MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 3
1.1. Khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương 3
1.1.1. Vị trí địa lý 3
1.1.2.Điều kiện tự nhiên 3
1.1.3.Tình hình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương trong những năm gần đây 5
1.1.3.1. Cơ sở hạ tầng 5
1.1.3.2.Tình hình thu ngân sách nhà nước 8
1.2. Tình hình đầu tư phát triển trên địa bàn Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 8
1.2.1. Vốn đầu tư phát triển tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 8
1.2.2. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách và nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển 10
1.3. Tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004- 2008) 11
1.3.1. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương 11
1.3.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp giai đoạn (2004 -2008) 13
1.3.2.1. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ ngân sách địa phương 15
1.3.2.2. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ ngân sách trung ương 16
1.3.2.3. Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp từ dân cư và dân doanh 17
1.3.2.4. Vốn tín dụng đầu tư phát triển 19
1.3.2.5. Vốn FDI cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hải Dương giai đoạn (2004 – 2008) 20
1.3.3. Thực trạng đầu tư xét theo các tiểu ngành 21
1.4. Đánh giá tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn (2004 -2008) 24
1.4.1. Những thành tựu đạt được 24
1.4.1.1. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp gia tăng và có sự chuyển dịch hợp lý 24
1.4.1.2. Cơ sở hạ tầng được đầu tư một cách hoàn chỉnh và từng bước phát huy tác dụng. 32
1.4.1.3. Đầu tư vào nông nghiệp góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người nông dân 33
1.4.1.4. Thực hiện chương trình dự án trọng điểm trong phát triển nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể 34
1.4.2. Những hạn chế trong đầu tư phát triển nông nghiệp 36
1.4.2.1. Quy mô nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp còn nhỏ bé và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển 36
1.4.2.2.Cơ cấu nguồn vốn đầu tư chưa hợp lý 36
1.4.2.3. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức 37
1.4.2.4. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp còn nhiều yếu kém 38
1.4.2.5. Hiệu quả sản xuất của ngành nông nghiệp thấp 38
1.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên 39
1.4.3.1. Đất nông nghiệp nhỏ lẻ, phân tán là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển nông nghiệp Hải Dương 39
1.4.3.2. Những khó khăn từ phía nguồn lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp 41
1.4.3.3. Sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản thấp và không ổn định 42
1.3.3.4. Các dịch vụ hỗ trợ hỗ trợ nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp 43
CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 46
1.1. Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 46
1.1.1. Những mục tiêu, quan điểm, phương hướng phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020
1.1.1.1. Quan điểm phát triển nông nghiệp của tỉnh 46
1.1.1.2.Phương hướng phát triển nông nghiêp 47
1.1.1.3. Mục tiêu phát triển nông nghiệp 48
1.2. Bối cảnh kinh tế xã hội ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương 51
1.2.1. Nền kinh tế đang bước vào thời kỳ hội nhập, cạnh tranh 51
1.2.2. Các điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương 54
1.3. Nhu cầu vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn (2006 – 2020) 56
1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp Hải Dương 59
1.4.1. Đẩy mạnh việc tích tụ ruộng đất tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển nông nghiệp 59
1.4.2. Bố trí nguồn lao động hợp lý cho phát triển nông nghiệp 61
1.4.3. Tăng cường các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp
1.4.4. Chú trọng vào vấn đề tiêu thụ và chế biến các sản phẩm nông nghiệp 64
1.4.5. Tăng cường đầu tư vào khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp 65
1.4.6. Xây dựng và thực hiện các hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp 68
1.4.7. Rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch theo hướng tập trung cho các ngành có khả năng cạnh tranh cao 70
KẾT LUẬN 72
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3193 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àm việc, cơ sở chế biến, bảo quản, chuồng trại và đàn giống gốc của Trung tâm giống gia súc, trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng, các xí nghiệp thuộc giống cây trồng tỉnh.
1.4.1.3. Đầu tư vào nông nghiệp góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người nông dân
Hải Dương là một trong những tỉnh thuần nông và có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, lực lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp. Dù hiện nay cơ cấu lao động trong các ngành nghề đã có nhiều thay đổi nhưng số lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh vẫn chiếm một tỷ trọng cao.
Bảng 1.17: Lao động trong ngành nông nghiệp của tỉnh Hải Dương
giai đoạn (2004 -2008)
STT
Chỉ tiêu
Đv
2004
2005
2006
2007
2008
1
Tổng số lao động
Người
949165
956202
962357
974883
981235
2
Ngành nông nghiệp
Người
701130
674505
649544
625648
583200
3
Tỷ trọng
%
73,86
75,54
67,49
64,15
59,43
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương
Qua bảng trên ta thấy: tỷ trọng lao động làm trong ngành nông nghiệp Hải Dương đang có xu hướng giảm mạnh mẽ do tác động của việc di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ đáp ứng nhu cầu về lao động của 2 lĩnh vực này trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ ở tỉnh hiện nay. Tuy vậy tỷ trọng những người làm trong ngành nông nghiệp vẫn còn rất cao: cho tới năm 2008 là gần 60%. Như vậy là một bộ phận đông đảo người dân vẫn sống nhờ vào nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp không chỉ tạo ra hàng hóa sản phẩm cho người nông dân đem lại thu nhập mà còn là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày của họ.
Với việc hàng loạt các mô hình trang trại nông nghiệp sản xuất trên quy mô lớn như hiện nay đã làm tăng hiệu quả đầu tư và giải quyết được công ăn việc làm cho người nông dân, đồng thời thu nhập của họ cũng tăng lên. Người nông dân đã gắn bó với công việc của mình vì nó thật sự đem lại thu chính cho họ. Nông dân Hải Dương ngày nay không còn trồng trọt, chăn nuôi một cách thụ động mà luôn theo nhu cầu của thị trường. Không những vậy chính họ là những người tìm tòi, áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để đạt được năng suất cao nhất. Với tinh thần cần cù, chịu khó vốn có cộng với việc được tiếp thu những kiến thức về sản xuất nông nghiệp, thị trường nông sản người nông dân đã hoàn toàn tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tăng cường đầu tư vào nông nghiệp và có những chính sách, cơ chế phù hợp để phát triển ngành nông nghiệp phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất của nông dân. Chính là giải pháp cốt lõi giúp người nông dân gắn bó với công việc của mình tạo ra sự ổn định về xã hội đặc biệt là ổn định về nguồn lao động của các vùng nông thôn Hải Dương.
1.4.1.4. Thực hiện chương trình dự án trọng điểm trong phát triển nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể
Trong những năm qua Hải Dương đã tiến hành thực hiện chương trình “phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa” thông qua một số đề án sau:
- Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng để đạt hiệu quả cao giai đoạn 2006 -2010 đã làm tăng giá trị sản xuất/ha đất nông nghiệp đạt 37,2 triệu đồng (tăng 1,2 triệu so với giai đoạn trước đó), sản lượng lương thực tăng 3,9%, bình quân lương thực/ người/ năm đạt 479 kg (tăng 7 kg), hệ số sử dụng ruộng đất đạt 2,42 (tăng 0,17 lần so với giai đoạn trước). Chuyển đổi cơ cấu cây trồng diễn ra sôi động nhất trong nông nghiệp và đã tạo ra nguồn thu chủ yếu cho nông dân, góp phần quan trọng vào cải thiện đời sống và giảm nghèo kh vực nông thôn, một bộ phận nông dân đã có tích lũy để đầu tư sang cho chăn nuôi, thủy sản, chế biến nông sản…Việc đổi mới cơ cấu cây trồng theo hướng giảm diện tích lúa, tăng diện tích rau màu có giá trị kinh tế cao, phát triển cây ăn quả thu hút sự tham gia của các hộ nông dân ở tất cả các huyện, xã trên địa bàn tỉnh.
- Đề án phát triển chăn nuôi - thủy sản theo hướng tập trung nâng cao chất lượng – quy mô, đảm bảo vệ sinh môi trường.
Về chăn nuôi gia súc, gia cầm
Các loại gia súc, gia cầm đều tăng cả về đầu con và sản lượng thịt. Đàn bò: đạt 855.403 con tăng bình quân 3,8%/ năm, sản lượng thịt hơi đạt 976 tấn tăng bình quân 4,6%/năm. Đàn lợn: đạt 855.493 con tăng bình quân 6,6%/ năm, sản lượng thịt đạt 75.617 tấn (tăng bình quân 9,9%/năm). Đàn gia cầm mặc dù dịch cúm xảy ra liên tiếp nhưng đàn gia cầm hàng năm vẫn tăng 2,7%/năm về số lượng, sản lượng thịt gia cầm đạt 15.108 tấn tăng bình quân 7,1%/năm. Sản lượng các loại tăng bình quân 2,3%/năm. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được cải thiện rõ rệt đó là một yếu tố chủ yếu làm tăng chất lượng ngành chăn nuôi.
Về nuôi trồng thủy sản
Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 8.626 ha (tăng bình quân 3,5%/năm), sản lượng thủy sản đạt 28.258 tấn (tăng bình quân 19%/năm). Năng suất đạt 3,3 tấn/ ha. Hiện nay thủy sản là ngành sản xuất có hiệu quả kinh tế cao do đó đã được nông dân quan tâm và một thành tựu cơ bản của đề án này là đã chuyển được 2.534 ha ruộng đất trũng sang đào ao nuôi trồng thủy sản, mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 2 – 3 lần cấy lúa. Tạo ra một hướng phát triển kinh tế nông nghiệp lâu dài đem lại nguồn thu lớn cho người nông dân đồng thời giải quyết được vấn đề công ăn việc làm. Ngành thủy sản của Hải Dương đã được hỗ trợ đầu tư nhiều nên đạt được nhiều thành tựu đáng kể: ngoài những giống cá truyền thống đã được chọn lọc, nhân giống đáp ứng đủ nhu cầu con giống trong tỉnh thì những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt đã được đưa vào sản xuất phổ biến và là yếu tố chủ yếu nâng cao năng suất nuôi trong những năm qua. Diện tích nuôi trồng thủy sản đặc sản như baba, ếch, lươn, rắn… phát triển rộng khắp đạt trên 3000 tấn, góp phần đáng kể vào gia tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản. Một số vùng nuôi quy mô tập trung có diện tích từ 50 – 200 ha, như vùng thủy sản ở 3 xã Bắc sông Cửu An (huyện Ninh Giang), xã Tiên Động (Tứ Kỳ), xã Đoàn Kết (Thanh Miện)…Đây là những tiền đề để hình thành các vùng nuôi thủy sản công nghiệp trong tương lai.
Ngoài ra tỉnh Hải Dương cũng đang thực hiện chương trình kiến cố hóa kênh mương và hoàn thành quy hoạch tổng thể hệ thống thủy lợi đến năm 2020. Trong đó tập trung cho đầu tư hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ việc tưới tiêu nước. Và ưu tiên cho các trọng điểm thâm canh để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Một số chương trình như chương trình phủ xanh 5 triệu ha rừng, chương trình cánh đồng 50 triệu đồng/ha… được triển khai trên cả nước cũng được Hải Dương thực hiện tốt.
1.4.2. Những hạn chế trong đầu tư phát triển nông nghiệp
1.4.2.1. Quy mô nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp còn nhỏ bé và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
Giai đoạn 2004- 2008, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp Hải Dương chỉ đạt 6355,64 tỷ đồng, bằng 16% tổng vốn đầu tư của nền kinh tế (38930 tỷ đ) quá thấp so với mức bình quân của cả nước. Trong khi đó có tới 60% lao động làm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và trong giai đoạn này trung bình nông nghiệp đóng góp tới 16% giá trị sản xuất của toàn nền kinh tế trên địa bàn tỉnh. Điều này cho thấy quy mô nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp đang mất cân đối nghiêm trọng so với quy mô nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ. Nếu nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp không được tăng cường thu hút thì ngành nông nghiệp Hải Dương sẽ ngày càng tụt hậu hơn so với ngành công nghiệp và dịch vụ. Với quy mô vốn như vậy sẽ không thể đáp ứng được những đòi hỏi đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp để phục vụ sản xuất và không phát huy được những tiềm năng vốn có về sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm một tỷ trọng không lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp. Do vậy cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp đã yếu kém lại có bộ phận xuống cấp nhất là hệ thống thuỷ lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông sản, hệ thống trạm trại, nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Thiếu vốn đầu tư cho nông nghiệp nên khả năng tái tạo vốn rừng rất hạn chế, cả trồng rừng, nuôi rừng phát triển chậm. Xu hướng giảm sút ngành lâm nghiệp trong 5 năm qua 2004 -2008 có nguyên nhân thiếu vốn đầu tư từ ngân sách. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng quá nhỏ. Thiếu vốn trở thành thách thức lớn nhất đối với quá trình phát triển nông nghiệp ở Hải Dương theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường.
1.4.2.2.Cơ cấu nguồn vốn đầu tư chưa hợp lý
Đầu tư từ nguồn ngân sách (ngân sách địa phương và ngân sách trung ương) cho lĩnh vực nông nghiệp mặc dù chiếm tỷ trọng cao song chưa đáp ứng được khoảng yêu cầu phát triển.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân những năm qua vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước nguồn vốn đầu tư huy động từ khu vực ngoài nhà nước chưa giữ được vai trò chủ đạo. Vốn FDI vào khu vực nông nghiệp, nông thôn thấp mặc dù có xu hướng nhích dần lên nhưng rất chậm chạp chưa thu hút được các quốc gia lớn đầu tư vào nông nghiệp. Hiệu quả hoạt động của các dự án FDI chưa cao, triển khai chậm, nhiều dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh trong tình trạng kinh doanh thua lỗ.
Cơ cấu đầu tư từ nguồn ngân sách chưa thực sự hợp lý, mới quan tâm đầu tư cho đầu vào phục vụ phát triển sản xuất (đầu tư cho công tác giống, cho thuỷ lợi là chính) và chủ yếu là để phục vụ trồng lúa mà chưa quan tâm đến đầu ra của sản xuất, đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hóa, cho công tác bảo quản, chế biến sau thu hoạch, công tác thông tin thị trường, tăng cường tiềm lực quản lý nhà nước. Vì vậy, một số nông sản làm ra chất lượng chưa cao, chủng loại, mẫu mã chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường, giá thành vẫn cao hơn dẫn đến khả năng cạnh tranh khó khăn; tỷ lệ nông sản qua chế biến thấp, phần lớn hàng nông sản xuất khẩu vẫn là sản phẩm thô; tình trạng sử dụng kháng sinh, hóa chất trong sản xuất, chế biến nông sản gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm không kiểm soát được, vấn đề kiểm soát dịch bệnh cây trồng, vật nuôi còn gặp nhiều khó khăn.
Tình trạng đầu tư tự phát, không theo quy hoạch còn khá phổ biến, dẫn đến hậu quả tiêu cực về kinh tế và môi trường, một số sản phẩm được đầu tư nhiều vượt quy hoạch dẫn đến cung vượt cầu, giá cả sụt giảm, tiêu thụ khó khăn, gây thiệt hại cho chính người nông dân. Đặc biệt là những loại cây ăn quả ở tỉnh điệp khúc “trồng, chặt” vẫn còn diễn ra thường xuyên.
1.4.2.3. Đầu tư vào khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức
Tốc độ cơ giới hóa nông nghiệp ở Hải Dương diễn ra chậm chạp và chủ yếu được thực hiện bởi nông dân. Vai trò của nhà nước thường rất mờ nhạt. Các trung tâm cây con giống ở Hải Dương chưa thực sự đóng vai trò là nơi cung cấp nguồn giống chất lượng tốt cho bà con. Công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp diễn ra với quy mô nhỏ, mang tính hình thức chưa đóng góp nhiều vào sự chuyển biến nhận thức của người dân về nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp.
Việc đầu tư xây dựng, cải tạo các trung tâm cây con giống phục vụ nhu cầu sản xuất của bà con nông dân còn hạn chế. Các trung tâm này chưa đáp ứng được nhu cầu về cây con giống cho sản xuất của bà con. Dẫn tới tình trạng trên địa bàn tỉnh bà con nông dân vẫn trồng những loại giống cây năng suất thấp, con giống bị nhiễm bệnh ảnh hưởng tới chất lượng giá trị nông sản.
Trong nhiều khâu của quá trình sản xuất vẫn còn sử dụng lao động chân tay là chủ yếu. Dẫn tới năng suất lao động không cao, lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tới 60% lực lượng lao động nhưng chỉ đóng góp vào 20% giá trị sản xuất.
1.4.2.4. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp còn nhiều yếu kém
Hạ tầng nông nghiệp Hải Dương còn nhiều yếu kém, chưa thực sự tạo ra môi trường kinh tế cho các cơ sở kinh doanh nông nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, nhất là cạnh tranh về giá. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp đòi hỏi vốn lớn, thường vượt quá khả năng thanh toán của người nông dân, nhưng hiện nay hỗ trợ từ nguồn ngân sách địa phương và trung ương còn ít và bị thất thoát lãng phí nhiều. Ở Hải Dương hiện nay việc phát triển cơ sở hạ tầng được coi là một vấn đề cấp bách nhất là hạ tầng phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tăng đầu tư cho thủy lợi và tiêu thoát nước để khắc phục ngay những diện tích đất bị ngập úng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô khiến nông dân phải bỏ hoang đất. Mặt khác đầu tư vào cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp hiện nay mới chỉ chú trọng vào việc phục vụ sản xuất lúa. Cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật của ngành này và đảm bảo vệ sinh nguồn nước. Chính vì vậy ngành thủy sản ở Hải Dương hiện nay mang lại giá trị sản xuất thấp và chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
1.4.2.5. Hiệu quả sản xuất của ngành nông nghiệp thấp
Qua bảng 14 ta thấy sản xuất nông nghiệp hiện nay ở Hải Dương còn quá thấp, chưa tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Hiện nay đối với các hộ nông dân vẫn chỉ dừng lại ở sản xuất nhỏ tự phát chưa có sự liên kết giữa bốn: nhà nông, nhà khoa học, nhà nước và nhà doanh nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chất lượng, mẫu mã kém và ngành công nghiệp chế biến nông sản cũng hưa phát triển do vậy thường xuyên xảy ra hiện tượng giá cả nông sản biến động khôn lường, trồng ra không biết tiêu thụ đi đâu. Năm nào cũng có tình trạng ế thừa nông sản. Trong khi đó, xuất khẩu nông sản ở Hải Dương chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh khoảng dưới 1%. Chủ yếu là các mặt hàng nông sản thô.
Nhiều công trình thủy lợi, cơ sở sản xuất nông nghiệp xây ra để bỏ đó gây lãng phí nguồn vốn đầu tư. Trong khi đó nhiều vùng nhiều nơi hệ thống mương máng, tưới tiêu nước lại không có khiến nông dân phải bỏ hoang đất. Việc đầu tư vào ngành chăn nuôi của Hải Dương trong 5 năm gần đây gặp rất nhiều khó khăn. Dịch bệnh xảy ra liên tiếp nông dân trở tay không kịp, dịch bệnh này chưa qua dịch bệnh khác đã đến. Nhiều cơ sở chăn nuôi gia súc gia cầm của các hộ nông dân thua lỗ hàng chục tỷ đồng.
1.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên
1.4.3.1. Đất nông nghiệp nhỏ lẻ, phân tán là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển nông nghiệp Hải Dương
Đây không chỉ là vấn đề bức xúc của nông nghiệp tỉnh Hải Dương nói riêng mà cũng là thực trạng chung của ngành nông nghiệp Việt Nam. Mặc dù sau khi thực hiện đề án dồn ô đổi thửa, số thửa ruộng toàn tỉnh đã giảm 2,17 lần và diện tích trung bình một thửa ruộng đã tăng lên 2,1 lần, nhưng ruộng đất toàn tỉnh vẫn còn 1.370.049 thửa nằm trong 364.275 hộ nông dân, bình quân mỗi hộ 3,76 thửa, diện tích mỗi thửa bình quân 537m2. Điều này gây ra những khó khăn sau đây đối với đầu tư nông nghiệp:
Thứ nhất, với diện tích đất nông nghiệp manh mún như vậy rất khó có thể để tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Chính vì thế mà đầu tư vào cơ giới hóa và cải tiến công nghệ trong nông nghiệp tỉnh Hải Dương chiếm tỷ trọng nhỏ dẫn tới năng suất lao động trong nông nghiệp thấp. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn ở trình độ thủ công là chủ yếu. Năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng không đồng đều, khó khăn cho việc mua chế biến xuất khẩu, sức cạnh tranh trên thị trường yếu. Theo điều tra cho nông nghiệp, nông thôn và thủy sản 1/7/2006 trên địa bàn tỉnh Hải Dương, giá thành sản xuất lúa chiêm xuân là 1994 đ/kg, giá bán 2.594 đ/kg, lợi nhuận thu được khi sản xuất 1 kg lúa là 23,13%. Tổng thu 1 ha lúa đông xuân là 15,945 triệu đồng. lợi nhuận thu được là 3,571 triệu đồng/ ha – đây là mức lợi nhuận quá thấp. Phải nói một cách thẳng thắn rằng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp tỉnh đạt được một tỷ trọng cao như trên là do phần nhiều vào khai tài nguyên đất đai màu mỡ và nguồn lao động dồi dào ở địa phương. Giá trị mang lại từ khoa học công nghệ áp dụng trong nông nghiệp chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có của nó.
Thứ hai, điều này gây cản trở việc tổ chức sản xuất hàng hóa tập trung với quy mô lớn và như vậy không thu hút được một khối lượng vốn lớn cho phát triển nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp ở Hải Dương vẫn là một nền sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, manh mún. Tốc độc tăng trưởng kinh tế nông nghiệp thường thấp xa so với tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng và các ngành khác. Cơ cấu lao động nông nghiệp chuyển dịch chậm. Thêm vào đó, sản xuất nông nghiệp độ rủi ro cao. Do vậy nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài ít quan tâm đến lĩnh vực này. Diện tích canh tác bình quân đầu người chỉ đạt 437 m2. Mặc dù đã thực hiện xong việc dồn ô đổi thửa, số thửa ruộng toàn tỉnh đã giảm 2,7 lần, diện tích bình quân/thửa đã tăng lên 2,1 lần nhưng ruộng đất toàn tỉnh vẫn còn 1.370.049 thửa nằm trong 364.275 hộ nông dân, bình quân mỗi hộ là 3,76 thửa, diện tích mỗi thửa 537 m2. Điều này là khó khăn rất lớn trong việc tổ chức hàng hoá tập trung, đẩy mạnh việc cơ giới hoá và ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất. Mặc dù ở Hải Dương hiện nay đã xuất hiện các mô hình trang trại sản xuất tập trung nhưng các trang trại và gia trang này chủ yếu là quy mô nhỏ và không thuê người làm, chỉ chủ yếu là các thành viên trong gia đình tham gia sản xuất. Các trang trại có thuê người thì mới ở quy mô nhỏ dưới 10 người. Với quy mô nhỏ lẻ như vậy thì khó có thể quy hoạch được vùng nguyên liệu cung cấp cho các ngành chế biến nông sản, thực phẩm và ngành nông nghiệp phụ trợ. Khi mà những ngành này không phát triển được thì các sản phẩm nông nghiệp sẽ không tìm được đầu ra và việc sản xuất mãi trong tình trạng trì trệ.
Thêm vào đó là sự gia tăng của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã lấn hết đất sản xuất nông nghiệp. Rất nhiều những cánh đồng đất đai màu mỡ phù hợp với việc trồng lúa và rau màu gần đường giao thông nay đã quy hoạch thành những khu công nghiệp và chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở, sản xuất kinh doanh. Đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp lại dần và càng trở nên manh mún. Mặt khác những khu đất gần các khu công nghiệp cũng khó tiến hành gieo cấy, trồng trọt vì bị ô nhiễm bởi nước thải do các khu công nghiệp, nhà máy được xây dựng cạnh đó xả ra gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
1.4.3.2. Những khó khăn từ phía nguồn lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp
Mặc dù nguồn lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh Hải Dương hiện nay chiếm tới 60% trong tổng nguồn lao động của tỉnh nhưng số lao động này chủ yếu là những người trên 40 đa phần là phụ nữ và những người không thể đi làm việc tại những khu công nghiệp hoặc lên thành phố tìm việc. Vì vậy chất lượng của nguồn lao động này là rất thấp và khả năng nắm bắt thông tin thị trường cũng như áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp của họ bị hạn chế rất nhiều. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của ngành nông nghiệp, với nguồn lao động kém như vậy thì ngành nông nghiệp tỉnh Hải Dương sẽ khó có những bứt phá trong tương lai.
Ruộng đất bình quân theo đầu người thấp chỉ đạt 988 m2 đất canh tác/1 lao động nông nghiệp. Sức ép về dân số và nhu cầu về việc làm rất lớn. Thu nhập bình quân đầu người trong nông thôn còn ở mức thấp và tăng chậm. Chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp chưa cao lao động qua đào tạo, bình quân mới đạt 17,8% so tổng số lao động nông nghiệp. Điều đó đã hạn chế đến sức tiêu thụ hàng công nghiệp, làm chậm tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Mặc dù tỉnh Hải Dương đã chú ý đến việc tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho nông dân nhưng mới chỉ dừng lại ở việc tập huấn kỹ thuật sản xuất đơn lẻ, ít quan tâm đến bồi dưỡng kiến thức tổng hợp có hệ thống về hiệu quả luân canh, hiệu quả khi ứng dụng các công nghệ tiến tiến, về thị trường. Bên cạnh đó lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật trực tiếp tham gia chỉ đạo sản xuất, hướng dẫn nôn g dân còn mỏng: số cán bộ đại học nông nghiệp ( trồng trọt – chăn nuôi thú y - thủy sản) đang trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp tại hộ nông dân, các trang trại, các cơ sở quốc doanh khoảng 70 người, chỉ bằng 0,8% lao động nông nghiệp. Các chủ trang trại còn nhiều hạn chế về trình độ quản lý và kỹ thuật nông nghiệp, hầu hết chưa qua đào tạo trung cấp mà chủ yếu học thông qua thực tiễn và hệ thống khuyến nông tập huấn nên kiến thức cơ bản của nghề nghiệp, khả năng tiếp cận và xử lý thông tin còn yếu.
1.4.3.3. Sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản thấp và không ổn định
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp vẫn ở trình độ thủ công là chủ yếu, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao (giá thành thường cao hơn các nước có nền kinh tế phát triển từ 15 - 20%). Chất lượng không đồng đều khó khăn cho việc thu mua và chế biến xuất khẩu (hàng nông sản có thế mạnh mới dừng ở lợn sữa cấp đông, vải thiều khô, rau màu qua chế biến sản lượng chưa nhiều, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị của hàng nông sản). Sức cạnh tranh trên thị trường yếu. Theo kết quả điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản 1/7/2006 trên địa bàn tỉnh Hải Dương: giá thành sản xuất lúa vụ chiêm xuân là 1.994 đồng/kg, giá bán là 2.594 đ/kg, lợi nhuận thu được khi sản xuất 1 kg lúa là 23,13 %. Tổng thu 1 ha lúa đông xuân là 15,945 triệu đồng, lãi 3,571 triệu đồng/ha, mức lãi thấp như vậy nếu các hộ chỉ sản xuất độc canh cây lúa thì rất khó vươn lên làm giàu.
Hải Dương là tỉnh sản xuất lúa nước 2 vụ/ năm, tính thời vụ của cây trồng là hạn chế lớn cho việc tổ chức vùng nguyên liệu cung cấp thường xuyên cho công nghiệp chế biến. Do vậy hàng nông sản của Hải Dương chủ yếu là xuất thô, chất lượng thấp, giá thành cao, mẫu mã chưa hấp dẫn nên hạn chế nhiều đến khả năng cạnh tranh.
Thông tin về thị trường giá cả nông sản trên phạm vi cấp huyện, cả tỉnh có tổ chức được, nhưng chậm và thiếu đến với người sản xuất. Thị trường tiêu thụ hàng nông sản trong nước và nước ngoài tuy đã phát triển hơn nhiều so với những năm trước đây, song để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của thời kỳ mới thì còn hạn chế và chưa ổn định. Do vậy mà có tình trạng một số nông sản, các loại hoa quả, thực phẩm khi thì thiếu gay gắt, khi được mùa thì lại ứ đọng, dư thừa. Điều này đã gây thiệt hại rất nhiều cho nông dân cả về công sức lẫn tiền vốn đã bỏ ra.
Chính vì vậy mà ngành nông nghiệp Hải Dương chưa hấp dẫn được các doanh nghiệp trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư.
1.3.3.4. Các dịch vụ hỗ trợ hỗ trợ nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp
Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp bao gồm các hệ thống khuyến nông và thông tin, dịch vụ tài chính nông thôn phục vụ cho nông nghiệp.
Hệ thống khuyến nông và thông tin
Hệ thống khuyến nông không chỉ cung cấp thông tin hữu ích và tư vấn cho nông dân về ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, tư vấn về việc trồng trọt, chăn nuôi giống mới, chất lượng cao mà còn về nhiều vấn đề khác như về thị trường tiêu thụ, bố trí nuôi trồng cho phù hợp với đất đai khí hậu và đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường.
Hiện nay các hệ thống khuyến nông nhà nước hiện đang đóng vai trò chủ đạo do ít có sự tham gia của khu vực tư nhân. Trước đây, trên địa bàn tỉnh công tác khuyến nông trên đã đóng góp quan trọng vào sản xuất lương thực nhưng đến nay công tác này đang bị tụt hậu dần trong giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường. Nguyên nhân là do thiếu vốn, thiếu liên kết chặt chẽ với nghiên cứu, thiếu công nghệ và thiếu cán bộ, cơ chế lập kế hoạch và cung cấp dịch vụ vẫn theo hướng từ trên xuống. Do vậy hệ thống này không phát huy được hiệu quả của nó trong việc trợ giúp nông dân chọn con cây con giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi và phòng trừ dịch bệnh. Dẫn đến tình trạng nông dân vẫn còn thiếu những kiến thức về các lĩnh vực này làm cho chất lượng nông sản không cao, nông dân tốn kém trong việc lựa chọn phân bón, thuốc trừ sâu đặc biệt là vấn đề phòng tránh dịch bệnh. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong mấy năm gần đây dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên miên và việc khống chế dịch diễn ra chậm chạp lúng túng gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi.
Thông tin là yếu tố cơ bản của các dịch vụ khuyến nông nhưng hiện nay hệ thống khuyến nông của tỉnh chưa khai thác được hết tiềm năng của các công nghệ
thông tin đại chúng để nâng cao cơ hội tiếp cận thông tin và kiến thức cho người
dân nông thôn Trong nền kinh tế tri thức đang tiến triển mà lợi thế cạnh tranh thường phụ thuộc vào việc tiếp cận kịp thời luồng thông tin chất lượng cao, nông dân sẽ có thể nâng cao vị thế cạnh tranh hơn nếu có được các hệ thống thông tin dễ tiếp cận. chất lượng. Nông dân vẫn phải tự mò mẫm trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ không được cung cấp đầy đủ thông tin và có được những dự báo chính xác về cung cầu thị trường khiến việc sản xuất diễn ra tràn lan thừa hoặc thiếu so với nhu cầu thị trường dẫn tới nông sản ế ấm lúc thừa lúc thiếu, giá trị sản xuất giảm. Hiện tượng này xảy ra rất nhiều, đặc biệt là với các nông sản như vải thiều, dưa hấu trên địa bàn tỉnh. Cùng với nhu cầu cấp bách về cải cách các hệ thống khuyến nông trên địa bàn tỉnh đã đề cập ở trên, thì các ban ngành có liên quan tại địa phương cần xem xét và đánh giá toàn diện các hệ thống thông tin hiện nay để cải tiến chúng. Để tăng cường hiệu quả trong việc truyền thông thông tin, nông cần được đào tạo các kỹ năng diễn dịch các thông tin sẵn có. Đây là một hoạt động quan trọng bởi vì nông dân thường có trình độ thấp và hầu như chưa quen với các thông tin thị trường.
Dịch vụ tài chính cho nông nghiệp
Cùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21636.doc