MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN MỸ 3
1.1. Tổng quan về thị trường Mỹ 3
1.1.1. Khái quát về nền kinh tế Mỹ 3
1.1.2. Quan hệ thương mại Việt Nam – Mỹ 4
1.2. Khái quát về ngành thuỷ sản Mỹ 5
1.2.1. Hoạt động khai thác thuỷ sản 5
1.2.2. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản 6
1.2.3. Hoạt động chế biến thuỷ sản 7
1.3. Tình hình nhập khẩu hàng thuỷ sản của Mỹ 7
1.3.1. Tình hình tiêu thụ một số loại sản phẩm thuỷ sản chính tại Mỹ 7
1.3.2. Sản lượng nhập khẩu 8
1.3.3. Cơ cấu sản phẩm nhập khẩu 10
1.3.4. Cơ cấu thị trường nhập khẩu 12
1.4. Kênh phân phối hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ 14
1.4.1. Kênh bán buôn 14
1.5.2. Kênh bán lẻ 15
Chương 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA CÔNG TY SEPRODEX HÀ NỘI VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 17
2.1. Tổng quan về công ty Seaprodex Hà Nội 17
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 17
2.1.2. Cơ cấu bộ máy quản lý 19
2.1.3. Nguồn lực: 19
2.1.3.1. Vốn và cơ cấu vốn: 19
2.1.3.2. Lao động: 21
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh 21
2.1.4.1. Doanh thu 21
2.1.4.2. Lợi nhuận: 22
2.1.4.3. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu 23
2.1.5. Hoạt động Marketing-Mix 24
2.2. Môi trường Marketing tại thị trường Mỹ 29
2.2.1. Môi trường kinh tế 29
2.2.1.1. Thông tin kinh tế chung 29
2.2.1.2. Hệ thống tiêu thụ 30
2.2.1.2 Mức tiêu thụ 31
2.2.2. Môi trường luật pháp 31
1.2.2.1. Hàng rào thuế quan 31
1.2.2.2. Hàng rào phi thuế quan 33
2.3. Tình hình xuất khẩu sản phẩm của công ty vào thị trường Mỹ 35
2.3.1.Tình hình xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ 35
2.3.1.1. Kết quả 36
2.3.1.2. Thuận lợi 38
2.3.1.3. Khó khăn 38
2.3.2.Tình hình xuất khẩu của Seaprodex Hà Nội vào thị trường Mỹ 41
2.3.2.1. Kết quả 41
2.3.2.2. Thuận lợi 42
2.3.2.3. Khó khăn 42
Chương 3: GIẢI PHÁP MARKETING-MIX CHO SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY SEAPRODEX HÀ NỘI XUẤT KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 44
3.1. Sở thích và xu hướng tiêu dùng hàng thuỷ sản của người dân Mỹ 44
3.2. Chiến lược của công ty Seaprodex Hà Nội xuất khẩu vào Mỹ 45
3.3. Chiến lược sản phẩm xuất khẩu 45
3.3.1. Quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn của Mỹ 48
3.3.2. Thiết kế bao bì và nhãn mác sản phẩm phù hợp với yêu cầu của Mỹ 50
3.4. Chiến lược giá xuất khẩu 50
3.4.1. Các phương pháp tính giá xuất khẩu 50
3.4.2. Các biện pháp điều tiết giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong điều kiện bị áp thuế chống bán phá giá 52
3.5. Chiến lược phân phối tại thị trường Mỹ 53
3.6. Chiến lược xúc tiến vào thị trường Mỹ 55
3.6.1. Tham gia các hội chợ thuỷ sản quốc tế 55
3.6.2. Quảng cáo qua trang Web của công ty 59
3.6.3. Thư điện tủ 60
3.6.4. Thư chào hàng 61
KẾT LUẬN 62
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2997 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp Marketing – Mix cho sản phẩm của công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Thuỷ sản Hà Nội xuất khẩu vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những năm vừa qua.
- Chữ cái “ S” và dòng chữ SEAPRODEX là nhằm chỉ Seaprodex Hà Nội trước đây là một thành viên, công ty con trực thuộc Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam ( SEAPRODEX VIỆT NAM ). Hiện nay, tuy công ty đã chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần hoạch toán độc lập về kinh tế song nó vẫn chịu sự quản lý về hành chính của Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam.
Giá cả
Tuỳ theo yêu cầu về phương thức thanh toán của khách hàng mà công ty có các cách tính giá bán khác nhau ví dụ như tính theo giá FOB hay giá CIF. Sản phẩm của công ty chủ yếu xuất qua đường cảng biển vì vậy chịu ảnh hưởng rất nhiều của giá cước vận chưyển. Trong mấy năm gần đây do chịu tác động của việc tăng giá xăng dầu nên cước phí vận chuyển đã tăng khá cao làm ảnh hưởng không nhỏ tới giá bán sản phẩm của công ty tại các thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó chi phí về nhân công, ngưyên liệu chế biến trong nước cũng không ngừng tăng nhanh làm độn chi phí sản xuất sản phẩm lên cao. Sản lượng đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết. Trong vài năm gần đây thường xuyên xảy ra bão, lũ...làm giảm sản lượng thuỷ sản gây lên tình trạng khan hiếm nguồn hàng cho xuất khẩu.
Kênh phân phối
Kênh phân phối của công ty được tổ chức bao gồm cả kênh quốc tế và kênh nội địa. Tuy nhiên, kênh phân phối quốc tế hay hoạt động xuất khẩu sẽ được ưu tiên phát triển hơn.
Hình 2.3 : Kênh phân phối sản phẩm của Seaprodex Hà Nội
SEAPRODEX HÀ NỘI
Phòng kinh doanh
XNK Thuỷ sản
Phòng Thuỷ sản
Nội địa
Nhà nhập khẩu
nước ngoài
Các cửa hàng, đại lý trong nước
Các cửa hàng, đại lý tại nước ngoài
Khách hàng
Trong các nhà nhập khẩu thì thị trường Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn nhất với trên 70% sản lượng xuất khẩu của công ty. Khi xuất sang thị trường Nhật công ty thông qua một số nhà phân phối lớn trong đó lớn nhất là công ty Nichirei. Đây là bạn hàng truyền thống quen thuộc từ nhiều năm nay của công ty khi thâm nhập tại thị trường Nhật. Nichirei luôn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong cả sản lượng cũng như giá trị xuất của công ty.
Định hướng trong các năm tới của công ty là tập trung mọi nỗ lực cho các thị trường truyền thống đồng thời mở rộng phát triển thêm các thị trường mới như: thị trường Nam Phi, Hàn Quốc....Ngoài ra công ty cũng chuyển hướng hoạt động sang thị trường nội địa nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước về mặt hàng thuỷ sản đang ngày càng tăng cao.
Xúc tiến hỗn hợp
- Quảng cáo: công ty thường xuyên quảng cáo qua nhiều kênh và phương tiện khác nhau như: Tạp chí Thuỷ sản, Tạp chí Nông nghiệp Việt Nam. Trang web của công ty đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc nhanh chóng của khách hàng và người tiêu dùng. Tại địa chỉ website: www.seaprodexhanoi.com.vn khách hàng có thể trực tiếp liên hệ tìm hiểu thông tin về sản phẩm và thực hiện việc giao dịch ban đầu là đặt hàng trước qua địa chỉ email sau đó đến công ty liên hệ sau.
- Hoạt động tuyên truyền và PR: Hàng năm công ty thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước nhằm giới thiệu về sản phẩm của công ty tới đông đảo người tiêu dùng như: Hội chợ Vietfish, Hội chợ Xuân...
2.2. Môi trường Marketing tại thị trường Mỹ
2.2.1. Môi trường kinh tế
2.2.1.1. Thông tin kinh tế chung
- GDP: 11.750 tỷ USD (năm 2004).
- GDP/đầu người: 40.100 USD/đầu người (năm 2004).
- Dân số: trên 200 triệu người ( năm 2004).
- Thông tin kinh tế khác: Là nước có nền kinh tế năng động, cường quốc số một thế giới về kinh tế. Ngành công nghiệp chiếm 18%, nông nghiệp chiếm 2% và dịch vụ chiếm 80% GDP. Nhập khẩu năm 2003 đạt 1.500 tỷ USD (tăng 8,3% so với năm 2002), xuất khẩu đạt 1.000 tỷ USD (tăng 4,6 % so với năm 2002).
Từ các số liệu sơ bộ chung trên chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung của môi trường kinh tế Mỹ như:
Quy mô thị trường: thị trường Mỹ rất rộng lớn với số dân đông, nhu cầu đa dạng và phong phú về chủng loại, cơ cấu sản phẩm tiêu dùng. Bên cạnh đó do người dân Mỹ có thu nhập bình quân đầu người cao nên khả năng chi trả cũng rất cao, tần suất mua cao.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường: Mặc dù có những khó khăn nhất định trong thời gian vừa qua nhưng thị trường Mỹ vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương và chất lượng tăng trưởng tốt. Nếu xét về gí trị tăng trưởng thực thì Mỹ vẫn có giá trị tăng trưởng cao nhất thế giới.
Mức độ hấp dẫn của thị trường: Thị trường Mỹ rất rộng lớn và tiềm năng với tất cả các loại sản phẩm và các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới. Vì vậy, tất cả đều coi thị trường Mỹ là thị trường tiềm năng ở hiện tại hoặc là mục tiêu hướng đến trong tương lai. Do đó mức độ cạnh tranh tại thị trường này với tất cả các loại sản phẩm là rất gay gắt.
2.2.1.2. Hệ thống tiêu thụ
Hệ thống tiêu thụ thuỷ sản của Hoa Kỳ rất tiện lợi, trong đó có các hệ thống cung ứng nhà hàng, hệ thống cung ứng cho các cơ sở ăn uống công cộng ở các trường học, các chợ bán cá cho các hộ gia đình. Hệ thống phân phối hiện đại, sử dụng kho lạnh đảm bảo việc cung ứng hải sản sản xuất trong nước và hải sản nhập khẩu vừa đáp ứng về thời gian, vừa đảm bảo chất lượng cao. Hệ thống bán lẻ gồm các chuỗi siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, cửa hàng, câu lạc bộ và các chợ cá. Hệ thống phân phối đến các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ trên cả nước thông qua khoảng 2.800 cơ sở phân phối và các nhà buôn. Nhà nhập khẩu cũng có thể là các chủ tàu hoặc công ty đánh bắt thuỷ sản ở trong nước cũng như ngoài nước. Họ có thể cũng là chủ nhà máy sơ chế. Hệ thống trung gian gồm các công ty thương mại hoặc hệ thống bán lẻ có nhu cầu gia công hàng tại các cơ sở chế biến. Nhà máy chế biến cũng có thể là nhà phân phối.
2.2.1.2 Mức tiêu thụ
Những năm qua, người tiêu dùng Hoa Kỳ ngày càng ưa chuộng sản phẩm tôm chế biến và tôm đông lạnh. Trong thực đơn của nhiều nhà hàng, các món ăn chế biến từ tôm ngày càng phổ biến. Mức chi tiêu cho thuỷ sản tại các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ năm 2003 của người tiêu dùng đạt 61,2 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2002- mức tăng hàng năm cao nhất kể từ năm 1997. Năm 2002, người tiêu dùng Hoa Kỳ chi khoảng 55,1 tỷ USD cho thuỷ sản, trong đó 38,4 tỷ USD tại các cơ sở dịch vụ thực phẩm và 16,4 tỷ USD tại các cơ sở bán lẻ. Doanh số bán sản phẩm giá trị gia tăng (GTGT) năm 2002 đạt 283,1 triệu USD. Theo Cục nghề cá biển Hoa Kỳ, năm 2003 người tiêu dùng Hoa Kỳ chi 42 tỷ USD cho thuỷ sản tại các cơ sở dịch vụ thực phẩm và 18,9 tỷ USD tại các cửa hàng bán lẻ. Doanh số bán sản phẩm GTGT đạt 290,4 triệu USD.
2.2.2. Môi trường luật pháp
1.2.2.1. Hàng rào thuế quan
Các luật thuế
Luật thuế 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, chống việc nhập khẩu hàng giả. Hiện nay những điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực tuy nhiên mức thuế suất đã giảm đi nhiều.
Luật thương mại năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động buôn bán, cho phép việc đền bù cho các ngành công nghiệp của Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng hoá nhập khẩu.
Hiệp định Thương mại năm 1979: bao gồm các điều khoản về sự bảo trợ của Chính phủ về các hàng rào kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế.
Luật tổng hợp thương mại và cạnh tranh năm 1988: Luật này uỷ nhiệm tổng thống Mỹ tham gia vòng đàm phán Urugoay, đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá của Mỹ thâm nhập thị trường và vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ.
Quy định mới của Mỹ về việc đặt cọc tiền thuế đối với hàng nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu sang thị trường này: Theo quy định mới, khoản tiền đặt cọc sẽ tương đương với giá trị thuế chống bán phá giá tính trên tổng lượng hàng hoá mà một công ty nhập khẩu (từ nước bị áp thuế chống bán phá giá) trong vòng 12 tháng.
Luật đền bù phá giá và trợ giá tiếp diễn năm 2000: Luật này cho phép trực tiếp rót các khoản tiền thu được từ việc áp thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ giá cho các công ty Mỹ đã tham gia khởi kiện bán phá giá để đòi phải áp đặt các loại thuế này.
Mức thuế
Mức thuế tối huệ quốc (MFN) hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên WTO và những nước chưa phải là thành viên của WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ. Mức thuế MFN nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40% trong đó hầu hết các mặt hàng đều chịu thuế từ 4% đến 7%.
Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên của WTO và chưa ký hiệp định thương mai song phương với Mỹ như Lào, Cuba, Triều Tiên. Mức thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110% vao hơn nhiều so với mức thuế MFN.
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences-GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển được Mỹ cho hưởng GSP nên được miễn thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ.
Các ưu đãi thuế quan khác: Mỹ còn dành ưu đãi thuế quan cho những hàng hoá nhập khẩu thuộc diện hưởng lợi của Luật thương mại các sản phẩm Ô tô, máy bay dân dụng, sản phẩm Dược...
1.2.2.2. Hàng rào phi thuế quan
Quy định về Vệ sinh an toàn thực phẩm
Theo luật tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài đều chịu sự điều tiết của các luật Liên bang như: Luật về Thực phẩm-Dược phẩm, Luật về Bao bì và Nhãn hàng và một số phần của luật về Dịch vụ y tế. Ngoài hệ thống pháp luật liên bang thì mỗi bang hoặc khu hành chính đều có hệ thống pháp luật và các quy định riêng.
Bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Mỹ đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn ...như các sản phẩm nội địa. Riêng với các sản phẩm thuỷ sản, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì phải áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho các sản phẩm của mình.
HACCP là một tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo cách tiếp cận mang tính phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. US FDA là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra tiêu chuẩn HACCP.
Các quy định về kiểm dịch: bao gồm các quy định về chất phụ gia, chất kháng sinh và phẩm mầu thực phẩm.
Quy định về nhãn mác
Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép một nhãn hiệu đã đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ.
Kể từ ngày 1/1/2006, bất kỳ loại thực phẩm nào có chứa các thành phần trong đó có protein trong cá và thuỷ sản có vỏ sẽ phải được ghi nhãn rõ ràng theo quy định mới của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA)
Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
Thị trường Mỹ thường yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này thực hiện một số tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, trong đó quan trọng nhất là tiêu chuẩn SA800. Mục tiêu của tiêu chuẩn này là cải thiện điều kiện lao động cho người lao động trên quy mô toàn cầu.
Quy định về bảo vệ môi trường và nguồn lợi
Mỹ đưa ra một số luật chủ yếu nhằm bảo vệ môi trường có sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với những nước xuất khẩu vào thị trường này.
Đạo luật năm 1973 về các loài động vật có nguy cơ bị tiệt chủng: theo luật này thì Mỹ cấm nhập khẩu một số loài được cho là đang có nguy cơ bị tiệt chủng.
Luật bảo vệ động vật hoang dã
Luật thực thi lệnh cấm đánh bắt ngoài khơi xa bằng lưới quét
Gần đây Mỹ cũng đã cấm nhập khẩu tôm tự nhiên.
. Quy định liên quan đến bình đẳng thương mại
- Luật chống bán phá giá
Luật này quy định những biện pháp trừng phạt đối với một quốc gia hay một doanh nghiệp đã bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn giá thành của sản phẩm đó. Luật chống bán phá giá còn cho phép các doanh nghiệp của Mỹ được đệ trình khiếu nại về hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba.
Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng rộng rãi hơn Luật thuế chống trợ giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng hoá khi nó được xác định là hàng nước ngoài đã hoặc sẽ bán phá giá vào thị trường Mỹ với giá “ thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Mỹ thấp hơn giá bán của hàng hoá đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ ba thay thế thích hợp.
- Chống vi phạm sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thương hiệu hàng hoá
- Chống cạnh tranh không bình đẳng
2.3. Tình hình xuất khẩu sản phẩm của công ty vào thị trường Mỹ
2.3.1.Tình hình xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ
Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh thổ thứ ba mà chủ yếu là Xingapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng đáng kể.
Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực tháng 12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ đã phát triển nhảy vọt. Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, đưa Mỹ trở thành một trong những thị trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam.
2.3.1.1. Kết quả
Ngay sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực hầu như tất cả các công ty xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đều chuyển hướng sang thị trường Mỹ và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng kể về nhiều mặt và mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ Việt Nam sang Mỹ đạt trên 80 triệu USD, tăng gấp đôi năm 1997 (40 triệu USD). Năm 1999 kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ vượt qua ngưỡng 100 triệu USD, đạt 130 triệu USD, tăng 62,5% so với năm 1998.
Bảng 2.3 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ
năm 2000 - 2004
Đơn vị : Nghìn USD
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
Tôm nước lợ
185,12
308,70
368,62
468,93
277,45
Cá sống
175
216
201
271
357
Cá Cá sấy khô, ướp muối, hun khói
374
596
722
1,005
3,549
Hải sản thân mềm, nhuyễn thể
8,17
6,16
5,82
7,44
6,18
Cá đông lạnh
6,80
10,22
9,23
10,70
14,71
Cá tươi
9,59
16,64
24,67
23,66
25,38
Cá filê, cá thịt tươi khác
32,61
41,72
69,17
56,45
78,36
Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Mỹ có sự điều chỉnh mạnh và Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999 và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ, tôm chiếm tỷ trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Mỹ (về khối lượng đứng hàng thứ 7). Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường Mỹ.
Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với khối lượng 70.930 tấn thuỷ sản các loại, trị giá 489.03 triệu USD.
Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt 654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do tác động của thuế chống bán phá giá.
Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Mỹ các mặt hàng như mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 602.9 triệu USD. Mỹ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD.
Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ có phần giảm sút, giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ chỉ chiếm 23% trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
2.3.1.2. Thuận lợi
Nguồn lợi thuỷ sản phong phú, sản lượng nuôi trồng lớn:
Việt Nam có biển Đông rộng lớn lại nằm trong vùng biển có khí hậu nhiệt đới nóng ấm là nơi sinh sống của rất nhiều loại thuỷ hải sản như: tôm, cá, mực. Đây chính là điều kiện lý tưởng cho hoạt động đánh bắt thuỷ sản, đặc biệt là đánh bắt xa bờ.
Được hưởng nhiều ưu đãi về thương mại sau khi gia nhập WTO, đăc biệt là sau sự kiện Mỹ ký hiệp định phê chuẩn về quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR). Thuế suất nhập khẩu hàng hoá của chúng ta vào các thị trường lớn trong đó có thị trường Mỹ đã giảm đáng kể. Hàng hoá Việt Nam trong đó có sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu không còn phải chịu chế độ hạn ngạch nữa. Điều đó đã góp phần đáng kể làm tăng kim ngạch xuất khẩu hang thuỷ sản vào thị trường Mỹ trong thời gian vừa qua.
2.3.1.3. Khó khăn
Về khoảng cách địa lý: Mỹ vàViệt Nam ở cách nhau khá xa, khoảng 12 múi giờ. Đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, khoảng cách địa lý có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Mọi giao dịch, trao đổi thông tin, đàm phán thương mại, vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện công cộng đều cần các bên đối tác phải đầu tư thêm thời gian, công sức và tiền bạc. Do khoảng cách xa nên chi phí vận tải đường không, đường biển từ Việt Nam đến Mỹ khá cao, thời gian giao hàng chậm hơn so với các thị trường khác. Đối với mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu thì càng khó khăn hơn rất nhiều. Ngoài chi phí vận chuyển cao, thời gian giao hàng chậm thì chi phí cho việc bảo quản sản phẩm còn rất cao, đặc biệt là các sản phẩm thuỷ sản tươi sống. Vì vậy làm cho chi phí chung của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ là khá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh.
Về khả năng cạnh tranh: Thị trường thuỷ sản Mỹ rộng lớn, có sức hấp dẫn lớn với các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới nên mức độ cạnh tranh tại thị trường này cũng rất gay gắt. Các đối thủ cạnh tranh chính của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam tại thị trường Mỹ chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ. Mỗi nước đều có những lợi thế cạnh tranh riêng về giá, chất lượng, kích cỡ và cơ cấu chủng loại sản phẩm. So với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trên thì sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam có chất lượng tương đương, chi phí sản xuất thấp nên giá khá cạnh tranh, cơ cấu sản phẩm phong phú đa dạng với nhiều loại thuỷ sản khác nhau. Tuy nhiên, điểm yếu của thuỷ sản Việt Nam là vẫn chưa có khả năng thiết lập một hệ thống phân phối và bán hàng trực tiếp tại thị trường Mỹ. Điều này xuất phát từ thực tế khách quan là các sản phẩm của Việt Nam có mặt tại thị trường Mỹ khá chậm so với sản phẩm của các nước Thái Lan, Trung Quốc và một số nước khác. Hàng hoá Việt Nam mới thực sự xâm nhập thị trường Mỹ từ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực, trong khi các đối thủ cạnh tranh của chúng ta có hệ thống phân phối và bán hàng tại thị trường này từ rất lâu. Đây là một thách thức rất lớn đối với thuỷ sản Việt Nam nói chung khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa của Mỹ đang có xu hướng gia tăng: Sản phẩm thuỷ sản của các nước xuất khẩu nói chung và của Việt Nam nói riêng đều đang chịu tác động lớn từ những chính sách bảo hộ này. Mỹ thường đơn phương áp dụng các chính sách bảo hộ thuỷ sản trong nước thông qua các luật, chế tài thương mại mà thực chất đây là một loại rào cản tinh vi. Luật chống bán phá giá của Mỹ được áp dụng rất linh hoạt với quy trình điều tra chống bán phá giá do DOC tiến hành ngày càng trở lên phức tạp, khó lường. DOC sử dụng rất nhiều quy tắccho phép xác định các mức giá mà cơ quan này cho là bán phá giá.
Hải quan Mỹ yêu cầu các nhà nhập khẩu phía họ phải nộp tiền ký quỹ: Đây là một dạng mới của các rào cản thương mại mà phía Mỹ đặt ra nhằm cản trở hoạt động xuất nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam cũng như các nước khác vào thị trường Mỹ. Đó là khoản tiền đóng bảo lãnh thanh toán mà các nhà nhập khẩu phía Mỹ phải nộp khi nhập khẩu thuỷ sản từ các nước phải chịu thuế chống bán phá giá. Số tiền tương đương với giá trị nhập khẩu trong vòng một năm nhân với mức thuế chống bán phá giá mà doanh nghiệp hoặc nước xuất khẩu phải chịu. Khoản ký quỹ này được đóng theo từng năm, dựa vào giá trị xuất khẩu của năm trước và chỉ được hoàn trả lại sau 3 năm khi có được kết quả “review”.
Trước tình hình này, các nhà nhập khẩu của Mỹ đã thay đổi phương thức mua hàng từ hình thức giá CIF trưyền thống sang hình thức mới là DDP (mua hàng ngay trên đất Mỹ). Vì vậy, các nhà xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam lại trở thành người mua hàng của chính mình ngay trên đất Mỹ và họ phải đóng khoản tiền ký quỹ đó thay cho nhà nhập khẩu của mình. Đây là một khó khăn thực sự đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vốn có tiềm lực kinh tế yếu. Họ không có đủ khả năng để nộp khoản ký quỹ hàng năm, do đó làm mất đơn hàng nhập khẩu.
Về nguồn cung ứng chưa ổn định: ngoài nguồn nguyên liệu được cung cấp từ hoạt động đánh bắt chiếm tỉ lệ rất nhỏ thì chủ yếu nguồn cung sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu là từ các vùng nuôi nguyên liệu. Các vùng nuôi thuỷ sản của Việt Nam chưa được quy hoạch tôt mà vẫn càn mang tính tự phát, thiếu tính tập trung và tính chuyên môn hoá chưa cao cả trong khâu nuôi trồng, chăm sóc và thu hoạch sản phẩm. Do đó cũng làm giảm năng suất cũng như chất lượng thuỷ sản. Bên cạnh đó sản lượng đánh bắt cũng như nuôi trồng của chúng ta cũng chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết rất lớn. Hàng năm có đến hàng chục trận bão, lũ lụt thường xuyên xảy ra làm thiệt hại lớn đến ngành thuỷ sản.
Về hệ thống kênh phân phối tại thị trường Mỹ: Các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ mà phải xuất khẩu qua một nước thứ 3 như Hồng Kông, Singapo...Do điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp nên hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa thể triển khai các hoạt động xúc tiến bán tại thị trường Mỹ. Họ chủ yếu phân phối qua các công ty cỡ nhỏ, chưa tiếp cận được với hệ thống phân phối khổng lồ của Mỹ cũng như tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng Mỹ.
Sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu tại thị trường Mỹ: thuỷ sản Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới thương hiệu của một công ty nước ngoài hay thương hiệu nước ngoài. Người tiêu dùng Mỹ còn ít biết đến thương hiệu thuỷ sản Việt Nam mặc dù có thể họ đã sử dụng nhiều lần. Điều này làm giảm giá trị xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam.
2.3.2.Tình hình xuất khẩu của Seaprodex Hà Nội vào thị trường Mỹ
2.3.2.1. Kết quả
Sau khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ có hiệu lực thì cũng như các doanh nghiệp thuỷ sản khác trong cả nước, công ty cũng đã xúc tiến hoạt động xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này.
Bảng 2.4 : Kết quả xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Seaprodex Hà Nội
Năm
Sản lượng (tấn)
Giá trị (USD)
2004
342
2.463.000
2005
650
4.689.000
2006
120
816.000
Nguồn : Phòng Xuất nhập khẩu thuỷ sản
Hiện nay, công ty vẫn đang tiến hành các hoạt động tìm hiểu thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh một số thuận lợi thì hoạt động xuất khẩu của công ty vào thị trường này đang gặp phải một số khó khăn , vướng mắc. Ngoài những thuận lợi và khó khăn chung cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ thì công ty cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng đặc thù của mình.
2.3.2.2. Thuận lợi
Có được nguồn lực tài chính mạnh: đây vốn là công ty nhà nước được thành lập từ rất sớm và mới được cổ phần hoá nên nguồn vốn của công ty được bổ sung mạnh mẽ từ phía nhà nước cũng như sự đóng góp của các cổ đông.
Có cơ sở vật chất tốt: các cơ sở của công ty bao gồm nhà máy chế biến thuỷ sản mới được xây dựng rất hiện đại tại Nam Định, nhà kho lạnh tại Hải Phòng có khả năng bảo quản sản phẩm tốt với công suất cao.
Công ty có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản: trong thời kỳ còn bao cấp cũng như sau này công ty luôn là đơn vị dẫn đầu trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của toàn Miền Bắc.
2.3.2.3. Khó khăn
Nguồn cung nguyên liệu chưa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10040.doc