MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 3
1.1. XUẤT KHẨU VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 3
1.1.1. Khái niệm cơ bản về xuất khẩu 3
1.1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu 3
1.1.1.2. Các loại hình xuất khẩu hàng hoá 3
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 5
1.1.2.3. Tác động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá. 6
1.1.2.4. Tác động của chính phủ tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá thông qua công cụ chính sách. 8
1.2. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 10
1.2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước 10
1.2.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm 11
1.2.3. Xuất khẩu góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân 12
1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại. 13
1.3. SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 13
1.3.1 Một số vấn đề cơ bản về khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009. 13
1.3.1.1. Nguyên nhân và bản chất của khủng hoảng tài chính 2008 – 2009 13
1.3.1.2. Tác động của khủng hoảng TCTC đối với Việt Nam 17
1.3.2. Sự cần thiết đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sau khủng hoảng 19
1.3.2.1. Do bối cảnh kinh tế thế giới thời kỳ hậu khủng hoảng, những cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam 19
1.3.2.2. Do sự sụt giảm về kim ngạch, cơ cấu và thị trường xuất khẩu của kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng sau khủng hoảng. 22
1.3.2.3. Bài học kinh nghiệm từ các nền kinh tế Châu Á trong việc đề ra các giải pháp hậu khủng hoảng 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 26
2.1. TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 26
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1990 - đầu năm 2008 (trước khủng hoảng) 26
2.1.1.1. Hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu 26
2.1.1.2. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá 28
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2009. 36
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 45
2.2.1. Kim ngạch xuát khẩu giảm sút do sự bảo hộ tại thi trường nước ngoài, nhu cầu nhập khẩu giảm , sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng 45
2.2.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn đơn điệu, lạc hậu chậm đổi mới, đồng thời do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính nên xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm thuỷ sản và khoáng sản đều bị giảm sút do giá giảm. 48
2.2.3. Thị trường thị xuất khẩu bị thu hẹp mạnh do nhu cầu nhập khẩu và khả năng thanh toán tại các thị trường chủ lực đều sút giảm và đang có xu hướng chuyển dịch 54
2.2.4.Đánh giá chung 57
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 59
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI KÌ SAU KHỦNG HOẢNG 59
3.1.1. Cơ hội 59
3.1.2.Thách thức 60
3.2. ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 62
3.2.1. Dự báo xu hướng phát triển của hoạt động ngoại thương thế giới 62
3.2.1.1. Thương mại thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng sản lượng thế giới 62
3.2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư quốc tế phát triển và cùng với nó là sự đa dạng hoá các nguồn đầu tư cũng như các hình thức thương mại 63
3.2.1.3. Các rào cản thương mại quốc tế tuy được dự báo tiếp tục giảm xuống nhưng vẫn còn ở mức cao 64
3.2.1.4. Các nước thuộc Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới 64
3.2.2. Dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 5 năm 2011 - 2015 65
3.2.2.1. Định hướng chung 65
3.2.2.2. Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu. 66
3.2.3. Định hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2015. 67
3.2.3.1. Mục tiêu 67
3.2.3.2. Định hướng 67
3.2.3.3. Dự báo một sỗ chỉ tiêu xuất khẩu năm 2010 .70
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 72
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô 72
3.3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo,
sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu các mặt hàng thô. 72
3.3.1.2. Chiến lược chuyển dịch và mở rộng cơ cấu thị trường - hạt nhân của chiến lược thúc đẩy xuất khẩu trong thời điểm hiện nay 73
3.3.1.3. Tăng cường đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu( XTXK). 78
3.3.1.4. Một số giải pháp chính sách nhà nước khác. 79
3.3.2. Các giải pháp phát triển đối với doanh nghiệp 81
3.3.2.1. Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm, chuyển từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng và sáng tạo, nâng cao và mở rộng chuỗi giá trị. 81
3.3.2.2. Tận dụng cơ hội từ khủng hoảng để đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 83
3.3.2.3. Tiết kiệm chi phí, chi tiêu hợp lý, tái cấu trúc chuẩn bị cho một quá trình phát triển mới. 84
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 0
100 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2070 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của VIệt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quy mô xuất khẩu. Đặc biệt, Hiệp Định thương mại song phương Việt - Mỹ được kí kết vào cuối năm 2001 đã tạo ra bước đột phá quan trọng trong việc nanag cao giá trị hàng xuất khẩu của hàng Việt Nam ( xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Hoa Kì đã tăng từ khoảng 1 tỷ USD năm 2001 lên hơn 2,4 tỷ USD năm 2002 và liên tục tăng cao, đạt 6,5 tỷ USD vào năm 2005).
Cuối cùng hoạt động xúc tiến thương mại trên toàn quốc đã từng biết hình thành và dành được sự quna tâm cảu nhiều ban ngành, địa phương. Các hình thức xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú và chuyên nghiệp hơn, góp phần quan trọng trong việc giúp DN khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu…
Nguyên nhân khách quan:
Sự phục hồi tăng trưởng của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn 2003 – 2006 làm tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của khu vực và các quốc gia trên thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này đạt mức tăng trưởng bình quân 24,7%/năm.
Giá cả nhiều loại hàng hoá trên thị trường thế giới tăng cao , đặc biệt là sự tăng lên trong giá xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam như gạo, hạt tiêu, cao su, dầu thô, than đá…đã góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho hàng hoá của Việt Nam.
Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá khả quan tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định như:
Quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của nước ta chỉ gần bằng ¼ kim ngạch xuất khẩu của Malaysia, 1/3 của Thái Lan, 2/3 của Philippin. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp hơn, chỉ bằng ¼ của Thái Lan, 2/3 của Philippin.
Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện ở ba phương diện: Chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu chậm xuất hiện những mặt hàng mới có đóng góp đáng kể vào kim ngạch; Các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp, các sản phẩm xuất khẩu vẫn chủ yếu ở dạng thô, chưa qua sơ chế hoặc chủ yếu là dưới hình thức gia công như dệt may, da giày, điện tử…; Quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng theo hướng công nghiệp hoá diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản triệt để. Về thực chất cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai táhc được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xay dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn nhièu hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi thế từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực đã kí kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kì, EU, Trung Quốc.
Năng lực cạnh trạnh còn yếu kém ở cả ba cấp độ: nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu. Trong đó những hạn chế từ phía doanh nghiệp chuyển biến chậm : đại bộ phận có quy mô nhỏ, yếu về năng lực, kém về kiên sthức và kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường quốc tế phần nhiều doanh nghiệ không có chiến lược kinh doanh xuất khẩu dài hạn, mức độ thụ động cao.
Công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn yếu kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình XTTM nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên được xét đến ở cả khía cạnh khách quan và chủ quan như sau:
Nguyên nhân chủ quan :
Đầu tư xã hội cho sản xuất hàng xuất khẩu còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng gia tăng quy mô sản xuất và xuất khẩu. Bên cạnh đó hiệu quả đầu tư chưa cao, đầu tư dàn trải, chưa có dự án dầu tư quy mô lớn nhằm tập trung khai thác tiềm năng xuất khẩu khiến cơ cấu sản xuất và xuất khẩu chậm đổi mới theo hướng tích cực.
Sự thiếu chuẩn bị từ phía các cơ quan nhà nước trong việc phổ biến, hướng dẫn và chuẩn bị điều kiện để đón những cơ hội từ các hiệp định và thoả thuận hợp tác thương mại đem lại, trong khi đó các DN lại mang nặng tư tưởng trông chờ vào những hướng dẫn, hỗ trợ của nhà nước.
Khả năng dự báo và thích ứng với những biến động mới của thị trường thế giới như rào cản thương mại và phi thương mại ngày càng gia tăng, xu hướng hình thành các RTA và FTA trở nên phổ biến làm thay đổi chính sách và luồng thương mại…của các doanh nghiệp xuất khẩu con yếu dẫn đến xuất khẩu một số mặt hàng còn khó khăn ( thuỷ sản…).
Các kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ cho xuất khẩu như cảng biển, sân bay, đường giao thông, kho hàng…còn thiếu hoặc năng lực hoạt động còn thấp, tính cạnh tranh kém làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của hàng xuất khẩu.
Nguyên nhân khách quan :
Những bất ổn về kinh tế và chính trị trên thị trường thế giới đem lại cho xuất khẩu Việt Nam những tác động tiêu cực. Như sự suy thoái kinh tế vào đầu những năm 2000 cùng với sự kiện khủng bố 11/9 tại Mỹ là một trong những nguyên nhân khiến cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2002 chỉ đạt 7,4%/năm.
Mặt khác, các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam song đây lại là những mặt hàng giá cả thế giới biến động thất thường nhất.
Hơn nữa, cùng với xu thế hội nhập, ngày càng xuất hiện nhiều rào cản thuơng mại mới tinh vi hơn ( như chống bán phá giá, tiêu chuẩn xã hội, môi trường….)gây khó khăn và tổn thất không nhỏ cho hoạt động xuât skhẩu cảu VIệt Nam.
Cuối cùng, làn sóng kí kết các hiệp định thuơng mại tự do song phương và đa phương giữa các quốc gia đã đem đến nhiều bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam do bị phân biệt đối xử.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2009.
Năm 2008, tác động của khỉng hoảng tài chính tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam mới ở giai đoạn manh nha.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2008 vẫn đạt 62.7 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm 2007, nếu không tính năm 2004 thì đây là mức tăng kim ngạch xuất khẩu cao nhất kể từ năm 1997. Kết quả này chủ yếu là nhờ vào giá thị trường thế giới tăng cao trong nửa đầu năm 2008. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của tám mặt hàng xuất khẩu chủ yếu và trị giá tái xuất sắt thép, vàng thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá chỉ tăng 13,5%.
( chưa loại trừ yếu tố USD mất giá).
Hình 2.2 Kim ngạch xuất khẩu của 8 mặt hàng chủ lực năm 2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tám mặt hàng xuất khẩu năm 2008 đạt kim ngach xuất khẩu trên 2 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giầy dép, hải sản, gạo, café, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính và linh kiện. Nhóm hàng dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 9,1 tỷ USD, tăng 17,5% so với năm 2007, trong đó Hoa Kì là thị trường lớn nhất với 5,1 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2007. Giầy dép đạt kim ngạch 4,7 tỷ USD, tanưg 17,6% so với namư 2007, trong đó hai thị trường EU và Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng trên 74% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép. Thuỷ sản đạt 4,6 tỷ USD, tăng 21,2 % so với năm 2007, trong đó EU vẫn là thị trường nhập khẩu chính với tổng kim ngạch là 1,2 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2007.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng cao, trong đó đặc biệt là gạo với mức tăng kim ngạch xuất khẩu gần tới 100%. Ngoài ra còn có đá quý và kim loại quý ( tăng 180,7%), dầu mỡ động vật( 105,5%), hạt điều ( 40,7%) và than đá ( 36,4%). Cơ cấu mặt hàng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu thô, khoáng sản, nhiên liệu.
Biểu 2.1. Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam 2008
Đơn vi: %
Nguồn : Từ số liệu của Tổng cục thống kê.
Tuy nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có chiều hướng giảm hoặc chỉ tăng nhẹ về lượng nhưng do giá hàng xuất khẩu tăng cao hơn rất nhiều nên nhìn chung tổng kim ngạch xuất khẩu tăng cao trong năm 2008. Như dầu thô tuy lượng giảm 8,8% nhưng giá xuất khẩu bình quân tăng 34,0% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 22,1% và vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 16,5%. Về gạo, lượng xuất khẩu chỉ tăng 5,4% nhưng giá tăng tới 88,9% so với năm 2007. Nhóm hàng nông – lâm - thuỷ sản với tám mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch 12,9 tỷ USD chiếm 20,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhóm hàng công nghiệp chế biến với 17 mặt hàng chủ lực đạt 27,0 tỷ USD kim ngạch xuât khẩu ( tuy nhiên kim ngạch mặt hàng thép tăng do tái xuất lớn nên tăng trưởng không vững chắc).
Bảng 2.4. Mười mặt hàng xuất khẩu chính năm 2008
Mặt hàng
Giá trị
( triệu USD)
Tỷ trọng ( %)
Mức tăng giá trị so với năm 2007( %)
1. Dầu Thô
10.356
16,52
22.18
2. Hàng dệt may
9.120
14,55
17,17
3. Giầy dép các loại
4.767
7,61
20,31
4. Hàng hải sản
4.510
7,19
18,94
5. Gạo
2.894
4,62
99,07
6. Gỗ và sản phẩm gỗ
2.829
4,51
19,68
7. Máy ví tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
2.638
4,21
21,14
8. Café
2.111
3,37
13,87
9. Cao Su
1.603
2,56
14,54
10. Than đá
1.388
2,21
36,35
Nguồn : tổng cục thống kê và tính toán của Viện NCQLKTTƯ
Hình 2.3.Đóng góp của yếu tố giá và lượng trong tăng trưởng kim ngạch một số mặt hàng năm 2008 (%)
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Hội nhập sâu rộng hơn cũng đồng nghĩa với nền kinh tế Việt Nam có quan hệ gắn kết và ràng buộc chặt chẽ hơn với nền kinh tế thế giới. Vì vậy tăng trưởng xuất khẩu của nhiều mặt hàng đặc biệt các mặt hàng chủ lực của Việt Nam chịu biến động mạnh cùng với những thăng trầm của nền kinh tế Thế Giới. Trong năm 2008, kinh tế thế giới xấu đi đã có ảnh hưởng không tích cực đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu sang xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn của nước ta, theo đó tỷ trọng xuất khẩu của nhiều mặt hàng chế biến chủ lực ( dệt may, đồ gỗ, hàng điện tử) giảm nhẹ. Để đối phó với những rủi ro trên thị trường thế giới, xu thê đa dạng hoá các mặt hàng cũng được triển khai. Tuy nhiên cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nhìn chung là chuyển dịch chậm. Xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào nhóm hàng nông – lâm - thuỷ sản thô, khoáng sản thô chưa sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn là gia công lắp ráp. Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng phong phú, kim ngạch nhỏ, tăng trưởng chậm. Hàng hoá sản xuất xuất khẩu chưa được tổ chức sản xuất kinh doanh theo quy mô công nghiệp, sản xuất hàng hoá lớn, chưa liên kết chặt chẽ thành chuỗi giá trị, chưa liên kết được các khâu cung ứng nguyên liệu, sản xuất, chế biến, tiêu thụ giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như với các doanh nghiệp nước ngoài.
Xét về thị trường, do tác động của hội nhập, thị trường xuất khẩu năm 2008 tiếp tục phát triển. Các thị trường thuộc khu vực Châu Phi, Tây Nam Á, Châu Á, châu Đại Dương tiếp tục được mở rộng, với tộc độ tăng xuất khảu ở Châu Phi đạt 95,7%, Châu Á đạt 37,8%, Châu Đại Dương đạt 34,9%. Trong khi các thị trường trọng điểm vẫn được tập trung khai thác, mặc dù xuất khẩu có dấu hiệu chậm lại ở Châu Mỹ ( 21,9%) và Châu Âu ( 26,3%). Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trên tất cả các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại. Châu Á vẫn là bạn hàng lớn nhất. Năm 2008, thị trường châu Á chiếm tỷ trọng 44,5% ( năm 2007 là 41,9%), tiếp đó thị trường châu Mỹ chiếm 20,6%( năm 2007 là 21,9%); thị trường Châu Âu chiếm 18,3% ( năm 2007 là 18,7%); Châu Đại Dương chiếm 6,7% ( năm 2007 là 6,4%);Châu Phi vẫn là thị trường mới còn chiếm tỷ trọng nhỏ , mới đạt 1,9% ( năm 2007 là 1,3%) ( Số liệu theo báo cáo của Bộ Công Thương). Trong đó phải kể đến Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch 11,8 tỷ USD , tăng 14,5% so với năm 2007. Năm mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kì là dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giầy dép, thuỷ sản ( chiếm 76% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ). Trong đó thị trường EU đạt 10,8 tỷ USD, tăng gần 16% so với năm 2007 với các mặt hàng chính là Dệt May, Giầy dép, nông thuỷ sản. Thị trường Nhật Bản đạt 8,5 tỷ USD, tăng 44% so với năm 2007 với các mặt hàng chủ yếu là dầu thô, giầy dép, thuỷ sản, máy tính và linh kiện, dây và cáp điện. Thị trường ASEAN tuy có giảm trong vài tháng cuối năm nhung vẫn đạt kim ngạch gần 10,2 tỷ USD , tăng 31% so với năm 2007 với các mặt háng chính là dầu thô, gạo, thuỷ sản, máy tính , điện tử và linh kiện.
Nhìn chung trong năm 2008, xuất khẩu đã đạt được kết quả ấn tượng cả về quy mô, tốc độ, thị trường và các khu vực doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu diễn biến phức tạp do các biến động trái chiều trên thị trường thế giới. Trong nửa đầu năm 2008, giá hàng hoá thế giới tăng cao ( giá xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2008 của gạo tăng 80%, dầu thô 69%, than đá 64%, café 40%, cao su trên 30% so với cùng kì năm 2007) góp phần quan trọng làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng cao nhất trong các tháng 7 – 8/2008.
Cũng trong thời này, do lạm phát cao nên Chính Phủ chủ trương kìm giữ gía, chỉ đạo một số ngành hàng không được tăng giá hạn ché xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu cho một số mặt hàng, thậm chí cho dừng xuất khẩu gạo trong vài tháng giữa năm. Điều này cũng có tác động nhất định làm giảm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.
Từ tháng 9 cho đến hết năm, xuất khẩu giảm mạnh cả về giá và số lượng. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều giảm giá mạnh, đặc biệt là dầu thô, nông, thuỷ sản. Lượng đơn hàng từ đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị sụt giảm hoặc huỷ bỏ. Dệt May giảm 20 -30% cả về số đơn hàng vầ giá, thuỷ sản cũng giảm khoảng 30% về đơn hàng và giá. Biến động trái chiều và khó lường của tỷ giá trong năm 2008 cũng tác động xấu đến hoạt động xuất, nhập khẩu hoá.
Trong khi đó chi phí đầu vào sản xuất không giảm, thậm chí còn tăng. Thị trường tín dụng và vốn cho sản xuất kinh doanh hàng xuát khẩu vẫn còn bất cập. Nhiều cơ sở sản xuát, nhất là hộ sản xuất các mặt hàng nông – lâm - thuỷ ản xuất khẩu rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Lãi suất cao, thủ tục rắc rối vừa làm tăng chi phí đầu vào vừa làm các doanh nghiệp nhỏ và vừa, làm giảm khgả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Với tình hình trên, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, phải chuyển về làm gia công cho các công ty nước ngoài, giảm hoặc dừng sản xuất, thậm chí giải thể hoặc phá sản. Trong đó khó khăn nhất là các ngành dệt may, da giầy , đồ gỗ.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phải đối mặt với những rào cản thương mại mới, các vụ kiện chống bán phá giá và các hành vi bảo hộ thương mại tại các thị trừờng lớn. Như Hoa Kì vẫn tiếp tục giám sát hàng Dệt May nhập khẩu từ Việt Nam, EU lên kế hoạch rà soát chống bán phá giá sản phẩm giày da của Việt Nam; Ấn Độ chính thức điều tra chống bán phá giá đối với sợi vải cảu VIệt Nam ; Hiệp hội công nghiệp Giày của Braxin cũng chính thức khởi kiện giày dép Việt Nam bán phá giá. Tình trạng này đã đang và sẽ còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Mặt khác, trong khi thực hiện các cam kết trong các hiệp định gia nhập WTO, các hiệp định thương mại khu vực ( ASEAN, ACFTA), các doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ động tận dụng các lợi ích và cơ hội do các cam kết hội nhập đem lại; mặt khác lại thụ động lúng túng trong việc đối phó với các thách thức xảy ra. Chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cảu hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
Cuối năm 2008, sang năm 2009, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu ngấm đòn khủng hoảng
Suy thoái kinh tế toàn cầu tác đáng kể đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam mà kênh truyền dẫn tác động của suy thoái chính là hoạt động xuất khẩu với tổng kim ngạch tương đương 70% GDP. Trong mười tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 13,8% so với năm 2008. Sự sụt giảm này còn thấp hơn ở hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, song điều này sẽ làm cho 2009 trở thành năm đầu tiên có tăng trưởng xuất khẩu âm kể từ khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế. Mức sụt giảm này còn lớn hơn nếu lượng xuất khẩu vàng (hơn 2 tỷ USD) trong quý I/2009 không được vào thống kê tổng giá trị xuất khẩu.
Bảng 2.5. Giá trị xuất khẩu
Giá trị (triệu USD),2008
Tăng trưởng ( %)
2008
10M-08
10M-2009
Tổng giá trị xuất khẩu
62,685
29.1
36.7
-13.8
Dầu Thô
10,357
22.0
43.2
-43.0
Ngoài dầu thô
52,328
30.6
35.4
-7.6
Gạo
2,894
94.3
83.4
-7.8
Các mặt hàng nông sản khác
5,505
17.2
20.0
-19.9
Thuỷ hải sản
4,510
19.8
23.7
-8.7
Than đá
1,388
38.8
57.4
-19.4
Dệt may
9,120
17.7
20.3
-1.5
Giày dép
4,768
19.4
16.9
-16.1
Điện tử và máy tính
2,638
22.5
27.3
0.1
Thủ công mỹ nghệ ( bao gồm cả vàng)
1,363
65.1
95.7
154.3
Sản phẩm từ gỗ
2,829
17.7
18.6
-14.0
Sản phẩm khác
17,312
44.3
52.9
-16.5
Nguồn: Tổng cục thống kê. Tăng trưởng tính trên cùng kì năm trước.
Như vậy khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự giảm mạnh nhu cầu nhập khẩu tại các quốc gia cũng như sự suy giảm khả năng thanh toán tại các thị trường, làm cho giá cả một số mặt hàng giảm mạnh trong những tháng đầu năm. Vì vậy mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể về lượng hàng hoá xuât khẩu, song xuất khẩu đa số các mặt hàng đều giảm về mặt giá trị, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể, 11 tháng của năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đạt 51 tỷ USD. Như vậy ước thực hiện tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008 ( riêng yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD ). Trong đó: nhóm hàng công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm tỷ trọng 31,2% tổng kim ngạch, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 45,8% và nhóm nông lâm thuỷ sản chiếm 23%.
Nhìn vào xuất khẩu thì thấy một số mặt hàng phát triển tương đối tốt, vượt cả kế hoạch, ví dụ như hạt tiêu tăng hơn 5%, đặc biệt gạo đã tăng tới 24,4% so với kế hoạch, than đá và dầu thô cũng duy trì được kim ngạch. Xuất khẩu nông sản được xem là thành công khi tính đến thời điểm hiện nay, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đã đạt khoảng 15 tỷ USD, trong đó nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thủy sản trên 4 tỷ USD, lâm sản trên 2 tỷ USD. Trong khi đó, đối với lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đã gần chạm đích khi kim ngạch có thể đạt 9,1 tỷ USD, da giầy đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều nỗ lực ước đạt 2,7 tỷ USD, chỉ thấp hơn năm 2008 khoảng 100 triệu USD. Tuy vậy, trong bức tranh xuất khẩu, có nhiều mặt hàng bị giảm mạnh như mây tre đan, cói thảm, đồ gốm sứ, dây cáp điện, túi xách. Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực cũng giảm như thuỷ hải sản chỉ bằng 73,1% so với kế hoạch, hạt điều bằng 89%.... Điều này chứng tỏ kinh tế thế giới tuy đã phục hồi nhưng sức mua chưa đủ mạnh, chưa thật sự ổn định, đặc biệt đối với một số mặt hàng có giá trị cao thì nhu cầu bị tiết giảm. Một điều nữa có thể thấy là giá xuất khẩu năm 2008 rất cao. Do đó, năm 2009 rất khó để đạt được mức giá như năm 2008. Nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng về lượng, nhưng lại giảm về kim ngạch. Vì vậy với kim ngạch xuất khẩu đạt được 56,5 tỷ USD cũng là một sự cố gắng lớn của nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh suy thoái kinh tế vừa qua.
Hình 2.4. Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân TM của Việt Nam năm 2009
Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.2.1. Kim ngạch xuát khẩu giảm sút do sự bảo hộ tại thi trường nước ngoài, nhu cầu nhập khẩu giảm , sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng
Khủng hoảng kinh tế xảy ra, hàng loạt doanh nghiệp phá sản. Chỉ riêng ở Mỹ, trong tháng 9/2008 đã có thêm 159 ngàn việc làm bị cắt giảm.Tại Châu Á và Châu Âu, con số này cũng đang gia tăng nhanh. Mất việc đồng nghĩa không có thu nhập để chi trả dịch vụ. Bên cạnh đó, những lo ngại về sự xấu đi của nền kinh tế và khả năng mất việc làm trong tương lại gần đã buộc người dân phải cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu mà trước hết là mặt hàng cao cấp. Đây là nguyên nhân khiến thị trường bán lẻ ảm đạm và các hệ thống bán lẻ bị đóng của hàng loạt. Tại Pháp sức mua cuối năm 2008 giảm 0,4% và cả năm chỉ tăng 0,7% so với 3,3% của năm 2007. Dưới tác động của khủng hoảng, nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường lớn đều giảm, kéo theo nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường lớn đều giảm mạnh. Bên cạnh đó, tỷ giá EUR biến động sẽ là bất lợi cho xuất khẩu Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phấn lớn là gia công. Nếu xuất khẩu sang EU, các doanh nghiệp thường nhập khẩu bằng USD, trả các chi phí khác bằng VND và bán vào thị trường sử dụng EURO. Hiện đồng USD đang tăng giá so với EURO, sức ép giảm giá EURO càng lớn. Như vậy, chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ tăng trong khi doanh thu thì khó tăng.Ngoài ra, việc các nước sử dụng hàng rào kỹ thuật, thương mại để hạn chế nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, chống thâm hụt thương mại cũng gây khó khăn cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
Vì sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12 năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm 2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008.Nhờ xuất khẩu quý IV tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 ước tính đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1%, đóng góp 23,5% mức giảm chung của xuất khẩu hàng hoá cả năm; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%, đóng góp 76,5%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,2% so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2009 ước tính đạt 9 tỷ USD, giảm 1,3% so với năm trước; dầu thô 6,2 tỷ USD (giảm 2,4% về lượng và giảm tới 40% về kim ngạch), chiếm tới 68% mức giảm chung của tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm; thủy sản đạt 4,2 tỷ USD, giảm 6,7%; giày dép đạt 4 tỷ USD, giảm 15,8%; gạo đạt 2,7 tỷ USD (tăng 25,4% về lượng và giảm 8% về kim ngạch); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,6 tỷ USD, giảm 9,9%; cà phê đạt 1,7 tỷ USD (tăng 10,2% về lượng và giảm 19% về kim ngạch); than đá đạt 1,3 tỷ USD (tăng 29,9% về lượng và giảm 4,5% về kim ngạch).
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu bình quân năm 2009 ước đạt gần 4,72 tỷ USD/tháng, thấp hơn 520 triệu USD so với mức bình quân năm 2008 (5,22 tỷ USD/tháng). Tuy nhiên, nếu loại trừ yếu tố đột biến về thị trường và giá hàng hoá trên thế giới năm 2008, xuất khẩu năm 2009 vẫn có tốc độ tăng khá so với dãy số thời gian của các năm trước: tăng 74,1% so với năm 2005, tăng 41,8% so với năm 2006, tăng 16,3% so với năm 2007. Trong đó xuất khẩu của khu vực FDI vẫn giữ vị trí quan trọng. Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu nhiều mặt hàng, đặc biệt là nhóm hàng công nghiệp chế biến. Một số mặt hàng khối FDI chiếm tỷ trọng lớn là: túi xách, va li mũ ô dù, hàng dệt may, giày dép, điện tử, máy tính, máy móc, thiết bị, dây cáp điện. Nhóm hàng công nghiệp chế biến là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất (63,5%) trong xuất khẩu của Việt Nam hiện nay và tỷ trọng xuất khẩu của FDI cũng chiếm cao nhất
Hình 2.5. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2005 - 2009
.
Nguồn: Báo cáo tỉnh hình thực hiện kế hoạch năm 2009 của ngành công thương - Bộ công thương
Hình 2.6. Thay Đổi kim ngạch xuất khẩu theo ngành năm 2009
2.2.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn đơn điệu, lạc hậu chậm đổi mới, đồng thời do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính nên xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm thuỷ sản và khoáng sản đều bị giảm sút do giá giảm.
Cơ cấu các nhóm hàng hoá xuất khẩu trong năm 2009 so với cơ cấu hàng xuất khẩu các năm trước có thể thấy vẫn chưa xuất hiện mặt hàng nào có khả năng tăng trưởng mạnh đủ để dẫn dắt tốc độ tăng xuất khẩu. Trong năm 2008, cơ cấu các mặt hàng XK ở mức thấp như khoáng sản xấp xỉ 2%, công nghiệp nặng chiếm 1,6%, công nghiệp nhẹ (dệt may, giầy da …) chiếm 5,7%, máy móc công nghệ cao chỉ chiếm có 8,3%. Trong khi các nước ASEAN 6 (trừ Brunei), đưa ra 20 mặt hàng XK lớn trong đó hàng linh kiện điện tử bán dẫn chiếm 17,9%, máy xử lý nguyên liệu chiếm 7,5% kim ngạch XK. Như vậy nếu Việt Nam không thay đổi cơ cấu XK dài hạn thì hoạt động XK sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Đây có thể coi là nguyên nhân chính tác động tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. Sang năm 2009, các sản phẩm thô vẫn chiém tỷ trọng lớn trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, sản phẩm chế biến và những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao chỉ chiếm một phần nhỏ. Xuất khẩu, sản phẩm khai
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25676.doc