MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA 2
1.1. Tổng quan về đôla hóa 2
1.1.1. Khái niệm đôla hóa 2
1.1.2. Phân loại đôla hóa 2
1.2. Nguyên nhân dẫn đến đôla hóa 8
1.3. Tác động của đôla hóa 11
1.3.1. Tác động tích cực 12
1.3.2. Tác động tiêu cực 13
1.4. Các biện pháp hạn chế đôla hóa 16
1.4.1. Biện pháp hành chính 16
1.4.2. Biện pháp kinh tế 17
1.5. Kinh nghiệm hạn chế đôla hóa của một số quốc gia trên thế giới 18
1.5.1. Argentina 18
1.5.2. Cuba 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM 22
2.1. Khái quát nền kinh tế Việt Nam 22
2.2. Mức độ và các biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 23
2.2.1. Mức độ đôla hóa ở Việt Nam 23
2.2.2. Biểu hiện đôla hóa ở Việt Nam 25
2.3. Nguyên nhân dẫn tới đôla hóa ở Việt Nam 30
2.4. Ảnh hưởng của đôla hóa tới nền kinh tế Việt Nam 39
2.5. Thực trạng hạn chế đôla hóa ở Việt Nam 42
2.5.1. Khái quát hoạt động của Vụ quản lý ngoại hối 43
2.5.2. Chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam 44
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 48
3.1. Định hướng về vấn đề hạn chế tình trạng đôla hóa 48
3.2. Giải pháp 49
3.2.1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND 49
3.2.2. Đối với các kênh ngoại tệ dẫn vào trong nước 55
3.2.3. Xóa bỏ hoạt động nhận tiền gửi ngoại tệ và tín dụng
ngoại tệ của các NHTM 58
3.2.4. Về dự trữ ngoại hối 60
3.2.5. Về thị trường tiền tệ 61
3.2.6. Về môi trường pháp lý và công tác tuyên truyền giáo dục 62
3.3. Một số kiến nghị 63
KẾT LUẬN` 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2439 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gược lại trong giai đoạn 2001 đến 2005, người dân gửi VND vào ngân hàng tăng lên, trong khi các doanh nghiệp đi vay lại muốn lựa chọn vay bằng USD do chênh lệch lãi suất tiền vay bằng USD và VND khá lớn (khoảng 5-7%). Tổng tài sản ngoại tệ thuần của hệ thống NHTM tăng liên tục từ 6.6 tỷ USD năm 2000 lên 10 tỷ USD năm 2005. Tỷ trọng tín dụng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong các NHTM tăng từ 20.7% năm 2000 lên 24.5% năm 2004 đạt gần 103 tỷ (theo báo cáo của IMF năm 2006). Trong giai đoạn này mặc dù tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi có giảm xuống mức 30% song số tuyệt đối vẫn liên tục tăng từ 4.85 tỷ USD năm 2000 lên 8.85 tỷ USD năm 2005. Số liệu mới nhất của Thời báo Sài Gòn: tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của NHTM và tổ chức tín dụng khác trên địa bàn thành phố HCM đạt 259,705 tỷ tăng 37.5% so với cuối năm 2005 trong đó vốn huy động ngoại tệ đạt 85,675 tỷ chiếm 32.99% tăng 43% so với năm 2005 và vốn huy động nội tệ đạt 174.030 tỷ chiếm 67.01% tăng 35% so với năm 2005. Như vậy có thể nói mức độ đôla hóa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay trong hệ thống NHTM ở VN hiện đang ở mức khá cao.
Thứ ba, hoạt động mua bán, trao đổi ngoại tệ diễn ra một cách tự do và công khai trên thị trường ngầm (thị trường phi chính thức, thị trường chợ đen).
Trong Thông tư số 33/NH-TT ngày 15/3/1989 về hướng dẫn thi hành Điều lệ quản lý ngoại hối đã nêu rõ: “Việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ được thực hiện thông qua ngân hàng và các tổ chức kinh doanh, dịch vụ được phép thu ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua, bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trường ngầm”. Như vậy thị trường ngầm là thị trường diễn ra hoạt động trao đổi, mua bán ngoại tệ không được pháp luật công nhận. Sở dĩ sự tồn tại của thị trường ngầm làm tăng tình trạng đôla hóa ở VN vì: NHNN luôn khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM đồng thời pháp luật VN có một số quy định hạn chế đối với những đối tượng được mua ngoại tệ tại các NHTM nhằm hạn chế việc sử dụng rộng rãi ngoại tệ trên lãnh thổ VN, nhưng do tỷ giá ở các NHTM luôn thấp hơn tỷ giá trên thị trường ngầm nên để có lợi người dân đem ngoại tệ bán trên thị trường ngầm, bên cạnh đó những đối tượng không đáp ứng được yêu cầu của các NHTM thì tiến hành giao dịch trên thị trường ngầm, từ đó ngoại tệ được cung ra công chúng nằm ngoài sự kiểm soát của NHNN. Ở VN, thị trường chính thức là các điểm giao dịch của hệ thống ngân hàng, cửa hàng vàng bạc của các Doanh nghiệp Nhà nước. Còn thị trường ngầm tồn tại dưới những hình thức sau: các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ tiền mặt; Chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền qua biên giới không thông qua hệ thống ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau; Các sạp đổi tiền dọc biên giới nơi các hoạt động buôn lậu diễn ra; Các hoạt động mua bán khác trong dân cư. Phương thức giao dịch mua bán chủ yếu trên thị trường ngầm là phương thức trao tay. Đồng tiền giao dịch chủ yếu là USD, ngoài ra còn một số ngoại tệ khác nhưng khối lượng giao dịch rất nhỏ bé. Tất nhiên ở quốc gia nào cũng tồn tại thị trường ngầm vì trên thực tế không thể có sự ăn khớp hoàn toàn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do, tuy nhiên, ở VN thị trường ngầm không những tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ.
Bảng 2.2: Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do USD/VND.
Năm
Tỷ giá chính thức
Tỷ giá thị trường tự do
1985
15
115
1986
80
425
1987
368
1270
1988
3000
5000
1989
3900
4750
1989
3900
4750
1990
5133
5610
1991
9274
9546
1992
11179
11334
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do vì trong thời gian qua tỷ giá vẫn được xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN, chưa phải là tỷ giá phản ánh cung cầu trên thị trường. Từ năm 1999 đến nay NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay vào đó là việc công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá 0.1% so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên ± 0.25% và đến ngày 3/1/2007 biên độ này tiếp tục được mở rộng lên 0.5%. Đây là bước cải cách có ý nghĩa lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang cơ chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu thị trường, đó là cơ chế thả nổi có điều tiết. Tuy nhiên do NHNN vẫn quy định biên độ dao động đối với tỷ giá mua và bán của các NHTM nên vẫn tồn tại sự chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị trường ngầm. Đặc biệt trong những giai đoạn mà thị trường có xu hướng cầu lớn hơn cung trong khi tỷ giá mua của các NHTM đã tăng kịch trần và họ không thể tự động điều chỉnh tăng tỷ giá. Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự tồn tại của thị trường ngầm là: mặc dù thị trường ngoại hối chính thức đã hình thành nhưng còn kém phát triển chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về giao dịch, kinh doanh ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là đối với các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp tư nhân. Chính vì vậy để có ngoại tệ tất yếu họ phải giao dịch trên thị trường ngầm.
Ngoài ra chừng nào các hoạt động kinh tế ngầm còn phát triển, thì chừng đó nhu cầu ngoại tệ và các giao dịch về ngoại tệ trên thị trường ngầm còn tồn tại và phát triển. Hoạt động kinh tế ngầm là các giao dịch bằng tiền mặt và không có hóa đơn. Những giao dịch này được thực hiện không có sự kiểm soát của Nhà nước và nhằm trốn thuế hoặc tránh để các cơ quan chức năng kiểm tra phát hiện. Trong khi đó theo quy định của Pháp lệnh ngoại hối: “Người cư trú, người không cư trú có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của tổ chức tín dụng khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các loại giấy tờ, chứng từ đã xuất trình cho tổ chức tín dụng được phép”. Theo quy định này những giao dịch liên quan đến ngoại tệ phục vụ cho các hoạt động kinh tế ngầm không thể được thực hiện qua các tổ chức tín dụng. Tất yếu họ phải giao dịch trên thị trường ngầm để tránh sự kiểm soát của các tổ chức tín dụng.
2.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM
Đôla hóa ở VN là hiện tượng USD được sử dụng rộng rãi, được công chúng nắm giữ trong tích lũy, trong thanh toán thậm chí trong cả việc niêm yết, thông báo giá cả hàng hóa, dịch vụ. Có thể đưa ra một số nguyên nhân dẫn tới tình trạng đôla hóa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất trong một thời gian dài tỷ lệ lạm phát của VND ở mức cao đã dẫn đến sự mất lòng tin của công chúng đối với VND. Lạm phát là sự gia tăng mức giá chung trong nền kinh tế. Lạm phát làm xói mòn giá trị thực tế của đồng tiền dẫn tới chí phí trong việc sử dụng đồng tiền đó trong giao dịch cao, theo thời gian để mua được cùng một đơn vị hàng hóa, dịch vụ người dân phải bỏ ra một lượng tiền nhiều hơn. Chính điều này đã kích thích người dân tìm kiếm một sự thay thế, nắm giữ một đồng tiền có tính ổn định cao hơn.
Bảng 2.3: Tỷ lệ lạm phát ở VN từ năm 1986 đến nay.
Năm
Lạm phát (%)
Năm
Lạm phát (%)
1986
774.7
1998
7.8
1987
223.1
1999
0.1
1988
393.8
2000
-0.6
1989
37.7
2001
0.8
1991
64.6
2002
1.5
1992
17.36
2003
3.0
1996
4.5
2004
9.5
1997
3.6
2005
8.4
1998
7.8
2006
6.6
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước và IMF)
Trong giai đoạn 86-90, nền kinh tế VN không chỉ chứng kiến hiện tượng lạm phát phi mã với mức đỉnh điểm 774.7% năm 1986 mà còn ghi nhận sự thành công trong việc chống và kiềm chế lạm phát, đến năm 1989 đạt mức 37.7%. Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác song hiện tượng siêu lạm phát của VN gắn chặt với sự gia tăng kỷ lục về tốc độ tăng trưởng tiền trong lưu thông (CU). CU tương ứng là 272.7% năm 1987, 399.5% năm 1988 cũng như sự gia tăng quá mức của sự tăng trưởng cung tiền mở rộng (M2): 320.5% năm 1987, 445.4% năm 1988 do tiến hành bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Tốc độ lưu thông tiền tệ (v) trong nền kinh tế cũng cao kỷ lục đạt mức 6.09 lần và 6 lần trong hai năm 1987, 1988. Mức tín dụng trong nước cũng trong tình trạng quá nóng với tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 429% năm 1986, 394.9% năm 1988.
Giai đoạn 90-94: lạm phát cao với tỷ lệ bình quân 34.3% và đạt đỉnh điểm 67.5% năm 1991. Mặc dù tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong giai đoạn này đã được điều tiết sát hơn với tín hiệu của thị trường nhưng lại tăng vọt vào năm 1991. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dẫn tới đổ bể các tổ chức tín dụng năm 1990 tác động xấu tới tâm lý người dân từ đó dẫn tới tăng giá chung trong nền kinh tế.
Giai đoạn 95-04: Hiện tượng giảm lạm phát tương ứng 12.7% năm 1995 xuống 0.1% năm 1999 và hiện tượng giảm phát -0.6% năm 2000. Lạm phát tái xuất 0.8% năm 2001 và lên tới 9.5% năm 2004. Có một số nguyên nhân giải thích cho tỷ lệ lạm phát cao vào năm 2004 là: VN chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, giá dầu trên thế giới tăng…tạo ra cú sốc về cung, lạm phát ở đây là lạm phát chi phí đẩy. Tuy nhiên nếu nhìn vào những nước có cùng hoàn cảnh như nước ta: cũng chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm lại tiêu thụ xăng nhiều hơn ta như Trung Quốc chiếm 7.2% mức tiêu thụ xăng trên thế giới song chỉ số giá cũng chỉ có 4%. Như vậy chi phí đẩy không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn tới tỷ lệ lạm phát cao trong năm 2004, phải kể đến một nguyên nhân quan trọng nữa đó là tốc độ bơm tín dụng vào nền kinh tế để đẩy mạnh tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng ở mức 9.5% trong năm, NHNN đã có những chính sách để tăng tốc độ tín dụng trong nền kinh tế như bơm thêm tiền vào hệ thống các NHTM…tín dụng tăng dẫn đến đầu tư tăng từ đó làm tăng tổng cầu. Tổng cầu tăng => giá tăng và lạm phát xảy ra. Tốc độ tăng tín dụng năm 2004 ở mức 42% so với mức 32.4% năm 2003 và 25.5 năm 2002.
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức độ cao trong khi đó lãi suất tiền gửi VND không mấy hấp dẫn hơn so với USD. Thực tế này đã khiến cho người dân có suy nghĩ rằng: lãi suất tiền gửi VND không đủ để bù đắp sự giảm giá của VND do vậy nếu họ gửi tiết kiệm bằng VND trong các NHTM thì tiền của họ sẽ ngày càng mất giá. Hệ quả là họ đem VND đổi lấy ngoại tệ mạnh có tính ổn định cao hơn như USD, EUR để gửi tại các NHTM. Điều này giải thích cho sự tăng lên không ngừng trong doanh số tiền gửi ngoại tệ tại các NHTM. Với doanh số tiền gửi ngoại tệ không ngừng tăng lên, các NHTM cũng phải tìm cách để cho vay số ngoại tệ này, tránh tình trạng tồn đọng vốn. Đây chính là hiện tượng đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa cơ cấu dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng. Đặc biệt trong thời gian gần đây sức mạnh của USD trên thị trường tiền tệ thế giới có sự thay đổi dẫn đến sự thay đổi trong điều hành chính sách tiền tệ của FED, trong đó có chiến dịch tăng lãi suất cơ bản. Trong năm 2004, để đối phó với tình trạng lạm phát gia tăng, FED đã 3 lần tăng lãi suất cơ bản. Năm 2005 tiếp tục là một chiến dịch tăng lãi suất cơ bản của Mỹ từ 3.75% vào cuối năm 2004 lên tới 4.75% và cho đến nay duy trì ở mức 5.25%. Theo hiệu ứng các NHTM trong nước đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi USD, lãi suất tiền gửi VND cũng phải tăng theo nhưng không đáng kể trong khi lạm phát vẫn ở mức cao từ đó thu hút lượng tiền gửi ngoại tệ vào các NHTM.
Thứ hai, nguồn ngoại tệ dồi dào chảy vào Việt Nam trong thời gian qua. Đầu tiên phải kể đến nguồn ngoại tệ có được từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2006 đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư nước ngoài FDI vào VN. Cả nước có 833 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký 7.838 triệu USD và 486 dự án tăng vốn đầu tư 2.362 triệu USD gộp lại là 10,2 tỷ USD. Đây là năm có vốn FDI cao nhất trong gần hai thập kỷ vừa qua, kể từ khi Quốc hội ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại VN vào tháng 12/1987. Có thể nhận thấy đồ thị FDI vào VN là một đường cong, ba năm đầu kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài 1998-1990 vốn FDI còn ít; bảy năm tiếp theo 1991-1997 đường cong lên dần và đạt đỉnh vào năm 1997 ; sau đó sáu năm 1998-2003 đường cong giảm xuống rõ rệt. Năm 2004 FDI bắt đầu hồi phục. Chỉ riêng năm 2004, VN thu hút được khoảng 4.1 tỷ USD vốn FDI tăng khoảng 35% tương ứng với 1.2 tỷ USD so với năm 2003 là 2.9 tỷ USD. Đến năm 2005 FDI đã tăng trưởng mạnh và năm 2006 đạt được nhiều kỷ lục về vốn đăng ký mới, vốn đầu tư tăng thêm và vốn thực hiện. Năm 2006 được coi là mở đầu cho một thời kỳ mới, vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục được nâng cao sau khi VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị APEC 14 và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh, tạo môi trường pháp lý bình đẳng thông thoáng và minh bạch cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước: Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp cùng với Luật đấu thầu, Luật cạnh tranh, Luật sở hữu trí tuệ và một số luật khác được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chính những yếu tố trên đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài từ đó góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta.
Một kênh tiếp theo mà qua đó ngoại tệ được chuyển vào nước ta là đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế trung gian tài chính khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia hoạt động quản lý đầu tư. Làn sóng FII đầu tiên vào VN xuất hiện khi một số quỹ đầu tư từ nước ngoài như Vietnam Lazard Fund, Templeton Vietnam và Beta Fund được thành lập ở thị trường VN với số vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á (1997), phần lớn các quỹ đầu tư đã rút khỏi thị trường VN chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) do công ty Dragon Capital (Anh) quản lý. Làn sóng FII thứ hai được khởi động lại từ năm 2002, khi những nhà đầu tư nước ngoài nhìn thấy cơ hội kinh doanh lớn từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của VN, với sự xuất hiện của quỹ Mekong Enterprise Fund với số vốn 18.5 triệu USD. Từ đó đến nay VN đã tiếp nhận thêm hơn 10 quỹ, với tổng số vốn đã vượt qua con số 1 tỷ USD trong đó có quỹ Vietnam Holding có số vốn 112 triệu USD, với 60% được huy động từ các nhà đầu tư Thụy Sĩ. Theo ông Nguyễn Quang Vinh, giám đốc công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt - nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đang lập kế hoạch đầu tư vào VN. So với các quỹ thành lập trong giai đoạn đầu của thị trường như Dragon Capital, Mekong Capital và Vina Capital, các quỹ mới có quy mô lớn hơn rất nhiều. Cùng với việc thành lập các quỹ vào VN, số nhà đầu tư nước ngoài (gồm cả cá nhân và các tổ chức) đầu tư vào thị trường chứng khoán VN đang tăng nhanh, đặc biệt trong thời gian gần đây khi thị trường chứng khoán VN đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ.
Vay nợ nước ngoài cũng là một kênh dẫn nguồn ngoại tệ vào nước ta. Vay nợ nước ngoài là các khoản vay ngắn trung hoặc dài hạn (có hoặc không phải trả lãi) do Nhà nước VN, Chính phủ VN hoặc doanh nghiệp là pháp nhân VN (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Các khoản vay nợ như sau được xếp vào vay nợ nước ngoài: Vay ODA, tín dụng thương mại của Chính phủ và doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ các nước, các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài…; phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế của Chính phủ và DNVN…Vay nợ nước ngoài hiện nay ở VN chủ yếu là ODA-nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức với quy mô lớn, lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài. Trong thời gian gần đây nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho VN tăng khá đều:
Bảng 2.4: vốn ODA cam kết tài trợ và được giải ngân gđ 2001-2005:
Năm
Số cam kết tài trợ (tỷ)
Giải ngân
(tỷ)
2002
2.6
1.55
2003
2.83
1.42
2004
3.4
1.6
2005
3.5
1.7
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước-2006)
Nguồn ngoại tệ dồi dào còn được chuyển vào nước ta thông qua con đường kiều hối. Theo ước tính, trong hơn 10 năm qua, tổng số lượng kiều hối chuyển vào nước ta thông qua con đường chính thức và phi chính thức lên đến khoảng từ 17 đến 19 tỷ USD, trong đó, số lượng kiều hối qua con đường chính thức (theo thống kê của Hải quan, các Công ty dịch vụ kiều hối và các ngân hàng) như sau:
Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối vào VN giai đoạn 1991-2004
(Đơn vị: triệu USD)
( Thời báo kinh tế-kinh tế VN và thế giới 2006)
Từ biểu đồ trên cho thấy, lượng kiều hối chuyển qua con đường chính thức năm sau liên tục tăng so với năm trước (trừ năm 1997). Nếu kiều hối năm 1991 chỉ đạt 35 triệu USD thì đến năm 2004, lượng kiều hối đã lên đến trên 3tỷ USD. Trong điều kiện kinh tế nước ta với giá trị kiều hối lên đến trên 3 tỷ USD/ năm, thì kiều hối là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, có tác động tích cực trong việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá, là nguồn ngoại tệ quan trọng cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên bên cạnh luồng kiều hối vào VN theo con đường chính thức, thì một bộ phận lớn kiều hối chảy vào VN theo con đường không chính thức, gọi là “kiều hối lậu”. Kiều hối lậu chuyển vào VN chủ yếu bằng tiền mặt USD, do Việt Kiều thu gom ở nước ngoài và trực tiếp chuyển về nước, và được trao tận tay cho người nhận. Cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành của VN không cấm đưa kiều hối vào VN dưới bất kỳ hình thức nào, miễn là khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan hải quan theo quy định. Trên thực tế người nhận “kiều hối lậu” rất ít khi gửi, bán ngoại tệ cho ngân hàng mà chủ yếu là nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc bán trên thị trường ngầm. Theo ước tính, nguồn “kiều hối lậu” hàng năm không dưới 1 tỷ USD, tạo nên nguồn USD trôi nổi khá lớn trên thị trường ngầm, nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Bên cạnh đó, đối với nguồn kiều hối chính thức, cơ chế quản lý ngoại hối cho phép việc chi trả bằng ngoại tệ tiền mặt cho người thụ hưởng trong nước cũng là nguyên nhân tạo nên lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngầm.
Kênh thứ năm làm tăng nguồn ngoại tệ vào VN là tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm.
Bảng 2.5: Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2006
Năm
Tổng kim ngạch XK (triệu USD)
Năm
Tổng kim ngạch XK (triệu USD)
2001
15.027,0
2004
26.504,2
2002
16.705,8
2005
32.233,0
2003
20.149,3
2006
39.745,3
(Nguồn: Thời báo kinh tế-kinh tế VN và thế giới 2005-2006)
Lượng khách du lịch quốc tế vào VN ngày càng tăng cũng làm tăng nguồn ngoại tệ vào VN. Khách quốc tế chi tiêu một lượng tiền mặt ngoại tệ rất lớn ở VN, bên cạnh đó số lượng người nước ngoài đến VN làm việc, sinh sống, học tập ngày càng tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người VN và tiền chi trả các dịch vụ khác.
Ngoài ra còn có tiền lương, thu nhập của người VN làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài ở VN được trả bằng ngoại tệ. Đặc biệt một kênh dẫn ngoại tệ vào VN nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước góp phần làm gia tăng mạnh mẽ hiện tượng đôla hóa nền kinh tế là lượng ngoại tệ có được từ hoạt động buôn lậu và các hoạt động kinh tế ngầm khác.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về ngoại hối, sử dụng ngoại tệ vẫn chưa đầy đủ, chặt chẽ, khâu thực thi pháp luật vẫn còn yếu kém từ đó dẫn tới tình trạng giao dịch bằng ngoại tệ vẫn diễn ra phổ biến. Hiện nay pháp luật VN không có quy định hạn chế việc sử dụng ngoại tệ là nơi cất trữ giá trị. Theo tinh thần của Pháp lệnh ngoại hối, người dân muốn nắm giữ tài sản bằng đồng tiền nào là quyền của họ, cần tạo điều kiện cho người dân có tài sản hợp pháp được cất trữ dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính vì thế khi người dân không còn lòng tin vào nội tệ đặc biệt trong những thời kỳ lạm phát cao, tất yếu họ nắm giữ những tài sản bằng ngoại tệ, hoặc nắm giữ ngoại tệ tiền mặt để bảo đảm giá trị của những tài sản đó. Còn đối với chức năng phương tiện thanh toán, NHTW tiếp tục có những bước đi hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ tràn lan trên lãnh thổ VN, cụ thể trong Pháp lệnh ngoại hối có quy định: nghiêm cấm triệt để các giao dịch, niêm yết, định giá, thông báo giá, quảng cáo bằng ngoại tệ giữa các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam; hạn chế đến chấm dứt việc các tổ chức được bán hàng cung cấp dịch vụ thu ngoại tệ tại VN. Tuy nhiên do khâu thực thi pháp luật còn yếu kém nên giao dịch bằng ngoại tệ vẫn diễn ra phổ biến.
Bên cạnh đó phải kể đến nguyên nhân xuất phát từ mệnh giá VND. Đồng tiền VN mệnh giá nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 được đưa vào lưu thông từ năm 2003, trong khi đó tờ 100USD tương ứng với gần 1.6 triệu VND. Do vậy sử dụng USD tiện lợi hơn cho người dân trong các giao dịch lớn như mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô đặc biệt khi người dân vẫn có tâm lý ưa chuộng sử dụng tiền mặt trong thanh toán, việc mang USD theo người sẽ an toàn và tiện lợi hơn rất nhiều so với VND.
2.3. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐÔLA HÓA TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Thông qua quan sát niêm yết, thông báo giá và bán hàng hóa, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng, bạc quy mô lớn, ghi nhận từ các giao dịch kinh tế ngầm và tỷ lệ huy động, cho vay ngoại tệ tại các NHTM…có thể thấy mức độ sử dụng đôla trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm và chính thực trạng này đã có tác động không nhỏ tới nền kinh tế.
Thứ nhất, với tâm lý ưa chuộng sử dụng USD người dân sẽ đem đổi nội tệ để lấy ngoại tệ => cầu USD tăng => USD tăng giá và VND giảm giá, tỷ giá có xu hướng tăng một chiều. Theo lý thuyết khi nội tệ giảm giá sẽ kích thích xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, nhưng trong điều kiện thực tế của VN nhập khẩu giảm không đáng kể do năng lực sản xuất và quản lý của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu kém, trong khi chúng ta xuất khẩu những sản phẩm thô hoặc sản phẩm thuộc những ngành hàng cần nhiều sức lao động do đó doanh thu từ xuất khẩu không lớn. Bên cạnh đó, khi USD lên giá làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng từ đó dẫn tới sự tăng giá chung đối với các hàng hóa trong nước, gây áp lực lạm phát.
Thứ hai, mặc dù pháp luật VN luôn khuyến khích các cá nhân tổ chức có nguồn thu từ ngoại tệ: doanh nghiệp xuất khẩu, những người làm việc trong những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong các tổ chức quốc tế, những người nhận được nguồn kiều hối từ nước ngoài…bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng được phép, nhưng trên thực tế những đối tượng này không bán lại cho các tổ chức tín dụng, hoặc họ nắm giữ ngoại tệ tiền mặt, hoặc họ gửi tiết kiệm tại các NHTM. Điều này giải thích tại sao nguồn ngoại tệ chảy vào VN dồi dào tuy nhiên cung ngoại tệ cũng không tăng lên đáng kể. Cung ngoại tệ chính là nguồn để tăng dự trữ ngoại hối quốc gia, cung ngoại tệ không tăng đáng kể dẫn tới dự trữ ngoại hối quốc gia không đủ lớn để NHNN có thể điều hành chính sách tỷ giá một cách hiệu quả.
Thứ ba, tình trạng đôla hóa càng phát triển càng tạo điều kiện và kích thích thị trường ngoại tệ ngầm phát triển, khi đó có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế: đã gây khó khăn và làm giảm hiệu lực của việc thực thi và điều hành chính sách tiền tệ do hoạt động của thị trường này nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó hoạt động của thị trường ngoại tệ ngầm còn tiếp tay cho những hoạt động kinh doanh bất hợp pháp như: buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…
Thứ tư, đối với trường hợp đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng: Tiền gửi ngoại tệ của công chúng vào hệ thống ngân hàng ngày càng tăng, khi đó để tránh tình trạng tồn đọng vốn và có được nguồn thu để trả lãi cho khách hàng, các NHTM phải tìm cách cho vay bằng ngoại tệ (USD). Cho vay bằng USD với các doanh nghiệp nhập khẩu và họ phải trả gốc và lãi cho ngân hàng bằng ngoại tệ, tuy nhiên họ lại bán hàng trong nước và thu về nội tệ. Trong điều kiện tỷ giá có những biến động bất thường, các doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro tỷ giá từ đó gây rủi ro cho ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi vẫn chưa có nhiều các biện pháp phòng ngừa rủi ro để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Còn đối với các ngân hàng, rủi ro mà họ gặp phải trong trường hợp này là rủi ro tín dụng từ đó có thể dẫn tới rủi ro thanh khoản: khách hàng đến rút tiền mà ngân hàng không có khả năng thanh toán. Một trong những biện pháp có thể giúp các NHTM đối phó với tình huống này là vay tiền từ NHTW có nghĩa là NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM, tuy nhiên trong điều kiện VN, dự trữ ngoại hối còn mỏng, NHTW khó có thể thực hiện được vai trò này của mình.
Bên cạnh đó đôla hóa nguồn vốn huy động cũng khiến các NHTM trong nước bị động về lãi suất. Lãi suất ngoại tệ trong nước và thị trường quốc tế ở đâu cao hơn, dòng tiền gửi ngoại tệ sẽ chảy đến đó. Nếu nhận thấy lãi suất tiền gửi trên thị trường quốc tế cao hơn, người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ngoại tệ của mình ở ngân hàng trong nước để gửi ở ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp này, các ngân hàng trong nước có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để giữ được người gửi tiền, các n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp hạn chế tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay.doc