ chiếm tỷ lệ lớn. Theo thống kê năm 2002 số vụ án về ngoại tình là 6 vụ bằng 2,14% cả 6 vụ này đều có vợ là bị đơn. Ngoại tình là vấn đề rất nhạy cảm đến đời sống của vợ chồng, cũng như ảnh hưởng đến thuần phong mỹ thục của cộng đồng. Chính vì thế mà ly hôn với lý do ngoại tình thường ít hơn rất nhiều so với các lý do khác.
Ví dụ: Ngày 02 tháng 04 năm 2004 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thụ lý vụ án về ly hôn giữa chị Bùi Thị Liên và anh Phạm Văn Thái, cả hai trú tại khu 9- Thị trấn Tiên Yên- Tiên Yên- Quảng Ninh. Theo bản án số 06/DSST ngày 20 tháng 07 năm 2004 thì nguyên nhân dẫn tới ly hôn là do chồng ngoại tình. Năm 1995 anh Thái có chung sống như vợ chồng với một cô gái ở Ngọc Lạc- Cẩm thuỷ- Thanh hoá, sau đó tiếp tục quan hệ với cô Huế ở Đắc lắc khi đi làm ăn trong Tây nguyên và hai người đã có một con chung. Tuy nhiên anh Thái và chị Liên không đăng ký kết hôn do vậy Toà án không công nhận quan hệ giữa họ là vợ chồng. Như vậy chúng ta có thể thấy do không hiểu biết pháp luật nên anh Thái và chị Liên không đăng ký kết hôn do vậy mà pháp luật không công nhận họ là vợ chồng, nên về hôn nhân pháp luật không bảo vệ.
- Còn lại các lý do khác
Các lý do khác dẫn tới ly hôn chiếm một tỷ lệ nhỏ và chủ yếu xuất hiện ở những năm gần đây như: Nguyên nhân ly hôn do nghiện ma tuý, duy nhất năm 2004 có 2 vụ đây là nguyên nhân mới xuất hiện nhưng tính chất của nó rất phức tạp, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của các bên, con cái cũng như là đối với xã hội. Ví dụ: vụ án giữa nguyên đơn là chị Đào Thị Hoa và bị đơn là anh Nguyên Văn Hoà, đều trú tại khu 7- Thị trấn Mạo Khê- Đông Triều- Quảng Ninh. Theo lời khai của anh Hoà, anh đã thừa nhận mình nghiện ma tuý và nhiễm HIV. Vì thế mà kinh tế gia đình sa sút, anh thường xuyên cờ bạc rượu chè, chị Hoa động viên chồng đi cai nghiện nhưng không thành công, do dó mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng và quyết định đi tới việc ly hôn .
Nguyên nhân do vợ chồng không có con, năm 2004 có một vụ. Trên thực tế số vụ án về ly hôn mà vợ chồng không có con không phải là ít, thế nhưng từ lý do không có con mà mâu thuẫn giũa vợ chồng phát sinh dẫn tới việc ly hôn với lý do khác.
Ví dụ sâu đây điển hình về không có con: Ngày 23 tháng 04 năm 2004 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã thụ lý vụ án xin ly hôn giữa anh Võ Văn Hoà và chị Lê Thị Hằng, hai bên xin ly hôn với lý do là giữa hai vợ chồng sau 3 năm sinh sống với nhau mà không có con, chị Hằng đi khám và chữa bệnh nhiều lần nhưng mà vẫn không có khả năng sinh con do vậy mà cả hai vợ chồng trở nên mâu thuẫn
nhau và cả hai bên đều thống nhất thuận tình ly hôn.
Nhìn chung các nguyên nhân dẫn tới các vụ ly hôn ở huyện Cẩm thuỷ là rất đa dạng, không phải mỗi vụ án ly hôn chỉ đơn thuần một nguyên nhân mà nó là tổng thể các nguyên nhân, có khi vì không có con cho nên dẫn tới mâu thuẫn và thường cộng thêm vào đó là ngoại tình, hoặc do khó khăn về kinh tế dẫn tới bỏ nhà ra đi và hệ quả đó là mâu thuẫn gia đình và ly hôn. Có thể đánh giá tỷ lệ % giữa các nguyên nhân dẫn tới ly hôn trong hai năm 2005-2006 bằng bảng số liệu sau:
Đơn vị: %
Mâu thuẫn
gia đình
Ngoại
tình
Bỏ nhà
đi
Không
con
Nghiện
ma tuý
Đang Thi
hành án
2005
84.6
2.56
15.3
0
0
0
2006
52.0
4.0
28.0
4.0
8.0
4.0
Bảng 4
PHẦN IV. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
Nhận xét
Ly hôn và thực trạng ly hôn ở Quảng Ninh đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức thiết đòi hỏi các cấp, các ngành chức năng phải quan tâm hơn để có thể hạn chế những tác động của việc ly hôn đến đời sống xã hội trong huyện. Qua một thời gian thực tập tiếp xúc với thực tế, tìm hiểu về thực trạng ly hôn cũng như là công tác giải quyết các vụ án ly hôn của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh em thấy rằng trong những năm gần đây số vụ án về ly hôn ngày càng nhiều và luôn ở mức trên 20 vụ mỗi năm. Đặc biệt là năm 2003 số vụ án về ly hôn là 39 vụ, so với các huyện khác trong tỉnh đây là con số khiêm tốn nhưng so với một địa bàn miền núi như huyện Cẩm thuỷ thì đây lại là một con số khá cao. Mặt khác án về ly hôn lai chiếm một phần lớn các loại án mà Toà án thụ lý và giải quyết. Đặc biệt những tháng đầu năm 2006 số vụ án về ly hôn trên địa bàn huyện tăng đột biến 12 vụ ( Đây là con số thống kê chưa chính thức). Thực trạng này là đáng báo động đòi hỏi phải có những biện pháp để hạn chế.
Với quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin nhìn nhận vấn đề ly hôn ở hai mặt, tác động tích cực của việc ly hôn đến cuộc sống của đương sự, cũng như tác động tích cực của nó đến mọi mặt của đời sống. Tuy nhiên việc ly hôn củng có những ảnh hưởng tiêu cực đến các quan hệ xã hội nói chung, trong đó có quan hệ về hôn nhân. Là một địa phương như Cẩm thuỷ, điều kiện kinh tế còn kém phát triển, nhận thức của người dân còn hạn chế, còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến, nho giáo. do vậy hiện tượng ly hôn lại càng có những tác động mạnh mẽ hơn. Cụ thể nó được thể hiện ở hai mặt.
1. Những tác động tích cực của việc ly hôn đến đời sống xã hội của tỉnh.
Ly hôn là giải pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng, khi mà cả hai vợ chồng đều không tìm được hướng giải quyết cho mâu thuẫn của mình. Trong quan hệ hôn nhân cả vợ, cả chồng đều hướng tới xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc, vợ chồng thương yêu, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình. Vì thế khi mà giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống của gia đình luôn căng thẳng, mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là một giải pháp tối ưu, giải thoát cho nhau khỏi sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ đối với nhau, tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng có thể tìm cho mình một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, tránh được những xung đột, bạo lực trong gia đình. Đó chính là nền tảng và là cơ sở quan trọng để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, góp phần vào việc ổn định xã hội, tạo điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế gia đình cũng như là phát triển kinh tế xã hội chung trong toàn huyện, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Mặt khác khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thường luôn đi kèm theo những hành vi chửi bới, lăng nhục, thậm chí còn đánh đập hành hạ nhau, đó là những hành vi vi phạm quyền con người, vi phạm những điều cấm của pháp luật mà hậu quả chủ yếu của nó là do người phụ nữ phải gánh chịu, từ đó dẫn đến tình trạng mất an ninh
làng xóm, thôn bản. Để có thể khắc phục được những hậu quả đó thì ly hôn là một giải pháp.
2. Những tác động tiêu cực của việc ly hôn đến đời sống của tỉnh
Ngoài những mặt tích cực mà việc ly hôn mang lại thì ly hôn cũng có những mặt tiêu cực của nó, đó là quan hệ vợ chồng chấm dứt, mặc dù là quan hệ giữa cha mẹ và con không vẫn tồn tại, nhưng khi cha mẹ ly hôn nó tác động rất xấu đến tâm lý của những đứa trẻ. Con người, đặc biệt là trẻ em rất cần cho mình một mái ấm gia đình, có điều kiện học hành…, mà ở đó các thành viên thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thông thường khi ly hôn những người con không có nhiều sự lựa chọn cho cuộc sống sau này. Mặt khác khi ly hôn các quan hệ về tài sản không phải mọi trường hợp đều phát sinh, tuy nhiên khi phat sinh mà giữa các bên không thống nhất được cách giải quyết mà phải nhờ đến sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thường rất phức tạp, rất nhiều trường hợp nó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác, mặt khác nó gây tốn kém cho nhà nước. Những tác động này gián tiếp hoặc trực tiếp nó có tác động đến đời sống gia đình cũng như đời sống xã hội của huyện, gây mất trật tự xã hội từ đó phát sinh các tệ nạn xã hội khó lường trước.
II. Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh .
Qua việc ngiên cứu đề tài “ Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại địa phương nơi thực tập” của chuyên đề thực tập cuối khoá của một sinh viên luật, với vốn kiến thức hiểu biết của mình, cũng như là những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống hằng ngày, em đưa ra một số những giải pháp để nhằm hạn chế ly hôn ở tỉnh Quảng Ninh nơi em thực tập tốt nghiệp. Khi đưa ra những giải pháp này em không có tham vọng gì nhiều mà chỉ mong các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở địa phương có những giải pháp hạn chế ly hôn, và những người quan tâm có thể hiểu được một phần nào đó thực trạng của vấn đề đang đạt ra bức thiết ở địa phương. Cụ thể cần một số giải pháp sau:
1. Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật về hôn nhân gia đình.
Nâng cao dân chí nói chung, nâng cao ý thức pháp luật nói riêng là
định hướng chiến lược của Đảng và nhà nước ta, nhất là trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Với trình độ dân trí nhìn chung còn thấp và không đồng đều giữa các vùng trong huyện thì công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nhất là luật hôn nhân và gia đình gặp không ít những khó khăn. Tuy nhiên để góp phần hạn chế được tình trạng ly hôn ngày càng nhiều ở Quảng Ninh trong những năm vừa qua, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của việc ly hôn đến đời sống xã hội thì tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật về hôn nhân gia đình là một trong những giải pháp hữu hiệu. Ví dụ: có những vụ ly hôn do một bên hoặc cả hai bên vợ chồng không có sự hiểu biết đầy đủ về quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của họ đối với gia đình, với các thành viên trong gia đình như không chăm sóc vợ con khi ốm đau, không yêu thương đùm bọc lẫn nhau, dẫn đến những mâu thuẫn không đáng có từ đó dẫn tới ly hôn. Để có thể giúp được các cặp vợ chồng hiểu được quyền cũng như là trách nhiệm của mình đối với gia đình thì cần phải có những hình thức tuyên truyền, phổ biến luật hôn nhân và gia đình một cách phù hợp như phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng với các cơ quan chuyên môn, có như vậy công tác tuyên truyền mới đạt hiệu quả cao.
2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_tien_ap_dung_can_cu_ly_hon_6151.doc