MỤC LỤC
Lời cam đoan của sinh viên thực hiện chuyên đề Trang
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ
Lời mở đầu . . 8
Phần I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG . 9
1. Khái niệm về xuất khẩu lao động .9
2. Phân loại xuất khẩu lao động .10
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động .15
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến bên cung ứng lao động . .15
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng của bên tiếp nhận lao động .20
4. Quy trình tổ chức xuất khẩu lao động . .23
5. Hiệu quả của xuất khẩu lao động .26
6. Sự cần thiết phải xuất khẩu lao động .27
Phần II: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở HUYỆN LẬP THẠCH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2002 – 2007 29
I. Các đặc điểm của huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc có ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động . . 29
1. Đặc điểm về tự nhiên . 29
2. Đặc điểm về kinh tế . .30
3. Đặc điểm về xã hội .31
II. Đánh giá tình hình xuất khẩu lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2002 - 2007 .32
1. Kết quả xuất khẩu lao động ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2002 - 2007 . . . .32
2. Tổ chức bộ máy xuất khẩu lao động . .38
3. Hình thức và quy trình xuất khẩu lao động . 41
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động ở địa phương.44
5. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu lao động ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2002 – 2007 . 46
Phần III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở HUYỆN LẬP THẠCH TỈNH VĨNH PHÚC TRONG THỜI GIAN TỚI . . 61
Kết luận và kiến nghị .72
Phụ lục . 73
Tài liệu tham khảo . . . 79
78 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá tình hình xuất khẩu lao động của huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2002 – 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o động giai đoạn 2002-2007)
Từ năm 2002 đến năm 2007 huyện Lập Thạch đã đưa tổng số 1560 người đi xuất khẩu lao động, hiện nay huyện đang có trên 700 lao động đang làm việc ở nước ngoài, trong đó có 38% là lao động nữ, hàng năm gửi về huyện trên 10 tỷ đồng. Thị tường lao động chủ yếu là: Malaisia chiếm 67,92%, Đài Loan 26,60% (đây là những thị trường có yêu cầu không cao, chi phí xuất khẩu lao động thấp nên rất phù hợp với lao động của huyện Lập Thạch), Hàn Quốc 3,03%, Nhật Bản 2,30% còn lại là thị trường Singapore, Trung quốc, Quatar, Arap xê út…
Biểu 2.2: biểu đồ về số lượng người đi xuất khẩu lao động qua các năm từ 2002-2007 của huyện Lập Thạch
(Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Lập Thạch tổng kết 5 năm công tác xuất khẩu lao động giai đoạn 2002-2007)
Qua bảng 2.1 và biểu 2.2 ở trên ta thấy: số lượng người đi xuất khẩu lao động từ năm 2002 đến năm 2007 có sự tăng, giảm rõ rệt, từ năm 2002 đến 2004 tăng lên rất nhanh, đặc biệt năm 2003 là 308 người vượt kế hoạch đề ra 8 người (chiếm 2,60%) và năm 2004 là 386 người vượt kế hoạch 86 người (chiếm 28,6%). Trong khi đó từ năm 2005 đến năm 2007, đặc biệt là năm 2005 chỉ có 172 người đi xuất khẩu lao động đạt 57,33% so với kế hoạch đề ra, năm 2006 có 285 người đi xuất khẩu lao động đạt 95,3% kế hoạch, năm 2007 có 210 người đi xuất khẩu lao động đạt 70% so với kế hoạch. Sở dĩ có hiện tượng tăng, giảm số người đi xuất khẩu lao động qua các năm là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất trong 3 năm đầu thực hiện công tác xuất khẩu lao động (2002 – 2004) số người đi xuất khẩu lao động tăng cao là do cơ chế, chính sách quy định còn chưa chặt chẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp được phép tham gia hoạt động xuất khẩu lao động, hơn nữa phong trào xuất khẩu lao động trong những năm đầu thực hiện chủ trương nên rất sôi nổi và thu hút được nhiều lao động tham gia.
Thứ hai trong 3 năm sau ( 2005-2007) số lượng nười đi xuất khẩu lao động giảm mạnh, đặc biệt là năm 2005 nguyên nhân chủ yếu là do đầu năm 2005 thị trường Malaysia thông báo ngưng tiếp nhận lao động nước ngoài trong đó có Việt Nam, thị trường Đài Loan ngưng tiếp nhận lao động giúp việc gia đình dẫn đến lao động không đăng ký tham gia xuất khẩu lao động hoặc đã dăng ký nhưng không thể xuất cảnh được. Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa là một số gia đình vay vốn đi xuất khẩu lao động không chịu trả nợ hoặc trả không đúng kỳ hạn nên ngân hàng không muốn cho vay, vì vậy chỉ những gia đình có điều kiện kinh tế mới có thể tham gia xuất khẩu lao động. Mặt khác tỉnh Vĩnh Phúc trong một vài năm gần đây đã có sự phát triển kinh tế vượt bậc thu hút được nhiều nhà đầu tư, tạo ra nhiều chỗ làm mới trong đó có lao động của huyện Lập Thạch tham gia, do đó mà số lao động của huyện Lập Thạch đi xuất khẩu lao động cũng giảm.
Theo báo cáo của Phòng Nội vụ- LĐTBXH huyện thì lao động của huyện Lập Thạch đi xuất khẩu lao động chủ yếu làm việc trong các ngành nghề sau: dệt may, điện tử, cơ khí, sản xuất đồ nhựa, đồ gỗ, trang trí nội ngoại thất, xây dựng, giúp việc gia đình… đây là những ngành nghề đòi hỏi trình độ không cao, rất phù hợp với lao động là người Lập Thạch hơn nữa cũng cho mức thu nhập khá.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn một số tồn tại chẳng hạn như số lao động của Lập Thạch đi xuất khẩu lao động vi phạm HĐLĐ, bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn và cư trú bất hợp pháp tuy không nhiều nhưng cũng ảnh hưởng đến kết quả chung. Số lao động về nước trước thời hạn tính đến tháng 12/2007 theo báo cáo của BCĐ xuất khẩu lao động huyện là 235 người trong đó 65 người do đau ốm, 105 người do hoàn cảnh gia đình, 40 lao động ít việc làm thu nhập thấp hoặc nhà máy đóng cửa nên phải về nước hoặc xin về nước. Đặc biệt số lao động chết và mất tích tại nước ngoài (chủ yếu là tại Malaysia) là hơn 10 người.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do quá trình tuyển tuyển lao động ồ ạt, không chú ý đến chất lượng; thị trường lao động Malaysia có rất nhiều lao động từ nhiều nước đang làm việc mà chủ yếu là lao động phổ thông, do đó việc bất đồng ngôn ngữ, cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến ẩu đả gây tử vong hoặc sự hoạt động của các băng nhóm tội phạm, tai nạ giao thông hơn nữa nhiều lao động do không am hiểu thị trường, thiếu thông tin cần thiết kỳ vọng quá nhiều vào xuất khẩu lao động nên khi thực tế không đúng như mong muốn nên đã tự ý rút lui hoặc do dư luận không tốt về xuất khẩu lao động ở địa phương như lao động khổ cực, chủ sử dụng lao động nhẫn tâm, thu nhập thấp, làm vợ bé… làm cho gia đình ngán ngại phải gọi người thân trở về nước trước thời hạn.
Tuy nhiên những kết quả đáng buồn trên chỉ là một phần rất nhỏ so với lợi ích mà xuất khẩu lao động đem lại. Hiện tại theo báo cáo của Phòng Nội vụ-Lao động TBXH thì nhu cầu đi xuất khẩu lao động của người dân trong huyện là rất đông khoảng từ 600 – 900 lao động/năm trong khi đó thực tế hoạt động xuất khẩu lao động mới chỉ đạt hoặc chưa đạt kế hoạch đề ra là 300 lao động/năm. Nguyên nhân của việc không đáp ứng được nhu cầu thực tế là do số doanh nghiệp được phép tham gia hoạt đông xuất khẩu lao động trên địa bàn huyện còn rất ít, năm 2002 mới có 2 doanh nghiệp và đến nay đã có 12 doanh nghiệp được phép hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn huyện, sự phối hợp công tác trong hoạt động xuất khẩu lao động còn rất hạn chế, quan liêu, thủ tục rườm rà, đặc biệt là thủ tục vay vốn ngân hàng, các chính sách hỗ trợ đến với người lao động còn chậm thay đổi, chưa kịp thời hoặc không đầy đủ. Chính từ những hạn chế thực tế không đáp ứng được nhu cầu này mà xảy ra hàng loạt tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động như:
Các doanh nghiệp không có chức năng, không có giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động lợi dụng sự thiếu thông tin, kém hiểu biết cộng với tâm lý người lao động muốn được nhanh chóng xuất cảnh tránh thủ tục phiền hà hoặc là lao động thiếu tiêu chuẩn để tiến hành lừa đảo xuất khẩu lao động gây hậu quả nghiêm trọng làm thiệt hại về kinh tế, mất ổn định về xã hội hoặc tiến hành các hoạt động xuất khẩu lao động bất hợp pháp như xuất khẩu lao động bằng con đường du lịch, thăm thân, đăng ký kết hôn giả với người nước ngoài…
Hiện tại theo đánh giá của BCĐ xuất khẩu lao động huyện Lập Thạch thì số người đi xuất khẩu lao động không qua đăng ký với BCĐ là rất nhiều chủ yếu băng 2 con đường sau:
Đi theo sự dẫn dắt của người nhà đang làm việc tại nước ngoài.
Những người đã hết hạn HĐLĐ nhưng cố tình ở lại để làm việc hoặc đã về nước nhưng do có sự quen biết từ trước nên tiếp tục đi xuất khẩu lao động mà không qua bất kỳ một tổ chức nào. Những người đi xuất khẩu lao động theo con đường này thì mức độ rủi ro rất lớn, khi xảy ra tranh chấp thì lại không được pháp luật bảo vệ và phần thiệt thòi luôn luôn về phía người lao động.
2. Tổ chức bộ máy xuất khẩu lao động.
Căn cứ kế hoạch số 2042/KH-UB ngày 12/01/2002 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc xuất khẩu lao động, chủ tịch UBND huyện Lập Thạch đã ra Quyết định số 790/QĐ-CT ngày 06/02/2002 về việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động huyện Lập Thạch giai đoạn 2002-2007 trực thuộc UBND huyện Lập Thạch quản lý.
Sơ đồ 2.3: Tổ chức bộ máy làm công tác xuất khẩu lao động
ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc
UBND TỈNH
BCĐ XKLĐ TỈNH
SỞ LĐ-TBXH
DN XKLĐ
BCĐ XKLĐ XÃ, TT
BCĐ XKLĐ HUYỆN
UBND XÃ, TT
UBND HUYỆN
(Nguồn: theo Quyết định số 4117/QĐ-CT ngày 11/01/2002 của chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc thành lập bộ máy xuất khẩu lao động gai đoạn 2002-2007 và Quyết định 790/QĐ-CT ngày 06/02/2002 của Chủ tịch UBND huyện Lập Thạch về việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động huyện)
Thành phần bao gồm 11 nhân viên trong đó có 1 nhân viên là Phó chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, 1 nhân viên là Trưởng phòng TC-LĐTBXH làm phó ban thường trực và 09 nhân viên là thủ trưởng của các cơ quan trong huyện làm uỷ viên đại diện cho các cơ quan như Công an huyện, TT y tế, ngân hàng, hội nông dân, đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ huyện, MTTQ huyện…
Nhiệm vụ chính của BCĐ là xây dựng quy chế hoạt động của BCĐ xuất khẩu lao động huyện, mục tiêu kế hoạch xuất khẩu lao động giai đoạn 2002-2007, phân công trách nhiệm cho từng thành viên phụ trách cụm xã, giám sát hoạt động của BCĐ xuất khẩu lao động các xã, thị trấn.
Nguyên tắc hoạt động của BCĐ xuất khẩu lao động là tập trung, dân chủ làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, gắn trách nhiệm từng thành viên BCĐ với chức năng nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình phụ trách.
Ngoài BCĐ xuất khẩu lao động huyện thì tổ chức bộ máy xuất khẩu lao động còn có BCĐ xuất khẩu lao động xã, thị trấn do Chủ tịch UBND xã, thị trấn làm trưởng ban và các đoàn thể tham gia BCĐ.
Như vậy: Tổ chức bộ máy làm công tác xuất khẩu lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc nói chung và huyện Lập Thạch nói riêng được triển khai đồng đều, trên diện rộng, có sự chỉ đạo từ tỉnh đến xã, phường và đến từng thôn xóm với đủ các thành phần tham gia và đều là lãnh đạo của các cơ quan liên quan như vậy là rất thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động của huyện.
Tuy nhiên trong triển khai hoạt động bộ máy tổ chức vẫn bộc lộ rất nhiều hạn chế như: quy chế hoạt động không rõ ràng chỉ ở mức chung chung tức là chưa gắn trách nhiệm cụ thể đến từng thành viên BCĐ dẫn đến sự phối hợp công tác giữa các thành viên trong BCĐ đại diện cho các cơ quan và doanh nghiệp xuất khẩu lao động không thống nhất, chưa có kế hoạch cụ thể hoặc quy trình xuất khẩu lao động thống nhất cho từng năm mà áp dụng một cách cứng nhắc không phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện, chưa dự báo được sự biến động của thị trường, ít chú ý đến việc tạo nguồn cho xuất khẩu lao động, công tác thông tin tuyên truyền ít được chú trọng, việc thu hút các doanh nghiệp được phép hoạt động xuất khẩu lao động về địa phương còn hạn chế, công tác thanh kiểm tra, giám sát còn bỏ ngỏ dẫn đến hàng loạt tiêu cực gây phiền hà cho người lao động, do đó người lao động đi xuất khẩu lao động nhiều nhưng không thông BCĐ theo một quy trình thống nhất. Mặt khác BCĐ chưa có kế hoạch, giải pháp sử dụng, giúp đỡ cho số lao động sau khi hoàn thành HĐLĐ về nước làm ăn hoặc sử dụng đồng vốn có hiệu quả mà coi đây là trách nhiệm các nhân dẫn đến bỏ phí một lực lượng lao động đáng kể cho sự phát triển kinh tế của huyện. Đây là những hạn chế trong hoạt động của tổ chức bộ máy, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động của huyện.
Sự hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, trong đó xuất khẩu lao động là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại đặc thù, mới chỉ bắt đầu được 5 năm nên huyện chưa có nhiều kinh nghiệm, phải cạnh tranh với nhiều lao động thuộc các khu vực khác nhau trong và ngoài tỉnh vốn có nhiều kinh nghiệm hơn. Mặt khác quy định BCĐ về số lượng ít, thành phần tham gia chưa đầy đủ, do đó không tạo ra được sự xã hội hoá trong công tác xuất khẩu lao động. Mặt khác chất lượng cán bộ trong bộ máy tổ chức làm công tác xuất khẩu lao động còn rất bất cập do phải làm việc ở chế độ kiêm nhiệm, trình độ chuyên môn không được đào tạo hoặc đào tạo không đúng chuyên môn, nhiều cán bộ vẫn không hiểu về xuất khẩu lao động cả lý luận lẫn thực tiễn mà chỉ biết thực hiện nhiệm vụ theo mệnh lệnh một cách thụ động.
3. Hình thức và quy trình thực hiện xuất khẩu lao động.
Hình thức xuất khẩu lao động chủ yếu của huyện Lập Thạch là cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài và đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu khoán công trình ở nước ngoài.
Công việc chủ yếu là công nhân cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến hải sản, xây dựng, lao động trên biển, giúp việc gia đình …
Thị trường trọng điểm là Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc…
Đối tượng chủ yếu là lao động phổ thông và thực hiện xuất khẩu lao động theo một quy trình sau:
Tuyển chọn người đi xuất khẩu lao động: do doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động tiến hành khi đã được sự đồng ý của BCĐ xuất khẩu lao động tỉnh, sau đó các đơn vị này sẽ làm việc trực tiếp với BCĐ xuất khẩu lao động huyện để thông báo số lượng, yêu cầu tuyển dụng và một số vấn đề khác. Sau đó BCĐ xuất khẩu lao động huyện sẽ thông báo xuống các xã, thị trấn trong huyện và BCĐ xuất khẩu lao động xã sẽ thông báo đến người lao động về yêu cầu tuyển chọn và lập danh sách số lao động đăng ký tham gia xuất khẩu lao động gửi lên BCĐ xuất khẩu lao động huyện để tổng hợp và BCĐ xuất khẩu lao động huyện sẽ gửi danh sách cho đơn vị được phép xuất khẩu lao động tiến hành tổ chức sơ tuyển.
Như vậy quá trình tuyển chọn qua nhiều khâu trung gian tạo điều kiện cho tiêu cực xảy ra, hơn nữa việc tuyển chọn không được chuyên nghiệp vì không có sự tham gia trực tiếp của đơn vị xuất khẩu lao động hơn nữa người lao động không nắm bắt được thông tin về đơn vị xuất khẩu lao động mà mình tham gia ký kết, từ hạn chế này mà người lao động muốn nhanh được xuất cảnh đã bỏ ra số tiền chi phí cao hơn gấp nhiều lần so với quy định đôi khi còn bị lừa đảo.
Đào tạo, giáo dục định hướng nghề nghiệp: sau khi các đơn vị xuất khẩu lao động tổ chức sơ tuyển số lao động đạt yêu cầu bắt buộc phải qua lớp đào tạo, giáo dục định hướng do đơn vị xuất khẩu lao động tổ chức, chủ yếu là đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng nghề nghiệp, kỷ luật lao động…; thời gian học từ 1,5 đến 2 tháng sau khi học xong sẽ được Cục quản lý lao động ngoài nước- Bộ Lao động – TB&XH cấp chứng chỉ; chi phí cho một khoá học không cố định từ 700 ngàn đồng đến 3,5 triệu đồng, mọi khoản chi phí này do người lao động tự lo và được UBND tỉnh hỗ trợ một phần là 350.000 đồng/một người được xuất cảnh theo Quyết định 4118/QĐ-CT ngày 11/11/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc về chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên qua tìm hiểu thực tế thì chi phí đào tạo, giáo dục định hướng của người lao động bỏ ra thường rất cao mà chưa chắc đã được đi xuất khẩu lao động; thời gian đào tạo ít, chất lượng đào tạo không được coi trọng từ đó dẫn đến hàng loạt vi phạm của người lao động, mặt khác kinh phí hỗ trợ của tỉnh không thay đổi từ năm 2002 đến nay trong khi biến động về giá cả trên thị trường luôn thay đổi, lạm phát tăng cao gây khó khăn cho người lao động.
Khám sức khoẻ: người lao động phải khám sức khoẻ tại bệnh viện đa khoa huyện, chi phí cho một lần khám sức khoẻ do người lao động tự chi trả theo quy định năm 2002 là 360.000 đ/người và hiện nay là 420.000 đ/người. Tuy nhiên thực tế việc thu lệ phí khám sức khoẻ vượt mức quy định còn phổ biến, việc xét nghiệm còn chậm kéo dài thời gian báo kết quả, gây phiền hà sách nhiễu cho người lao động; việc khám sức khoẻ thực hiện sau bước đào tạo giáo dục định hướng là không hợp lý gây thiệt hại lớn cho người lao động, bởi vì người lao động đã mất chi phí đào tạo nếu khám sức khoẻ không đủ điều kiện sẽ không được xuất cảnh, không được hỗ trợ chi phí đào tạo làm thiệt hại về kinh tế cho người lao động.
Thủ tục vay vốn ngân hàng và nộp lệ phí xuất khẩu lao động: người đi xuất khẩu lao động được chỉ định vay vốn tại ngân hàng NN&PTNT và ngân hàng chính sách xã hội theo Quyết định số 440/2001/QĐ-NHNN ngày 17/4/2001 của Thống đốc NHNH Việt Nam về việc cho vay đối với người lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài. Số tiền được vay tối đa là 80% chi phí xuất cảnh, nếu vay dưới 20 triệu đồng thì không phải thế chấp, lãi xuất tiền vay được tính theo quy định hiện hành và được UBND tỉnh hỗ trợ lãi xuất tiền vay ngân hàng là 0,25%. Theo quy định thì thủ tục vay vốn rất dễ dàng thuận tiện, đặc biệt là rất có lợi cho người nghèo muốn tham gia xuất khẩu lao động nhưng thực tế còn tồn tại rất nhiều vướng mắc như chính sách cho vay, chính sách hỗ trợ lãi xuất, quá trình làm thủ tục tại các ngân hàng cán bộ tín dụng còn gây phiền hà cho người lao động, hơn nưa người nghèo rất khó vay vốn.
Sau khi vay vốn người lao động phải nộp lệ phí xuất khẩu lao động theo quy định, mức nộp cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào thị trường và từng ngành nghề cụ thể. Tuy mhiên số tiền phải nộp thường cao hơn quy định là rất phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý người lao động muốn xuất cảnh nhanh, không am hiểu về thị trường và có vấn đề về sức khoẻ nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động vì vậy phải “chạy chọt”.
Thủ tục làm hộ chiếu: do Phòng PA 39 Công an tỉnh cấp, lệ phí theo quy định hiện hành của Bộ tài chính. Thực tế khi làm hộ chiếu người lao động phải trả cao hơn mức quy định từ 200 – 300 nghìn đồng/người.
Hoàn tất hồ sơ và chờ ngày xuất cảnh.
Nhìn chung quy trình xuất khẩu lao động của huyện Lập Thạch về mặt lý thuyết là phù hợp với quy trình. Tuy nhiên trên thực tế còn rất nhiều hạn chế, cụ thể:
Thứ tự tiến hành các bước trong quy trình là không hợp lý (khám sức khoẻ sau đào tạo giáo dục định hướng) gây nên sự thiệt thòi cho người lao động.
Quy trình xuất khẩu lao động chưa đầy đủ mới chỉ đề cập đến một phần của quá trình xuất khẩu lao động, còn phần người lao động làm việc ở nước ngoài khi xảy ra tranh chấp sẽ xử lý như thế nào? đặc biệt là sau khi người lao động hết hạn HĐLĐ trở về (hậu xuất khẩu lao động) chưa có một quy trình cụ thể để sử dụng đồng vốn có hiệu quả, sử dụng con người để không lãng phí nhân lực hoặc hỗ trợ người lao động gặp rủi ro.
Vai trò thực hiện kiểm tra, giám sát của BCĐ xuất khẩu lao động các cấp trong cả quá trình không được đề cập đến chính điều này đã tạo kẽ hở cho hoạt động xuất khẩu lao động bất hợp pháp và các thủ tục gây phiền hà, sách nhiễu ảnh hưởng đến người lao động vẫn diễn ra trên thực tế.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động ở địa phương.
4.1. Các yếu tố khách quan:
Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại đặc thù, mới chỉ bắt đầu được 5 năm nên huyện chưa có nhiều kinh nghiệm trong khi đó lại phải cạnh tranh với nhiều lao động trong cũng như ngoài tỉnh vốn có nhiều kinh nghiệm hơn và đã có các thị trường tiếp nhận lao động truyền thống.
Xu hướng và chính sách tiếp nhận lao động của các nước có sự thay đổi nhanh chóng, trong khi đó chính sách của nhà nước và hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như khả năng của huyện không theo kịp, còn bị động phụ thuộc.
Các điều kiện về tự nhiên không thuận lợi, kinh tế xã hội trong huyện còn chậm phát triển hơn so với các địa phương khác gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu lao động của huyện.
4.2. Các yếu tố chủ quan:
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với doanh nghiệp không thống nhất đẫn tới việc chậm chễ trong giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quan hệ lao động và dân sự ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Các doanh nghiệp được phép hoạt động xuất khẩu lao động ở huyện chưa đủ lực kể cả con người và vốn để khai thác các thị trường mới, trong khi đó việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động phát triển còn chậm, chính sách hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu lao động còn chưa phù hợp với địa phương, chưa đầy đủ, thủ tục còn rườm rà, số tiền hỗ trợ còn ít, cho nên không thu hút được nhiều người tham gia.
Bộ máy làm công tác xuất khẩu lao động thành phần tham gia không hợp lý, trình độ thì hạn chế do phải làm việc ở chế độ kiêm nhiệm, ít năng động trong hoạt động tìm kiếm đối tác có uy tín trong hoạt động xuất khẩu lao động, buông lỏng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động để cho các hiện tượng lừa đảo xuất khẩu lao động diễn ra thường xuyên gây ra tâm lý e ngại cho người lao động, gây mất uy tín cho các đơn vị làm ăn chân chính.
Thực hiện quy trình xuất khẩu lao động không hợp lý, vừa thiếu lại vừa yếu làm thiệt hại về kinh tế cho người lao động.
Bản thân người lao động về trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn còn rất hạn chế, sự va chạm với xã hội bên ngoài ít nên nhận thức về xuất khẩu lao động không đúng cho rằng đi làm việc ở nước ngoài là dễ kiếm tiền nên khi không đạt được mong muốn thường tỏ ra vô kỷ luật hoặc bỏ hợp đồng đi làm nơi khác.
Sự ủng hộ của người thân, gia đình và xã hội đối với nữ giới tham gia xuất khẩu lao động còn rất hạn chế, ấu trĩ đôi khi còn xuyên tạc sai sự thật làm cho nhiều người muốn tham gia nhưng lại sợi ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
Công tác đào tạo và chuẩn bị nguồn cho xuất khẩu lao động còn chưa tương xứng; công tác thông tin, tuyên truyền còn ít tập trung vào việc xây dựng nhận thức xã hội về xuất khẩu lao động hoặc đưa thông tin thiếu chính xác.
5. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu lao động ở huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2002–2007.
Theo báo cáo tổng kết 5 năm công tác xuất khẩu lao động giai đoạn 2002 - 2007 của UBND huyện thì người đi xuất khẩu lao động có thu nhập cao hơn gấp nhiều lần so với việc làm trong nước, đời sống bản thân và gia đình được cải thiện, góp phần giải quyết việc làm, XĐGN và phát triển kinh tế xã hội của huyện. Mặt khác trong quá trình làm việc ở nước ngoài người lao động được tiếp cận với phương pháp quản lý tiên tiến, tiếp thu công nghệ mới, có điều kiện nâng cao trình độ tay nghề, có tác phong làm việc công nghiệp vì “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”… để sau khi về nước có cơ hội tiến thân, lập nghiệp.
Để đánh giá một cách chính xác, chi tiết nên thông qua một số chỉ tiêu cụ thể sau:
a. Thông qua chỉ tiêu về số lượng người tham gia xuất khẩu lao động.
Theo báo cáo của Phòng Nội vụ - Lao động TBXH huyện tháng 12/2007 được thể hiện trong bảng 2.4 tổng hợp một số chỉ tiêu về xuất khẩu lao động từ năm 2002 – 2007 cho thấy:
Bảng 2.4: Tổng hợp một số chỉ tiêu về xuất khẩu lao động của huyện Lập Thạch từ năm 2002-2007
STT
Một số chỉ tiêu
Tổng số người
1
Số người đăng ký đi xuất khẩu lao động
5178
2
Số lao động đủ tiêu chuẩn tuyển chọn
3892
3
Số lao động tham gia học định hướng
2972
4
Số người được cấp hộ chiếu
1820
5
Số người đã xuất cảnh
1560
6
Số người đã hoàn thành HĐLĐ về nước
620
7
Số người về nước trước thời hạn
235
(Nguồn: Báo cáo của Phòng Nội vụ-LĐTBXH tháng 12/2007)
Số người đủ tiêu chuẩn tuyển chọn là 3892 người chiếm 75,2% so với tổng số người đăng ký đi xuất khẩu lao động là 5178 người, đây là tỷ lệ thấp điều đó chứng tỏ số người lao động không đạt yêu cầu vẫn còn cao, chủ yếu do trình độ và sức khoẻ không đáp ứng được yêu cầu của đối tác
Tỷ lệ số người đã xuất cảnh so với tổng số người đăng ký đi xuất khẩu lao động là 30,1% (1560/5178), một tỷ lệ quá thấp chứng tỏ rằng nhu cầu đi xuất khẩu lao động là lớn nhưng thực tế đi quá ít, điều đó chứng tỏ hoạt động nghiệp vụ về công tác xuất khẩu lao động của huyện là không hiệu quả.
Tỷ lệ số người đã xuất cảnh so với số lao động tham gia học giáo dục, định hướng là 52,4% (1650/2972), điều này chứng tỏ số người lao động mất tiền học giáo dục định hướng mà không được đi xuất khẩu lao động còn nhiều gây lãng phí về kinh tế cho người lao động nhìn chung là không hiệu quả.
Đặc biệt số người về nước trước thời hạn là 235 người chiếm 15,06% so với tổng số lao động đã xuất cảnh là cao, điều này chứng tỏ chất lượng lao động không cao nên sau khi làm việc tại nước ngoài đã không đáp ứng được yêu cầu, người lao động vi phạm nhiều, hay xảy ra tranh chấp… nguyên nhân có thể do chọn không đúng đối tượng, đưa đi không đúng thị trường hoặc do bên sử dụng lao động gây nên.
Ngoài ra để đánh giá xem người lao động của huyện phù hợp với thị trường nào nhất (thị trường có đông người lao động đang làm việc nhất) người ta còn chia tổng số người đi xuất khẩu lao động theo thị trường, theo chỉ tiêu này được thể hiện ở bảng tổng hợp số người đi xuất khẩu lao động theo thị trường. Ta có:
Thị trường Maylaysia có số lao động đông nhất 960 người chiếm 61,5% tổng người đi xuất khẩu lao động. Đài Loan có 415 người chiếm 26,6%; Hàn Quốc có 47 người chiếm 3,0%; Nhật bản có 36 người chiếm 2,3% còn lại các thị trường khác có 102 người chiếm 6,5%.
Bảng 2.5: Tổng hợp số người đi xuất khẩu lao động chia theo thị tường (nước/khu vực người lao động đang làm việc)
STT
Thị trường người lao động đang làm việc
Tổng số lao động
Trong đó: (chiếm %)
1
Malaysia
960
61,50
2
Đài Loan
415
26,60
3
Hàn Quốc
47
3,00
4
Nhật Bản
36
2,30
5
Khác
102
6,50
Tổng cộng:
1560
100,00
(Nguồn: Báo cáo của Phòng Nội vụ-LĐTBXH tháng 12/2007)
Thị trường Malaysia thu hút nhiều lao động tham gia, tuy thu nhập của người lao động không cao nhưng có nhiều thuận lợi là gần Việt Nam, nhu cầu sử dụng nhiều lao động, chi phí thấp, tuyển dụng dễ dàng, điều kiện làm việc, ăn ở tương đối tốt phù hợp với lao động là người Việt Nam. Theo Kế hoạch số 57/KH-UB ngày 13/2/2003 của UBND huyện Lập Thạch thì trong thời gian tới (từ năm 2003 trở đi) thị trường chủ yếu là tập trung khai thác ở hai nước Đài Loan và Malaysia, do đó thực tế như vậy là đúng hướng.
b. Thông qua chỉ tiêu tổng thu nhập/ thu nhập theo thị trường.
Qua 2 bảng số liệu bảng 2.6 và 2.7 ta thấy số tiền gửi về qua các năm tăng dần từ 10,5 tỷ đồng đến 22 tỷ đồng riêng năm 2004 số người đi xuất khẩu lao động đông nhất nhưng số tiền gửi về ít có thể là do 2 nguyên nhân cơ bản: người lao động gửi về bằng con đường khác mà không gửi qua Ngân hàng NN&PTNT và người đi xuất khẩu lao động sang thị trường có thu nhập thấp hoặc trung bình nhiều.
Bảng 2.6: Tổng hợp số tiền mà người lao động gửi về nước qua các năm
STT
Năm
Tổng số người
Tổng số tiền (tỷ đồng)
1
2002
199
10,5
2
2003
308
13,0
3
2004
386
12,0
4
2005
172
11,2
5
2006
285
22,2
6
2007
210
16,0
Tổng cộng:
1560
84,9
(Nguồn: Báo cáo của ngân hàng NN&PTNT huyện Lập Thạch tháng 12
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30483.doc