MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta 2
1.Thể chế nhà nước và vai trò điều hành của chính phủ 2
1.1. Thể chế Nhà nước 2
1.2. Vai trò của chính phủ 5
2. Tài chính - ngân hàng 6
2.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO 6
2.2. Thực trạng tài chính – ngân hàng sau gia nhập WTO 7
3. Chính sách mở cửa và hội nhập 11
3.1. Chính sách thuế quan theo cam kết khi gia nhập WTO 11
3.2. Thâm nhập thị trường nước ngoài 13
4. Phát triển kết cấu hạ tầng 13
4.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO 13
4.2 Thực trạng kết cấu hạ tầng sau gia nhập WTO 14
5. Công nghệ 17
5.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO 17
5.2. Thực trạng công nghệ sau gia nhập WTO 19
6. Lao động 20
6.1. Lực lượng lao động 20
6.2. Giá cả lao động 23
7. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 24
7.1. Tinh thần kinh doanh 24
7.2. Năng lực quản lý và chiến lược cạnh tranh 25
Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 28
1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực 28
1.1. Xác định ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh 29
1.2. Xác định các ngành và lĩnh vực cần tập trung hỗ trợ để có thể cạnh tranh trong tương lai 29
1.3. Đẩy mạnh các hoạt động quyền bảo hộ sở hữu công nghiệp, các hoạt động bảo hộ và bảo hiểm sản xuất nhằm bảo vệ các chủ thể kinh doanh 30
2. Phát triển khoa học – công nghệ và giáo dục 32
2.1. Giải pháp phát triển khoa học- công nghệ 33
2.2. Giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo 34
3. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế (tài chính, tiền tệ) nhằm tạo môi trường nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế 35
3.1. Giải pháp đối với lĩnh vực ngân hàng 35
3.2. Chính sách tỷ giá 37
4. Tạo môi trường chính trị - xã hội và pháp lý thuận lợi, cải cách hành chính và tăng cường vai trò của Nhà nước, Chính phủ 37
4.1. Tạo môi trường chính trị - xã hội và pháp lý ổn định thuận lợi 37
4.2 Cải cách nền hành chính quốc gia, tăng cường vai trò Nhà nước nhằm đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế 38
KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vận chuyển bằng đường bộ, đường sông, đường hàng không đều tăng nhưng bằng đường sắt lại giảm.
Vận chuyển hàng hóa trước gia nhập WTO, năm 2006 đạt 513575,1 nghìn tấn tăng 11,6% so với năm 2005. Sau gia nhập WTO, vận chuyển hàng hóa năm 2007 là 596800,9 nghìn tấn tăng 16,2 % so với năm 2006 và năm 2008 là 648681,5 nghìn tấn tăng 8,7% so với năm 2007. Chỉ duy vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt giảm, còn vận chuyển bằng các phương tiện khác đều tăng.
Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng chỉ mới phát triển mạnh ở các thành phố lớn và trung tâm của cả nước; các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa còn rất thiếu. Nhìn chung mức độ phát triển hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại và trong tương lai của sản xuất kinh doanh trong nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, cơ sở hạ tầng của Việt Nam không chỉ giới hạn ở nhu cầu trong nước. Với ưu thế về vị trí địa lý, nằm trong một vùng phát triển năng động với tuyến vận tải lưu lượng cao, Việt Nam có thể phát triển cơ sở hạ tầng như một trạm trung chuyển quốc tế để cung cấp dịch vụ cho khu vực. Cơ sở hạ tầng có thể trở thành nguồn thu ngoại tệ quan trọng của nền kinh tế.
Về viễn thông, trong những năm gần đây, các nhà mạng mới liên tục xuất hiện. Kèm theo đó, số lượng người dân sử dụng điện thoại và thời gian sử dụng cũng tăng lên đáng kể, nhất là với điện thoại di động. Tuy nhiên, con số này còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực và toàn thế giới.
Về giao thông, Việt Nam chỉ có 30% mạng lưới đường bộ được rải nhựa, 12% trong số đó còn tốt. Hệ thống giao thông nông thôn rất kém phát triển. Đường sắt chỉ có một chiều dẫn đến tình trạng phải dừng lại để chờ tàu, tránh tàu mất thời gian và không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân vào các dịp cao điểm. Ngành hàng không mặc dù hiện đại nhưng số lượng ít và mạng đường bay tương đối hẹp; hành khách và hàng hóa đến Việt Nam phải trung chuyển qua các sân bay đầu mối ở nước khác, làm tăng chi phí về thời gian và tiền bạc. Độ an toàn của lịch bay thấp, tỷ lệ tạm hoãn chuyến bay cao. Đội tàu thủy, kể cả tàu viễn dương chủ yếu là tàu cũ, trọng tải thấp. Các cảng biển nhỏ và không đủ sâu cho các tàu đúng tiêu chuẩn quốc tế, khả năng giải phóng hàng thấp do thiết bị bốc dỡ lạc hậu, kho hàng không đủ diện tích và điều kiện bảo quản.
Hệ thống cung cấp nước sạch và thoát nước còn rất thiếu, không đảm bảo điều kiện vệ sinh. Tại các thành phố còn xảy ra hiện tượng úng lụt khi mưa lớn. Điển hình là trận lụt tại Hà Nội xảy ra vào những ngày đầu tháng 11 năm 2008.
4.2.2. Giá cả dịch vụ
Một số giá dịch vụ cơ sở hạ tầng của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực, trong khi đó một số giá khác lại quá thấp không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Giá thuê đất khu công nghiệp và văn phòng còn cao hơn các nước khác làm giảm việc mở rộng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Giá cước viễn thông liên tục giảm và có nhiều hình thức khuyến mại nhưng vẫn thuộc loại cao trong khu vực và so với thu nhập của người dân, nhất là cước điện thoại quốc tế.
Chế độ quản lý giá của Nhà nước
Giá cước các dịch vụ công ích cơ bản như điện, nước, bưu chính, vận tải đường sắt đều do Nhà nước quy định. Bản thân doanh nghiệp không có quyền quyết định giá cước mà chỉ xây dựng mức giá trình cơ quan Nhà nước và Chính phủ phê duyệt. Trên thực tế, do hoạt động không có đối thủ cạnh tranh đưa ra mức giá so sánh nên doanh nghiệp có thể đề nghị mức giá mua, giá bán không hợp lý. Doanh nghiệp có thể tính gộp những chi phí bất hợp lý không liên quan đến kinh doanh hoặc những chi phí do trình độ quản lý và tổ chức yếu kém gây ra. Giá các dịch vụ bưu chính trong nước và quốc tế nhìn chung là khá cao trong khi giá cung cấp nước sạch được quy định bằng một nửa so với mức cần thiết để bù đắp chi phí hoạt động và bảo dưỡng.
4.2.3. Chất lượng dịch vụ
Trong những năm gần đây, chất lượng dịch vụ đã được cải thiện rõ rệt nhưng vẫn chưa đa dạng và còn thấp so với các nước trong khu vực.
Trong ngành điện, tần số cắt điện trong một năm vẫn còn nhiều: 36% số khách hàng bị cắt điện dưới 3 lần và có đến 25% khách hàng bị cắt điện hơn 10 lần trong năm vừa qua. Việc cắt điện làm cho 50% số khách hàng phải dừng toàn bộ hoạt động kinh doanh, 46% dừng một phần hoạt động. Ngoài ra, điện áp không ổn định ảnh hưởng không tốt tới các thiết bị sử dụng điện. Ở nhiều nước khác như Thái Lan, Hàn Quốc hầu như không xảy ra hiện tượng này.
Trong lĩnh vực viễn thông, số lượng khách hàng bị gián đoạn liên lạc vì đường dây và vì tổng đài còn nhiều. Việc tính cước điện thoại và dịch vụ Internet còn có hiện tượng nhầm lẫn và chưa minh bạch. Thời gian lắp đặt các thiết bị viễn thông còn khá lâu.
5. Công nghệ
5.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO
Trở thành thành viên WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của WTO ngay sau khi gia nhập. Các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ, bao gồm các thủ tục xác lập và duy trì quyền sở hữu trí tuệ:
* Bản quyền tác giả
- Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm: tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hay ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, nhiếp ảnh, kiến trúc bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học; tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính sưu tập dữ liệu. Các tác phẩm trên sẽ không được bảo hộ nếu trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng hoặc tổn hại đến an ninh quốc gia.
- Các tác phẩm của cá nhân, tổ chức nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam gồm: (i) Các tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam và chưa được công bố ở bất kỳ nước nào khác hoặc những tác phẩm được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tác phẩm đó được công bố đầu tiên ở nước khác; (ii) Các tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
* Nhãn hiệu (bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ)
- Nhãn hiệu được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, không có yêu cầu bắt buộc đăng ký đối với bất kỳ hàng hóa và dịch vụ nào. Tất cả các đăng ký nhãn hiệu đều được công bố trên Công báo Sở hữu công nghiệp.
- Mọi hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối với một nhãn hiệu đều phải được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ.
* Chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa)
- Chỉ dẫn địa lý bảo hộ theo quy định tại các điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định một hình thức bảo hộ cho tất cả các loại chỉ dẫn địa lý (bao gồm tất cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa). Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn. Chỉ dẫn địa lý tương ứng với khu vực và địa phương thuộc một quốc gia hay lãnh thổ xuyên biên giới quốc tế được bảo hộ nếu đáp ứng tất cả các yêu cầu theo quy định của pháp luật.
- Về mối quan hệ giữa bảo hộ chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cấm việc đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các chỉ dẫn địa lý được bảo hộ (kể cả tên gọi, xuất xứ hàng hóa), nếu việc sử dụng nhãn hiệu có khả năng gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về xuất xứ địa lý của hàng hóa. Thời điểm xem xét việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.
* Kiểu dáng công nghiệp
- Kiểu dáng công nghiệp, hình dáng đặc thù bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và có khả năng dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hay thủ công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Đơn đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp được nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở hữu trí tuệ) và được kiểm tra về hình thức và nội dung. Thời hạn bảo hộ đầu tiên đối với một kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn 2 lần liên tếp, mỗi lần 5 năm.
* Sáng chế
- Sáng chế có tính mới đối với thế giới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 – 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Đơn sáng chế được thẩm đinh về hình thức và nội dung. Thời hạn thẩm định hình thức là 1 tháng và thẩm định nội dung là 12 tháng.
- Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu sáng chế cho người khác. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu những người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
5.2. Thực trạng công nghệ sau gia nhập WTO
5.2.1. Năng lực tạo ra sản phẩm khoa học – công nghệ
Kết quả nghiên cứu khoa học – công nghệ chưa có giá trị thương mại. Ít sản phẩm khoa học hay đơn sáng chế được công nhận ở nước ngoài. Ở trong nước, số đơn và bằng sáng chế trung bình cấp cho người Việt Nam là còn rất ít. Trong khi đó, tỷ lệ đơn và bằng sáng chế của người nước ngoài lại khá cao. Nhìn chung, tỷ lệ được cấp bằng sáng chế trên tổng số đơn tương đối nhỏ.
5.2.2. Chuyển giao và phổ biến công nghệ
Gần đây, một số ngành như viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, điện tử tiêu dùng, dệt may, chế biến lương thực – thực phẩm và chế biến một số nông sản đã đầu tư và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất và hiện đã đạt trình độ công nghệ trung bình của thế giới. Song nhìn chung, trình độ công nghệ của các ngành sản xuất khác của nước ta hiện đang tụt hậu 2-3 thế hệ so với các nước trong khu vực. Hiện đang có một số vấn đề liên quan đến chuyển giao công nghệ và phổ biến công nghệ như sau:
Thứ nhất, tỷ trọng hàng hóa và dịch vụ sử dụng công nghệ vừa và cao ở nước ta còn ở mức thấp.
Thứ hai, những công nghệ được đầu tư trong những năm qua chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này cho thấy thực tế là những kết quả hoạt động khoa học - công nghệ trong nước thời gian qua chưa có tác động rõ rệt tới việc nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nước ta và tốc độ chuyển giao công nghệ trong nước rất hạn chế.
Thứ ba, các cơ quan nghiên cứu cũng chưa có “lực đẩy” để gắn kết hơn các công trình nghiên cứu với hoạt động của doanh nghiệp cũng như chưa chú ý tới việc quảng bá kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp.
Thứ tư, hiện tại vẫn chưa có chính sách hữu hiệu thúc đẩy các cơ quan nghiên cứu triển khai ứng dụng và công bố rộng rãi các kết quả nghiên cứu của mình. Thêm vào đó, các hoạt động hỗ trợ thị trường công nghệ chưa được tổ chức tốt. Hệ thống thông tin và dịch vụ khoa học – công nghệ chưa làm tốt vai trò trung gian, thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa bên cung cấp công nghệ và bên có nhu cầu đổi mới công nghệ.
Thứ năm, Việt Nam vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định trong hệ thống hạ tầng phục vụ phổ biến công nghệ.
6. Lao động
6.1. Lực lượng lao động
Mặc dù tốc độ tăng dân số của Việt Nam giảm trong những năm gần đây nhưng quy mô dân số của chúng ta là khá lớn và vẫn tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2008, mỗi năm dân số tăng thêm từ 1 triệu đến 1,2 triệu người. Theo cuộc điều tra dân số mới nhất vào ngày 1/4/2009 thì dân số nước ta hiện nay là 85.789.573 người.
Nhiều nghiên cứu về dân số Việt Nam đã đưa đến kết luận rằng: Việt Nam sẽ có cơ cấu dân số “vàng” muộn nhất là năm 2010. Đạt được cơ cấu dân số “vàng” cũng đồng nghĩa với việc có cơ hội “vàng” trong việc sử dụng nguồn nhân lực trẻ, dồi dào cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của nền kinh tế, đặc biệt là giai đoạn bản lề 2011-2020 thực hiện chiến lược đưa Việt Nam cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp và xếp vào nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Biểu 2: Tháp dân số Việt Nam năm 2005 (đơn vị: nghìn người)
Male Female FFemale
100+
90-94
80-84
70-74
60-64
50-54
40-44
30-34
20-24
10-14
0-4
6000 4000 2000 0 2000 4000 6000
Nguồn: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
Biểu 3: Tháp dân số Việt Nam dự báo năm 2050 (đơn vị: nghìn người)
100+
90-94
80-84
70-74
60-64
50-54
40-44
30-34
20-24
10-14
0-4
Male Female
6000 2000 4000 0 2000 4000 6000
Năm 2050
Nguồn: Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
Cùng với sự gia tăng dân số, quy mô lực lượng lao động Việt Nam cũng không ngừng tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2008, lực lượng lao động Việt Nam tăng với tốc độ trung bình 2,1%/năm với số lao động mới gia nhập hơn 900.000 người/năm. Theo dự báo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), lực lượng lao động Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn 2011-2020 với tốc độ trung bình xấp xỉ 2%/năm với số lao động mới gia nhập thị trường lao động gần 1 triệu người/năm. Nhóm lao động trẻ tuổi sẽ chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động nên hai thập kỷ tới đây sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam phân công lao động vào các ngành trong nền kinh tế.
Ngoài ra, người lao động Việt Nam còn được đánh giá là thông minh, khéo tay, cần cù, chịu khó…
Tuy nhiên, lao động nước ta còn những hạn chế sau:
Thứ nhất, cơ cấu trình độ lao động còn bất hợp lý. Trung bình cứ 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học thì chỉ có 0,73 công nhân kỹ thuật có bằng. Ở các nước phát triển, cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn hợp lý sẽ là 1 lao động có trình độ cao đẳng, đại học – 5 lao động trình độ trung học chuyên nghiệp – 10 công nhân kỹ thuật.
Thứ hai, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật trở lên trong tổng lực lượng lao động (15–59 tuổi) năm 2009 ước tính là 30%, lao động chân tay là 70%. Trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ đó tương ứng là 74% và 26%. Tỷ lệ này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất và trình độ thấp của lực lượng lao động. Xu hướng chuyển dịch đó ở nước ta là có tiến bộ nhưng mức tăng của nguồn nhân lực tri thức này vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Lao động có chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông thôn còn thiếu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông thôn qua các năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với mức chung của cả nước. Theo báo cáo mới đây của Bộ Lao động Thương binh Xã hội, năm 2009 tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề đến nay mới đạt 18,7%, còn rất thấp so với bình quân chung của cả nước.
Thứ ba, sức khỏe người lao động nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu lao động công nghiệp. Chiều cao, cân nặng còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư, tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp chưa cao. Đại bộ phận người lao động có nguồn gốc từ nông thôn, chưa được rèn luyện về kỷ luật lao động công nghiệp, còn mang nặng tác phong của một nền công nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc nhóm; thiếu tinh thần hợp tác và gánh chịu rủi ro; ít thể hiện sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Thứ năm, các quy chế về bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, về các trách nhiệm xã hội chưa đầy đủ và chưa được thực hiện tốt. Số vụ đình công và xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động tăng lên nhanh chóng, trong đó có không ít trường hợp có xung đột bạo lực, có thể trở thành một cản trở trong quá trình toàn dụng lao động trong nước cũng như xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
6.2. Giá cả lao động
Cùng với nhịp độ đi lên của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, giá cả sức lao động ở Việt Nam (thể hiện qua tiền công, tiền lương của người lao động) đã được tăng lên. Tuy vậy, nhìn chung giá cả lao động của Việt Nam hiện vẫn được coi là tương đối rẻ và là một trong những lợi thế so sánh của thị trường lao động Việt Nam.
7. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp.
7.1. Tinh thần kinh doanh
Về quy mô, hơn 90% doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong mọi ngành, nghề và lĩnh vực hoạt động , chưa doanh nghiệp nào của Việt Nam được xếp hạng theo danh mục thông lệ của quốc tế (ví dụ danh mục 500 doanh nghiệp có đầu tư lớn nhất, 20 doanh nghiệp sản xuất ô tô hàng đầu…).
Về động cơ thành lập doanh nghiệp, nhiều công trình điều tra, nghiên cứu cho thấy việc thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam bị chi phối bởi nhiều mục tiêu khác nhau, trong đó còn những mục tiêu chưa thể hiện trực diện tinh thần kinh doanh, chưa coi trọng tối đa động cơ kinh doanh vì lợi nhuận như phần lớn các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới.
Về động cơ lựa chọn ngành nghề, sản phẩm kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam nói chung chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố kinh nghiệm trong lựa chọn sản phẩm, dịch vụ kinh doanh, phụ thuộc vào nguyên liệu, truyền thống gia đình và địa phương.
Thực tiễn cho thấy, có rất ít doanh nghiệp Việt Nam dám mạo hiểm tiên phong đầu tư vào các sản phẩm, dịch vụ mới. Nguyên nhân là trình độ quản lý, trình độ công nghệ, khả năng về vốn, khả năng tiếp cận các nguồn thông tin… của doanh nghiệp còn hạn chế; Nhà nước chưa có đầu tư thích đáng cho vấn đề phát triển sản phẩm mới do hệ thống đào tạo, cơ sở nghiên cứu, cơ chế chuyển giao công nghệ (cả chiều ngang lẫn chiều dọc); các thể chế trung gian (cả trong và ngoài nước) chưa hỗ trợ tích cực cho việc phát triển sản phẩm và công nghệ mới.
Về động cơ mở rộng ngành nghề kinh doanh, có nhiều lý do khiến các nhà kinh doanh Việt Nam muốn mở rộng quy mô hoạt động của mình. Tuy nhiên, không nhiều doanh nghiệp coi việc mở rộng ngành nghề kinh doanh nhằm vào mục tiêu mong muốn chiến thắng các đối thủ cạnh tranh.
7.2. Năng lực quản lý và chiến lược cạnh tranh
Khả năng quản lí doanh nghiệp
Trình độ học vấn của chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp Việt Nam nói chung không thấp. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ còn ở trình độ tốt nghiệp văn hóa phổ thông. Về kinh nghiệm hoạt động, đa số chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp đều đã trải qua hoạt động thực tiễn trước đó.
Nhiều điều tra, khảo sát còn cho thấy, đa số chủ doanh nghiệp khả năng thích ứng nhanh nhạy với những thay đổi của môi trường bên ngoài thấp. Thực tế cho thấy, số chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý có khả năng nắm bắt thông tin về sự thay đổi của môi trường thể chế, của thị trường, của khách hàng… để điều chỉnh công nghệ, quy trình sản xuất, mặt hàng, sản phẩm không nhiều.
Mô hình quản lý, phân cấp quản lý
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mô hình tổ chức, quản lý tương tự như các mô hình trên thế giới. Do đó, quá trình ra quyết định trong doanh nghiệp, xét về mặt lý thuyết là không có sự khác biệt lớn khi so sánh trên mặt bằng quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tế lại phát sinh vấn đề nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn thực chất là doanh nghiệp một chủ vì các thành viên tham gia góp vốn có quan hệ rất gần gũi (vợ, chồng, con), trong đó phần lớn giám đốc (tổng giám đốc) là thành viên góp vốn chính của công ty. Nhiều công ty cổ phần ở Việt Nam cũng không phân biệt được ranh giới giữa quản lý và điều hành như thông lệ quốc tế, có sự lẫn lộn, không đúng pháp luật, dẫn đến những mâu thuẫn nội bộ. Nhưng biện pháp xử lý nội bộ hoặc chế tài phápluật chưa có, không rõ hoặc không có hiệu lực. Đối với công ty cổ phần được hình thành từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì tình hình phức tạp hơn, đặc biệt đối với những doanh nghiệp vẫn còn cổ phần của Nhà nước (cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hay kể cả cổ phần thường), dẫn đến những can thiệp không cần thiết đối với doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các quyết định đầu tư, thay đổi thị trường, sản phẩm… thường bị chậm do ách tắc ở bản thân người đại diện cổ phần nhà nước hoặc do cổ đông can thiệp, đòi quyền quyết định. Sự chậm trễ trong quá trình ra quyết định ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có nhiều nguyên nhân gây nên hiện tượng này, trong đó, do yếu tố lịch sử và văn hóa kinh doanh dẫn đến thói quen kinh doanh cá thể hoặc mang tính gia đình (vừa là chủ sở hữu, vừa là người quản lý, vừa là người điều hành). Đồng thời, thị trường lao động kém phát triển nên chủ doanh nghiệp không có điều kiện để tìm và tuyển dụng các nhà quản lý giỏi và chuyên nghiệp. Hơn nữa, hệ thống pháp luật dân sự và hình sự vận hành chưa tốt tác động không nhỏ tới tâm lý các chủ doanh nghiệp khi trao tài sản và vốn của mình cho người khác quản lý.
Tiếp thị, quảng cáo
Công tác tiếp thị ít được đầu tư hoặc chưa được nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng. Ngoài ra, trên thực tế, đa số doanh nghiệp Việt Nam chưa coi trọng và đầu tư thích đáng cho vấn đề thương hiệu và bản quyền, đặc biệt là trên thị trường quốc tế. Trình độ giải quyết xung đột thương mại quốc tế của doanh nghiệp nước ta còn hạn chế.
Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn gần đây là khá cao nhưng năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia nói chung còn thấp.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia
Năm
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
Mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh
2002
7,08
65/80
62/80
NA
2003
7,34
60/102
60/102
NA
2004
7,79
61/104
77/104
NA
2005
8,4
74/117
81/117
98/175
2006
8,2
77/125
86/125
104/175
2007
8,48
70/131
68/131
91/178
2008
6,18
75/133
70/133
NA
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF); Ngân hàng thế giới (WB)
Như vậy, ngoài tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chỉ số này của nước ta vẫn còn thấp, xếp hạng có xu hướng giảm và giảm tương đối so với các quốc gia khác.
Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ này là “…đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [5, 108]. Quan điểm cơ bản của chiến lược trong thời kỳ này là phải đảm bảo phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, phải đặt trọng tâm vào chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế. Phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế là bước đầu tiên hướng tới nâng cao năng suất và sức cạnh tranh. Song như thế chưa đủ mà cần phải có một chiến lược cạnh tranh tích cực. Chiến lược cạnh tranh tích cực là một bản luận cứ có cơ sở khoa học xác định rõ mục tiêu và phương hướng phát triển cơ bản của nền kinh tế nói chung, của các mặt hàng, ngành hàng, các doanh nghiệp nói riêng trong khoảng thời gian 10 năm hoặc dài hơn, làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách và kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của chiến lược là cungcấp tầm nhìn của một quá trình làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch và các kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp và của các quốc gia trong các hoạt động xuất khẩu lẫn các hoạt động chỉ phục vụ thị trường trong nước phải cạnh tranh với nhập khẩu.
Xây dựng chiến lược cạnh tranh tích cực thực chất là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách chủ động làm hạn chế những bất lợi, phát huy những lợi thế hiện có nhằm phát triển sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả và mang thương hiệu Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa là sự phát triển sản xuất nội địa của Việt Nam phải hướng tới các mục tiêu sau:
- Tăng giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm.
- Nâng cao năng suất, chất lượng lao động, hạ giá thành sản phẩm.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Nâng cao khả năng sáng tạo những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Theo hướng đó, việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh tích cực cần theo các hướng cơ bản dưới đây:
1.1. Xác định ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh
Những ngành hàng có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh bao gồm: lúa gạo, cao su, cà phê, chè, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày da, rau quả, thực phẩm chế biến, cơ khí nhỏ, điện tử… Đối với những ngành này những biện pháp điều chỉnh có thể khái quát bao gồm: Một là đổi mới và nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và chú trọng tính đồng bộ trong đầu tư giữa sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Hai là, ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường, thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng ngành hàng. Ba là, Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất – kinh doanh, xuất khẩu; hỗ trợ gián tiếp như nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, kể cả hệ thống dịch vụ như ngân hàng, tư vấn quản lý, pháp lý…
1.2. Xác định các ngành và lĩnh vực cần tập trung hỗ trợ để có thể cạnh tranh trong tương lai
Trong những năm tới cần tập trung vào phát triển mạnh mẽ các ngành công ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25598.doc