Chuyên đề Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp

MỤC LỤC

 

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT 3

MỞ ĐẦU 4

Chương I 7

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU 7

1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu 9

2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu 11

3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu 11

3.1. Vai trò 11

3.2. Đặc điểm 13

4. Phân loại nhu cầu đào tạo 14

5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường 15

5.1. Những nhân tố tích cực 15

5.2. Những nhân tố tiêu cực 16

6. Kinh nghiệm về đào tạo theo nhu cầu của một số nước và khu vực trên thế giới 17

6.1. Khu vực Đông Á 17

6.2. Châu Âu 22

6.3.Trung Quốc 22

Chương II 24

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 24

I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI 24

1.Quá trình hình thành 24

2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm 24

2.1. Chức năng 24

2.2. Nhiệm vụ 25

3. Nhân sự và cơ cấu tổ chức của trung tâm 26

II: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 29

1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động giáo dục đào tạo 32

2. Những tồn tại của nền giáo dục nước ta 36

3. Nguyên nhân của những tồn tại trên 43

3.1. Từ phía nhà trường và người học 43

3.2. Từ phía Nhà nước 46

Chương III 50

GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA 50

1. Giải pháp 50

2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010 64

KẾT LUẬN 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

 

 

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3098 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường; của Bộ, ngành trung ương, địa phương mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong mối quan hệ đa chiều này nhà nước đóng vai trò điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho cung cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung. Nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo theo nhu cầu, toàn ngành giáo dục đã có rất nhiều biện pháp để nhằm chuyển hướng nền giáo dục như phát động các phong trào thi đua giảng dạy, mới đây Thứ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã phát động phong trào: “hai không - Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội". Tuy nhiên từ trước đến nay vấn đề đào tạo theo nhu cầu xã hội chưa trở thành vấn đề chung của toàn xã hội do đó kết quả đạt được còn rất hạn chế và nhiều khi vẫn mắc phải những lỗi của nền giáo dục cũ. Nên một bộ phận không nhỏ sinh viên của chúng ta sau khi ra trường vẫn phải đứng trước thực trạng thất nghiệp hoặc có xin được việc cũng đa phần là trái ngành trái nghề. Và doanh nghiệp cũng phải chịu trận cùng khi muốn đến kỳ tuyển dụng phải đỏ mắt mới tìm được những người có thể đảm đương được công việc ở vị trí mà doanh nghiệp tuyển, thậm chí còn phải đào tạo lai.Tôi xin đơn cử một ví dụ trong lĩnh vực du lịch - một trong những lĩnh vực tạo ra đóng góp lớn cho GDP: Theo dự báo của ngành du lịch, đến năm 2010, nước ta sẽ tiếp đón từ 5,5 đến 6 triệu lượt khách du lịch và khoảng 25 triệu khách nội địa. Do vậy, nguồn lực sẽ cần đến 1,4 triệu lao động. Trong đó, lao động trực tiếp sẽ khoảng 350.000 người. So với con số lao động thực tại (tính đến cuối năm 2007) thì tỉ lệ tăng bình quân mỗi năm phải vào khoảng 8,5% (ước tính khoảng 19.000 người/năm). Trong khi đó, với tổng số cơ sở đào tạo du lịch của ta hiện nay chỉ có 70 cơ sở, có năng lực đào tạo cho khoảng 13.000 người mỗi năm (kể cả hệ đại học lẫn trung cấp). Và qua khảo sát thực tế, ngành cũng đưa ra nhận định: Tuy lao động của ngành phát triển nhanh về số lượng, nhưng chất lượng chưa đảm bảo, đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ, chưa theo kịp đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của hoạt động du lịch trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo nhận định từ phía Bộ GDĐT thì lao động có trình độ đã qua các lớp đào tạo du lịch từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học - lực lượng lao động trực tiếp phục vụ khách, trực tiếp cung cấp sản phẩm đến người tiêu dùng - chỉ chiếm chưa đến 20% lao động toàn ngành (19,8%). Trong đó, số lao động được đào tạo đại học và sau đại học của ngành chỉ chiếm 7,4% số lao động có chuyên môn về du lịch. Trong khi, quy mô tuyển sinh của các cơ sở đào tạo du lịch cũng ngày càng tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Theo Thứ trưởng Bành Tiến Long - Bộ GDĐT, tuyển sinh hàng năm ở các bậc đào tạo chỉ mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu đào tạo du lịch của xã hội và gần 80% nhu cầu thực tế của ngành du lịch. Điều này không chỉ xuất hiện trong ngành dịch vụ du lịch mà còn xuất hiện ở nhiều ngành nghề khác như ngành ngân hàng - tài chính các doanh nghiệp cũng rất vất vả để tìm được người đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Ví dụ: Một cán bộ Ngân hàng Quốc tế (VIB Bank) cho biết, cứ mỗi đợt tuyển dụng, VIB Bank lại nhận được hàng ngàn đơn ứng cử. Nhưng tỷ lệ trúng tuyển không cao, nhiều khi phải đăng tuyển nhiều lần cho một vị trí tuyển dụng mới chọn được người đạt yêu cầu. Phần lớn nhân viên mới đều cần thêm 2 - 6 tháng để đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ và kỹ năng làm việc. Tình trạng này hiện nay khá phổ biến ở các công ty khi có nhu cầu tuyển dụng. Như vậy công việc dành cho người lao động là rất lớn song chính người lao động đã bỏ mất cơ hội của mình. Sở dĩ lao động nước ta luôn gặp khó khăn trong vấn đề tìm việc làm phù hợp với những gì đã học và phù hợp với nhu cầu của nhà tuyển dụng chính là xuất phát từ hệ thống giáo dục của nước ta còn nhiều bất cập mà yếu tố chính là do giáo dục nước ta chủ yếu đào tạo cái mình có chứ không quan tâm đến cái thị trường cần. Hay nói cách khác cung và cầu lao động ở nước ta còn quá vênh. Một điều đáng buồn nữa là theo điều tra trong quý II/2007, nhu cầu lao động của 45/56 ngành nghề tăng cao đáng kể, tập trung vào những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn và trình độ cao. Trong khi đó, theo khảo sát, nếu nguồn cung tăng khoảng 30%, thì nhu cầu nguồn lao động lại tăng đến 142% so với quý trước. Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới (năm 2007) thì tại Việt Nam, khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng. TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN lý giải: “Bán cái khách hàng cần, thay vì bán cái mình có” là câu châm ngôn tưởng như đơn giản nhưng không phải dễ thực hiện. Bản chất của nó là các đơn vị đào tạo phải xuất phát từ phân tích nhu cầu của khách hàng trước khi bắt tay vào “sản xuất”. Và chất lượng của “sản phẩm” cũng do khách hàng đánh giá và quyết định. Thiết kế nội dung đào tạo hiện nay vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thiếu tư duy “định hướng khách hàng” và do đó chất lượng đào tạo cũng đương nhiên chưa đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng. Như vậy, kết quả quá trình đào tạo theo nhu cầu xã hội của nước ta trong thời gian qua chưa đạt được như mong muốn, vẫn còn nhiều mặt hạn chế mà chúng ta cần phải khắc phục kịp thời trong thời gian tới. Dưới đây tôi xin nêu ra một số thành tựu chúng ta đã đạt được cũng như những hạn chế còn vướng mắc. 1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động giáo dục đào tạo Trong nhiều năm qua cùng với các lĩnh vực khác của xã hội như y tế, văn hoá xã hội … đang thay đổi từng ngày theo nhu cầu của xã hội, giáo dục cũng có những bước chuyển mình thành công trong việc từng bước đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội cụ thể: Thứ nhất: Hệ thống giáo dục đào tạo nghề nghiệp bao gồm các trường đại học và cao đẳng, hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và hệ thồng các trường nghề đã đòng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế, cung cấp hang triệu lao động mỗi năm ở các trình độ khác nhau với số lượng ngày càng tăng, chất lượng dần được nâng cao. Thứ hai: Cơ cấu trình độ đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề đã được điều chỉnh. Năm 2000 tỷ trọng cơ cấu trình độ ĐH/CĐ/TCCN/CN là 1/0/0,7/1.1; tỷ lệ hiện nay là: 1/0,4/0,9/3,8. Nguồn nhân lực trình độ nghề tham gia lao động trực tiếp tăng nhanh. - Về số lượng: Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2000: năm 2001 – 2002 cả nước có 77 trường đại học, 114 trường cao đẳng và 252 trường TCCN . Năm 2005 – 2006 số trường đại học là 148 trường tăng 92%; cao đẳng 163 trường tăng 42,9%; TCCN là 284 trường tăng 12,7%. Số sinh viên, học sinh học trong các cơ sở đào tạo năm 2001 – 2002: đại học 763.256, cao đẳng 210.836, TCCN 271.175. Con số tương ứng năm học 2005 – 2006: đại học 1.087.813 tăng 42,53%, cao đẳng là 299.294 tăng 41,95%, TCCN là 500.252 tăng 84,47%. Khối dạy nghề hết năm 2006 cả nước có 262 trường dạy nghề và 599 trung tâm dạy nghề. Số học sinh học nghề dài hạn năm 2001 là 126.100, năm 2005 là 228.600 tăng 79.69% - Về chất lượng: Cơ bản nguồn nhân lực có trình độ đào tạo đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế và thị trường lao động. Nhiều chương trình đào tạo mới đã được mở và đưa vào áp dụng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của toàn xã hội như khoa học máy tính, cộng nghệ thông tin, tự động hoá, cơ điện tử, công nghệ cơ khí, nuôi trồng thuỷ sản, tài chính, ngân hang, các ngành dịch vụ và du lịch. Cho đến nay số chương trình đào tạo áp dụng đang được áp dụng trong các cơ sở ở các trình độ là: đại học 264, cao đẳng 126, TCCN 262 Thứ ba: Xuất hiện những nhân tố mới trong việc tăng cường gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động, đào tạo với thế giới việc làm, đào tạo với nhu cầu xã hội. Đó là mô hình đào tạo của các trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã cùng với đối tác Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thành lập trung tâm huần luyện hàng hải đạt tiêu chuẩn quốc tế, thành lập công ty liên doanh trong vận tải hàng hải. Hay như trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) với mô hình lien kết toàn diện với viện máy và dụng cụ Công nghệ (IMI), Bộ Công nghiệp trong việc đào tạo cử nhân ngành cơ điện tử cho toàn ngành công nghiệp. Mới đây mô hình phát triển chương trình đào tạo theo hướng nghề nghiệp của các trường Đại học NNI, Đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Nông lâm Huế, Đại học Nông lâm Tp.HCM … đã được thực hiện dựa trên kết quả điều tra và phân tích nhu cầu đào tạo, phân tích năng lực, phát triển chung chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động . Hay như gần đây nhất cuối tháng 3-2007, Trường ĐH Công nghệ thông tin (ĐHQG-HCM) đã có cuộc “bắt tay” rầm rộ với Microsoft để cùng đào tạo nhân lực. Trước đó mấy ngày, Khoa Kinh tế (ĐHQG-HCM) cũng “tay trong tay” với Công ty cổ phần Hoa Sen (Hoa Sen Corporation) bằng việc ký kết hợp tác chiến lược giữa đơn vị đào tạo với doanh nghiệp nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Trong những cái bắt tay này, phía trường cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị thực hiện liên kết, rồi đào tạo nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của đơn vị… Ngược lại, các đơn vị sẽ hợp tác với trường nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng cũng như sẽ hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học; tài trợ học bổng, các hoạt động phong trào, học thuật cho sinh viên. Và quan trọng nhất là các đơn vị này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên thực tập thực tế tại công ty. Tuy nhiên, tất cả những cuộc “bắt tay” như thế chỉ được coi như là nỗ lực đơn lẻ, một loại “giải pháp tình thế”, tuy được tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng nhưng vẫn chưa trở thành một giải pháp chiến lược Thứ tư: Một số mô hình phát triển nguồn nhân lực cấp quốc gia cũng đang được nghiên cứu áp dụng và nhân rộng như: Chương trình Kĩ sư, cử nhân chất lượng cao, Chương trình cử nhân tài năng, đặc biệt là Bộ đang triển khai chương trình tiên tiến nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiếp cận những công nghệ tiên tiến trên thế giới từ đó làm thay đỏi cơ bản chất lượng giáo dục đại học nói riêng và chất lượng giáo dục dạy nghề nói chung. Thứ năm: Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng là cơ sở và căn cứ để phát triển chương trình đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo xem có đúng là phù hợp nhu cầu xã hội hay không. Cho đến nay, một số tiêu chuẩn nghề nghiệp đã được xây dựng , ban hành và áp dụng thí điểm như: tiêu chuẩn giáo viên tiểu học được áp dụng thử nghiệm ở 10 tỉnh thành với 25000 giáo viên tiểu học; tiêu chuẩn năng lực kỹ thuật viên công nghệ thông tin ở trình độ TCCN đang trong giai đoạn phê duyệt và ban hành; năm 2006 tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường đại học đã được áp dụng cho 20 trường và dự kiến năm 2007 sẽ kiểm định các trường tiếp theo. Theo đó một số trường đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tổng thể và được cấp chứng chỉ ISO như: Đại học Hàng Hải Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001 – 2000 về lĩnh vực đào tạo hàng hải năm 2005; Đại học Đà Lạt – ISO 9001-2000 về tổ chức quản lý đào tạo năm 2005; Đại học Kinh tế Quốc Dân – ISO 9001-2000 về tổ chức và quản lý đào tạo năm 2005. Những nhân tố tạo nên những thành tựu: Để có được những thành tựu trên chúng ta không thể không nhắc tới những nhân tố góp phần tạo nên những thành công đó.Cụ thể: - Đường lối giáo dục đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chính sách đổi mới mà trực tiếp là chính sách đổi mới trong giáo dục đào tạo - Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập của dân không ngừng tăng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục. - Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh viên có nhiều cố gắng rất lớn, đại bộ phần thầy cô có tâm huyết, gắn bó với nghề. Các giáo viên vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh. - Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ hơn vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. 2. Những tồn tại của nền giáo dục nước ta Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền giáo dục nước ta còn tồn tại nhiều mặt cần được khắc phục kịp thời để sản phẩm của nền giáo dục nước ta nhạnh chóng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Thứ nhất: Nhiều trường đã đánh đồng quan điểm đào tạo theo nhu cầu là đào tạo những ngày đang “nóng”. Đây chỉ là giải pháp tạm thời cho nhu cầu hiện tại chứ không phải là cốt lõi của vấn đề đào tạo theo nhu cầu. Kết quả là nếu như những năm trước, các thí sinh chen chúc đua tranh vào các chuyên ngành y, dược, bách khoa ...rồi lại kinh tế, thương mại thì nay ưu tiên số 1 được chuyển qua các ngành “thị trường chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán”. Và “sàn” tuyển sinh năm nay dưới áp lực của “sàn chứng khoán” đã chuyển hướng qua “nguyện vọng cổ phiếu” với mong muốn… đáp ứng nhu cầu xã hội. Khi dân tình nô nức “lên sàn” thì các cơ sở đào tạo cũng vội vã trưng biển, dán thông báo đào tạo “cấp tốc” để sau 8 tuần học… là có thể đầu tư chứng khoán có lãi! Và dưới sức “nóng” này, trong những chương trình tư vấn tuyển sinh vừa qua, các trường ĐH, CĐ bỗng giật mình lo ngại một mùa hướng nghiệp mất cân đối khi số học sinh hỏi về ngành chứng khoán nhiều hơn các ngành học khác. Còn nhớ 5-7 năm về trước, một số trường kinh tế với quan điểm “đi tắt, đón đầu” đã cho mở các chuyên ngành đào tạo chứng khoán, song ngay lập tức bị xếp vào hạng “kém hấp dẫn” và phải đóng cửa vì không có hoặc có rất ít người học. Nhưng giờ gió đã chuyển hướng, ngành chứng khoán được các thí sinh chọn nhiều hơn bao giờ hết. Và các trường – không có một sách lược nhất quán từ nhiều năm trước – đã “thức thời” mở ngay chuyên ngành này dù giảng viên vừa thiếu lại vừa yếu. Liệu cảnh đua chen thi vào ngành chứng khoán có kịp bổ khuyết nguồn nhân lực đang bị hụt hẫng? PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Trưởng khoa Ngân hàng Trường ĐH Kinh tế TPHCM cho rằng chỉ trong 3 năm nữa, các công ty chứng khoán sẽ đủ nhân lực, nhu cầu sẽ chững lại. Bây giờ là “sốt” nhưng sau đó rất có thể xuất hiện tình trạng “thừa ảo” nhân lực. Và điều này cũng từng xảy ra đối với các ngành “nóng” một thời như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… dẫn đến kết cục bão hòa thị trường nhân lực. Theo đuổi ngành công nghệ sinh học trên cơ sở kỹ thuật hạt nhân, TS Lê Xuân Thám cho rằng, cái sự “làng nhàng” của cử nhân lĩnh vực sinh học hiện giờ là bởi có độ vênh giữa kiến thức thu nhận và thực tiễn phải cập nhật khi mà chúng ta chỉ lo phần “ngọn” với sự nhồi nhét, chồng chất thông tin trong khi phần “gốc” là khả năng tiếp cận, ứng dụng trong cuộc sống lại gần như không có. Đó cũng chính là cách lấy lượng đè chất và hậu quả là nguồn nhân lực thừa thì vẫn thừa mà thiếu vẫn hoàn thiếu: Nhân lực chất lượng cao thì thiếu trong khi dạng “bình dân” lại quá dư thừa. Hiện nay còn tồn tại một xu hướng nữa làm mất cân bằng giữa thầy và thợ đó là tình trạng sính bằng ĐH, nhà nhà, người người đua nhau cho con đi học ĐH để mong con mình đổi đời. Người ta rất sợ làm nghề vì lương thợ trung cấp quá thấp trong khi đó nước ngoài trả lương thợ có tay nghề nhiều khi cao hơn lương ĐH chỉ biết lý thuyết và nghiên cứu. Vì vậy ít người nghèo thích vào học trường nghề, mà chỉ muốn đi thẳng lên ĐH. Trong khi đó, phát triển kinh tế địa phương rất cần nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng hiện đại trong sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, các loại dịch vụ và chuẩn bị lao động xuất khẩu. Trong thời đại WTO, nhu cầu nguồn nhân lực tay nghề này quan trọng gấp nhiều lần hơn nguồn lao động lý thuyết hàn lâm từ các ĐH mà phải mất ít nhất 4 năm mới đào tạo được một ít phần trăm lao động ở mỗi địa phương. Do đó, chúng ta nên nhanh chóng điều chỉnh hành vi của con người để hướng con người đến với nhu cầu thực tế của nền kinh tế chứ không phải hư danh. Thứ hai: Phương thức giáo dục Nhìn lại phương thức giáo dục trước đây của nước ta, ai cũng thấy rõ nó còn quá nặng nề về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn. Vấn đề này không chỉ tồn tại ngay từ cấp học mẫu giáo mà còn kéo dài đến tận cấp bậc đại học. Hầu hết các tiết thực hành của học sinh, hay những buổi kiến tập, thực tập của sinh viên đại học, cao đẳng hầu như bị bỏ qua và thay vào đó bằng những giờ học khác hoặc không được hướng dẫn cụ thể đối với cấp đại học và cao đẳng. Dẫn đến tình trạng khá phổ biến là học sinh, sinh viên nước ta nắm lý thuyết rất tốt nhưng khi áp dụng vào thực tiễn thì lại không biết vận dụng. Đây là điều mà hầu hết các nước trên thế giới đã nhận thức và chuyển hướng theo phương thức đào tạo gắn với thực tiễn. Các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề mới chỉ tập trung vào đào tạo những gì trường có, chứ không quan tâm đến nhu cầu xã hội cần nhân lực gì. Thực tế, nhiều trường vẫn chỉ quan tâm đến số lượng sinh viên đầu vào, mà không cần biết ra trường có tìm việc làm theo đúng ngành mình đào tạo hay không, có đáp ứng được yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp không? Vì vậy, một tỷ lệ không nhỏ sinh viên tốt nghiệp hàng năm không đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc đúng theo trình độ của văn bằng được cấp. Đã vậy, kiến thức đó lại chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, của các doanh nghiệp. Song nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cũng một phần do chi phí đầu tư cho cơ sở vật trang và trang thiết bị còn quá hạn hẹp. Thêm vào đó nền giáo dục của nước ta còn thực hiện trên quy mô đại trà cũng còn khá nặng nề. Riêng ở Việt Nam, trong nhiều năm, do nhận thức “đào tạo để hình thành con người toàn diện”, nên thường có xu hướng đào tạo đại trà cho nhiều học sinh. Lượng kiến thức và kỹ năng cũng được cung cấp cho học sinh theo hướng mở rộng ra nhiều lĩnh vực ngày càng chiếm ưu thế hơn so với đào tạo chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng thuộc chuyên ngành hẹp. Chính vì thế, trong các cơ sở đào tạo hiện nay, việc cá biệt hóa đào tạo trong các trường học nếu có được thực hiện cũng luôn được gắn với việc đào tạo chung trên diện rộng, có vị trí thứ yếu hơn so với đào tạo đại trà theo kiểu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Điều này làm cho sinh viên khi ra trường có thể làm việc trong nhiều ngành nghề khác với ngành nghề được coi là chuyên ngành của mình, nhưng hầu hết đều chỉ phát huy tác dụng sau khi đã được bổ túc nghiệp vụ, tập huấn thêm về các kỹ năng, kiến thức chuyên ngành đặc trưng. Theo Bộ Giáo dục Đào tạo, khảo sát về việc làm của sinh viên (năm 2006) sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo cho thấy chỉ 50% sinh viên có việc làm khi tốt nghiệp, trong đó chỉ 30% là làm đúng ngành nghề đào tạo. Điều này cho thấy một thực trạng khá phổ biến hiện nay là đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội, sinh viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng từ đó gây lãng phí lớn cho bản thân người học, nhà trường và xã hội. Như vậy phương thức giáo dục cũ thực sự tồn tại quá nhiều những khiếm khuyết lớn cần được sửa đổi nhanh chóng để lao động của ta không còn là lỗi lo cho các doanh nghiệp khi mùa tuyển dụng đến. Hệ quả của một nền giáo dục chạy theo nhu cầu thị trường và thiếu những tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trước khi lựa chọn ngành nghề đó là một nền giáo dục với những sinh viên ra trường còn rất mơ hồ về ngành nghề minh học, còn nhiều băn khoăn về những kỹ năng cần có cho ngành nghề đó. Điều này khiến cho đội ngũ lao động tương lai tuy dồi dào song chất lượng không đáp ứng được nhu cầu xã hội, cung cầu lao động thiếu cần bằng. Cụ thể: Thứ nhất: Nguồn nhân lực sau đào tạo tuy có dồi dào song chất lượng còn cách xa so với nhu cầu của các doanh nghiệp Sinh viên của chúng ta mặc dù phải học rất nhiều thứ nhưng ít được thực hành nên khi đi làm “đụng” đến công việc đều phải học lại cái lẽ ra phải được chuẩn bị từ trong trường ĐH. Nghĩa là, khi hỏi vấn đề gì thì tất cả đều trả lời rất chuẩn bằng những… khái niệm và định nghĩa có sẵn trong giáo trình. Và chỉ dừng lại ở mức đó. Thêm nữa là họ rất rụt rè khi phải phát biểu, trình bày kế hoạch. Thêm nữa là khi đi thi tuyển trong túi hồ sơ của ai cũng có 2-3 chứng chỉ về trình độ vi tính và bằng C tiếng Anh nhưng sau khi kiểm tra thì số “tạm tuyển” chỉ đạt chưa tới 10%! Còn về các kỹ năng như soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức không gian làm việc, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng đàm phán và thuyết phục… thì lại rất kém và chỉ có mỗi cái tạm được là sức khỏe tốt. Còn riêng khoản “sinh ngữ” thì càng có nhiều điều để nói. Ngay như ông giám đốc Công ty Saigontourist cũng phải than vãn có tới 70% số sinh viên tốt nghiệp khoa ngoại ngữ… chỉ được cái giỏi nói tiếng Việt. Theo kết quả một cuộc điều tra của Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo thuộc ĐHQG TPHCM thì - mặt bằng trình độ sinh viên bắt đầu năm thứ 3 chỉ mới đạt trong khoảng 360 - 370 điểm TOEFL hoặc 3,5 điểm IELTS - đây là số điểm ở trình độ rất thấp so với thế giới. Và ở mức “sơ khởi” này, sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến mà chỉ tiếp nhận thông tin đơn giản. Đây là nguồn nhân lực có được từ các trường ĐH, CĐ, TCCN; còn ở tầm lao động giản đơn tình thế không có gì là khả quan. Ví dụ như: Đầu năm 2007, các KCN – KCX thành phố cần tuyển 10.000 lao động phổ thông cho các ngành dệt may, cơ khí và lắp ráp điện tử với mức lương khởi điểm ở mức 1 triệu đồng/người/tháng, song tìm đỏ mắt cũng mới kiếm ra 20% số lao động đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với chất lượng như vậy, nguồn nhân lực Việt Nam khó có sức “bơi” được tới con tàu “WTO”. Không chỉ có trong lĩnh vực kinh tế, thương mại các trường mới chú trọng chạy theo số lượng mà hầu hết ở tất cả các ngành nghề lĩnh vực nào đang “nóng” các trường đều liệt vào danh sách cần mở rộng quy mô càng lớn càng tốt. Điều này đã khiến cho sinh viên sau khi ra trường rất khó xin được công việc theo đúng chuyên ngành của mình, trong nước đã khó thì vươn ra nước ngoài còn khó hơn. Như trong một kỳ thi sát hạch CNTT của Hội đồng Sát hạch CNTT của các nước Châu Á ITPEC được tổ chức tại 7 nước Nhật Bản, Malaysia, Mông Cổ, Myanmar, Thái Lan, Philipins và Việt Nam mới đây cho thấy, cùng với độ khó của đề thi, tỷ lệ đạt của sinh viên các trường dạy nghề CNTT của Nhật Bản có thể đạt đến 70-80%, còn sinh viên các trường dạy nghề của Việt Nam chỉ có tỷ lệ đạt dưới mức 3%. Nguyên nhân của tình trạng trên là độ vênh còn quá lớn giữa hệ thống đào tạo và nhu cầu của ngành. Có thể thống kê một loạt những bất cập trong đào tạo, giáo dục CNTT hiện nay như: Phương thức, chương trình đào tạo chậm đổi mới, không phù hợp với yêu cầu, đặc thù ngành CNTT; Đào tạo chính quy có mức xã hội hoá thấp, không khai thông được nguồn lực đầu tư từ xã hội và tạo được động lực thúc đẩy sự đổi mới trong đào tạo... Tuy nhiên đây không phải là những bất cập chỉ có trong đào tạo CNTT mà nó là bất cập chung của nền giáo dục nước ta hiện nay. Thứ hai: Mất cân bằng trong cung cầu lao động Sự mất cân bằng này thể hiện rõ qua các con số: Cầu lao động năm 2007 tăng 7.097 điểm (tăng 67% so với năm trước đó). Trong khi đó, cung lao động chỉ tăng 22% so với năm 2006. Sự tăng mạnh về cung này là do sự phát triển kinh tế vượt bậc, Việt Nam tham gia vào WTO, đầu tư nước ngoài cả gián tiếp và trực tiếp tăng nhanh chóng... song chúng ta lại chưa có sự chuẩn bị trước về cung lao động thể hiện hệ thống giáo dục và đào tạo chưa kịp bắt nhịp với sự phát triển về kinh tế, các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị về nhân lực khi đất nước gia nhập WTO, chỉ sau khi gia nhập mới thấy được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên mới tìm những biện pháp giải quyết vấn đề lao động trước mắt chứ chưa thực sự có những biện pháp mang tính lâu dài. Đây là nguyên nhân khiến cho cung về lao động không theo kịp cầu. Sự mất cân bằng về cung cầu lao động còn thể hiện ở trong cụ thể từng ngành nghề. Hiện nay đang có xu thế phát triển mạnh các ngành nghề như kế toán, ngân hàng, chứng khoán nên người học đổ xô đi học nếu không học đại học, cao đẳng thì học trung cấp cũng được hoặc chỉ cần vài ba tháng với các trung tâm là có ngay một chứng chỉ theo đúng chuyên ngành nay. Song người học không thể hiểu rằng chỉ với lượng kiến thức có được trong vài tháng đó không thể đủ để có thể làm ngay được công việc này. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho rất nhiều sinh viên ra trường mỗi năm mà không thể tìm được công việc đúng chuyên ngành mặc dù nhu cầu xã hội là rất cần. Trong khi đó những chuyên ngành như may mặc, da giày, đồ gỗ, chế biến thuỷ sản rất cần nhiều người thì lại không được người học quan tâm do học sinh có tâm lý học xong ngành này phải làm việc ở gần rừng và biển nên ngại. Hàng năm rất nhiều công ty chế biến gổ xuất khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp.DOC